Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.38 KB, 149 trang )

MỞ ĐẦU

1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay, trong đó,
phát triển CNNT là "chìa khóa" đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Phát triển CNNT ở ĐBSCL hiện đang là một nhu cầu hết sức bức
bách, vì thực tiễn đã chỉ rõ: nếu chỉ dựa vào nông nghiệp thuần nông và độc
canh cây lúa như hiện nay thì kinh tế vùng này không thể phát triển mạnh
và bền vững, đời sống nông dân khó có thể được cải thiện và nâng cao.
Với hy vọng góp phần nhỏ trong việc tìm ra các giải pháp nhằm
đưa ĐBSCL tiến nhanh vào văn minh, hiện đại, tôi chọn vấn đề "Phát triển
công nghiệp nông thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu và viết luận án tiến sĩ
chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Từ cuối thập niên 40 của thế kỷ này, khái niệm “Công nghiệp nông
thôn” xuất hiện và đến nay khái niệm CNNT được dùng rộng rãi như một
phạm trù kinh tế độc lập. Nhưng mãi đến 1981, CNNT ở nước ta mới được
quan tâm và được đặt trong một chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước
mang mã số KX-08: “Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn” với đề
tài “Định hướng và giải pháp công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam” mã số
KX-08-07 do GS Nguyễn Văn Hường, GS Đặng Ngọc Dinh làm Chủ
nhiệm; ở ĐBSH có dự án "Phát triển công nghiệp nông thôn nhằm đa dạng
hóa thu nhập của nông dân vùng có mật độ dân số cao ở đồng bằng sông
Hồng" của tập thể tác giả do GS Hồ Văn Vĩnh làm chủ nhiệm. Ngoài ra
còn có một luận án phó tiến sĩ của Nguyễn Văn Phúc với đề tài "CNNT
1




trong quá trình CNH ở Việt Nam và một số vấn đề kinh tế - xã hội chủ yếu
ảnh hưởng tới sự phát triển của nó" đã bảo vệ năm 1996; v.v...
Đến nay, ở nước ta đã có hơn 60 công trình nghiên cứu và viết về
CNNT. Tất cả các tác giả đều tập trung nghiên cứu CNNT với tư cách là giải
pháp thúc đẩy sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn trong quá
trình CNH, HĐH, đều thống nhất nhận định và đã đạt tới những kết quả sau:
- CNNT là một bộ phận của kinh tế nông thôn và nằm trong kết cấu
công nghiệp chung của cả nước;
- Phát triển CNNT là yêu cầu khách quan cấp thiết của quá trình
CNH, HĐH;
- CNNT có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn;
- Đã đưa ra được những định hướng và nhiều giải pháp cho sự phát
triển CNNT ở nước ta;
Tuy nhiên, việc nghiên cứu CNNT trên địa bàn ĐBSCL hiện vẫn
đang còn ở bước sơ khởi, dưới dạng những điều tra thống kê ngành nghề và
lao động - xã hội trong vùng. Do vậy, phải đi sâu nghiên cứu CNNT trên
địa bàn lãnh thổ ĐBSCL một cách hoàn thiện hơn cả về lý luận và hướng
vận dụng thể nghiệm trong thực tiễn.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Mục đích của luận án:
Xác lập những căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc đề
xuất những quan điểm, định hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy
mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL theo hướng CNH, HĐH.
Nhiệm vụ của luận án:
Để đạt mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận của việc phát triển CNNT
ở ĐBSCL theo hướng CNH, HĐH thông qua việc nghiên cứu quan điểm lý

2


luận của các tác giả kinh điển, các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước; hệ
thống hóa và phát triển những kết quả nghiên cứu về CNNT trong nước và
kinh nghiệm thế giới những năm qua.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển CNNT ở ĐBSCL những
năm đổi mới, rút ra những mâu thuẫn và những tồn tại cần khắc phục để
thúc đẩy phát triển CNNT ở ĐBSCL.
- Luận chứng về những quan điểm định hướng cơ bản cần quán triệt
và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy CNNT ở ĐBSCL
phát triển nhanh, bền vững và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
LUẬN ÁN

- Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động sản xuất công nghiệp
ở nông thôn bao gồm cả tiểu, thủ công nghiệp được tổ chức dưới nhiều
hình thức như hộ gia đình, xí nghiệp tư nhân, cá thể, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước
đang tồn tại và phát triển trên địa bàn nông thôn ĐBSCL, bao gồm cả
những thị trấn, thị tứ trong khoảng thời gian từ 1990 đến nay.
- Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng mác-xít,
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic kết hợp với lịch
sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
phương pháp khảo cứu thu thập kế thừa có chọn lọc những thông tin qua
các công trình nghiên cứu trước đây và qua sách báo kết hợp với đi khảo
sát thực tế và bằng tư duy độc lập để phát triển vận dụng những kết quả
nghiên cứu trước đây vào thực tiễn ĐBSCL.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN


- Xác lập quan niệm khoa học về CNNT làm cơ sở cho việc đi sâu
nghiên cứu CNNT trên địa bàn ĐBSCL.
- Chỉ ra được những điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển
CNNT cùng những đặc điểm chủ yếu của nó.
3


- Từ phân tích những mô hình phát triển CNNT ở các nước và vùng
lãnh thổ đang phát triển trong khu vực luận án đã vạch rõ những ưu, nhược
điểm của các mô hình phát triển CNNT ở các nước đó, rút ra những bài học
kinh nghiệm có ý nghĩa đối với phát triển CNNT ở ĐBSCL.
- Đã phân tích làm rõ thực trạng phát triển CNNT ở ĐBSCL trong
những năm đổi mới, từ đó chỉ ra những mâu thuẫn, tồn tại cần giải quyết để
đẩy mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL trong những năm tới.
- Xác lập được những quan điểm, định hướng cơ bản để phát triển
CNNT phù hợp với điều kiện cụ thể của ĐBSCL.
- Đề xuất có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng những giải pháp
nhằm đẩy mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL trong những năm tới.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án chia làm 3 chương, 9 tiết.

4


Chương 1
CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

Hiện nay hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới đều chú

trọng đến phát triển CNNT và coi đó là một giải pháp hữu hiệu để tạo công
ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo cơ sở để xã hội
nông thôn phát triển ổn định, đồng thời cũng là biện pháp nhằm hạn chế sự
tập trung quá mức dân cư ở các đô thị.
Đối với nước ta, phát triển CNNT không chỉ có tác dụng nâng cao
đời sống dân cư nông thôn, mà còn có tác dụng đưa kinh tế - xã hội nông
thôn tiến lên văn minh hiện đại. Phát triển CNNT đã trở thành một bộ phận
quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đồng
thời là một nội dung trọng yếu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nước ta nói chung, ĐBSCL nói riêng.
Ngoài ra, phát triển CNNT ở ĐBSCL còn là giải pháp nhằm thúc
đẩy nông nghiệp phát triển toàn diện đạt hiệu quả cao, kinh tế - xã hội nông
thôn phát triển bền vững, ổn định tiến lên văn minh hiện đại. Phát triển
CNNT là con đường đưa nông thôn ĐBSCL thoát khỏi đói nghèo, nhân dân
ngày càng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
1.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG
NGHIỆP NÔNG THÔN TRONG LỊCH SỬ

1.1.1. Công nghiệp nông thôn
Ở nước ta, CNNT mới được nghiên cứu từ những năm đầu thập kỷ
90 của thế kỷ XX này và đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 5 khóa VII, ngày 3 tháng 6 năm 1993, thuật ngữ CNNT đã được
chính thức đưa vào văn kiện của Đảng ta [18, 13-14].

5


Hiện nay phát triển CNNT đã trở thành mối quan tâm chung của
các nước đang phát triển trên thế giới và cả ở nước ta. Nhưng do được tiếp
cận ở nhiều giác độ khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về CNNT,

theo đó mỗi nước có cách thức phát triển CNNT riêng cho mình vì vậy kết
quả thu được giữa các nước cũng rất khác nhau.
Trên thực tế, các khái niệm CNNT đã được đưa ra từ hai cách tiếp
cận cơ bản sau: [các quan niệm về CNNT trình bày dưới đây được tổng
hợp từ các nguồn tài liệu: [3, 3], [14], [21], [22], [40, 159-164], [43, 2], [45,
4], [53, 2], [61] ...].
- Cách tiếp cận thứ nhất: CNNT được nghiên cứu dưới giác độ kinh
tế ngành. Tức là đặt CNNT trong sự phát triển theo chiều dọc của ngành
kinh tế công nghiệp và theo đó CNNT được xác định chỉ là một bộ phận
của kinh tế công nghiệp. Với cách tiếp cận này CNNT được xem như một
tổng thể bao gồm nhiều bộ phận thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau.
Do mỗi ngành công nghiệp có đặc điểm riêng, có mối liên hệ khép kín và
kết cấu chặt chẽ cho nên mỗi bộ phận khác nhau của CNNT phải phát triển
theo quy hoạch, kế hoạch riêng của từng ngành công nghiệp cụ thể. Theo
kiểu cách này thì CNNT chắc chắn sẽ phát triển bền vững hơn, nhưng sẽ ít
có tác dụng hơn đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đặc biệt là đối
với sản xuất nông nghiệp. Bởi lẽ, trong trường hợp này, nông thôn chỉ là
nơi tiếp nhận sự phân bổ kế hoạch phát triển của các ngành sản xuất công
nghiệp; là biện pháp nhằm phân tán hóa các cơ sở công nghiệp về nông
thôn để khai thác nguồn lao động rẻ tại địa phương và trong nhiều trường
hợp nó nhằm tránh tình trạng gây ô nhiễm môi trường ở các đô thị.
- Cách tiếp cận thứ hai: CNNT được tiếp cận dưới giác độ kinh tế
lãnh thổ. Theo cách tiếp cận này, CNNT được xem là một bộ phận của kinh
tế lãnh thổ, gồm nhiều ngành công nghiệp khác nhau và được phát triển
trong các mối quan hệ kinh tế - xã hội khép kín trong phạm vi một địa bàn
nông thôn nhất định. Điều đó có nghĩa là việc phát triển CNNT phải xuất
6


phát từ những nhu cầu cần thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn

và chỉ dựa chủ yếu vào các nguồn lực có sẵn tại địa phương.
Tuy nhiên do xuất phát từ những khía cạnh khác nhau của kinh tế
lãnh thổ nên cũng đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm CNNT.
Cụ thể có mấy loại quan niệm như sau:
Loại quan niệm thứ nhất:
CNNT là những cơ sở công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn,
trong đó bao gồm cả dịch vụ và thương mại, bất kể do ai quản lý. CNNT
đồng nghĩa với những ngành phi nông nghiệp.
Quan niệm này không thực tế vì: một là, có những cơ sở công
nghiệp tuy đóng trên địa bàn nông thôn nhưng không gắn bó với sự phát
triển của nông nghiệp và nông thôn; hai là, dịch vụ, thương mại tuy có vai
trò quan trọng trong kết cấu kinh tế nông thôn nhưng không phải là những
ngành sản xuất. Do vậy CNNT không thể bao gồm toàn bộ những cơ sở
công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn và cũng không thể bao gồm cả
những ngành phi sản xuất.
Loại quan niệm thứ hai:
CNNT là bộ phận công nghiệp phục vụ nông thôn.
Quan niệm này quá rộng vì có nhiều xí nghiệp công nghiệp phục vụ
nông thôn rất đắc lực nhưng lại đóng ở các thành phố.
Loại quan niệm thứ ba:
CNNT là bộ phận công nghiệp của nông thôn do địa phương quản
lý và chỉ bao gồm tiểu, thủ công nghiệp.
Quan niệm này quá hẹp, vì: một là, các cơ sở công nghiệp đóng trên
địa bàn nông thôn không do địa phương quản lý, nhưng lại phát triển gắn
bó với kinh tế - xã hội nông thôn thì lại không được liệt vào CNNT; hai là,
nếu CNNT chỉ bao gồm tiểu, thủ công nghiệp thì không thể nào đáp ứng
được yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
7



Những lập luận trình bày trên cho thấy, nếu nhìn một cách phiến
diện từ giác độ kinh tế ngành hay kinh tế lãnh thổ đều không thể có nhận
thức đúng đắn về CNNT. Do vậy muốn có nhận thức đúng đắn về CNNT
thì cần phải xem xét nó trong tổng thể các mối quan hệ của nền kinh tế.
Tức là CNNT phải được xem xét trong cả quan hệ dọc (kinh tế ngành) lẫn
quan hệ ngang (kinh tế lãnh thổ). Đồng thời nó cũng còn phải được xem xét
trong lĩnh vực kinh tế (phát triển lực lượng sản xuất, thỏa mãn nhu cầu của
nền kinh tế quốc dân và thị trường quốc tế) lẫn cả các tác động xã hội (việc
làm, thu nhập, mức sống dân cư)... Ngoài ra CNNT còn phải được xem xét
trong mối quan hệ với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Hiện nay việc áp dụng quan điểm hệ thống vào nghiên cứu tìm ra
những giải pháp phát triển CNNT nhằm thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH
nền kinh tế đất nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã
được các nhà nghiên cứu nước ta xem trọng và cũng đã đi đến những thành
công nhất định, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế vĩ mô. Trong quá trình
nghiên cứu đó, đã có một số nhà khoa học nhất trí cho rằng: "CNNT là một
bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bổ ở
nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, bao gồm
nhiều ngành nghề đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất
nông nghiệp. CNNT không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp
hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn mà bao
gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp
ở nông thôn của:
Thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp.
Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Các hợp tác xã và các tổ hợp, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công
nghiệp.
8



Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực
phẩm hoặc các xí nghiệp khai thác quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó
trực tiếp gắn với kinh tế địa phương" [21, 7], [60, 118], [72, 5-6].
Quan niệm CNNT với nội dung như trên đã làm rõ được vị trí của
CNNT trong nền công nghiệp của cả nước, địa bàn hoạt động và mối quan
hệ tác động của nó với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, quy mô,
loại hình kinh doanh.
Trong một công trình nghiên cứu khác, các nhà khoa học cũng đã
cho rằng: "CNNT bao gồm các cơ sở công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ,
được phân bố ở nông thôn, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của địa
phương và do chính quyền địa phương quản lý về mặt nhà nước" [76, 7].
Quan niệm này đã xác định rõ thêm vị trí của CNNT trong chiến lược phát
triển kinh tế của địa phương và vai trò quản lý nhà nước của chính quyền
địa phương đối với phát triển CNNT.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, có thể định nghĩa: "CNNT là một
bộ phận của kết cấu ngành công nghiệp, được hình thành và phát triển ở
nông thôn; bao gồm các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tồn tại dưới
nhiều hình thức, thuộc nhiều thành phần kinh tế, có quy mô vừa và nhỏ; hoạt
động trong nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng gắn bó mật thiết với sản
xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn do địa phương quản lý về mặt
nhà nước".
Theo định nghĩa trên thì CNNT sẽ bị chi phối bởi tính quy định về
sự phát triển chung của công nghiệp cả nước trong đó trực tiếp nhất là công
nghiệp trên các địa bàn thuộc tỉnh và vùng lãnh thổ. Sự phát triển của
CNNT là kết quả của sự phát triển phân công lao động xã hội tại chỗ nhằm
đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đang đặt ra ở nông thôn, trong đó tác
dụng chủ yếu của CNNT là phục vụ trước hết cho lợi ích của nhà đầu tư
nói riêng và dân cư nông thôn nói chung. Chính vì thế nên nó được sự quan
tâm đầu tư phát triển bởi nhiều thành phần kinh tế và được tổ chức sản xuất

9


dưới nhiều hình thức phong phú đa dạng tùy theo điều kiện của từng nhà
đầu tư cụ thể. Do đó sự đa dạng hóa về hình thức sở hữu và tổ chức sản
xuất là một trong những đặc tính cơ bản của CNNT.
Theo định nghĩa trên thì CNNT sẽ bao gồm các cơ sở chế biến
nông, lâm, thủy, hải sản; các cơ sở sản xuất, sửa chữa cơ khí và các loại
phương tiện khác phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư nông
thôn; các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất
khẩu; các cơ sở sản xuất trong các ngành nghề truyền thống... với quy mô
vừa và nhỏ thuộc nhiều thành phần kinh tế; tiến hành sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý nhà nước của các cấp chính quyền
địa phương. Như vậy chỉ những cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn có những tác dụng sau đây mới thuộc phạm trù CNNT:
0*

Trực tiếp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên địa bàn phát

triển toàn diện;
1*

Tạo ra nhiều việc làm mới, đẩy mạnh phát triển phân công lao

động xã hội nông thôn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông
thôn;
2*

Thu hút lao động từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và


dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn;
3*

Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ

thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ;
4*

Tạo điều kiện thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển tiến lên

văn minh hiện đại.
Sự khẳng định CNNT bao gồm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
với quy mô vừa và nhỏ hoàn toàn không dựa vào ý chí chủ quan mà là dựa
vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của các vùng nông thôn. Nhìn
chung do đường xá, phương tiện giao thông vận tải, hệ thống thương mại
dịch vụ... ở nông thôn thường trong tình trạng phát triển thiếu đồng bộ và
10


yếu kém hơn so với đô thị nên CNNT chỉ có điều kiện phát triển một cách
phổ biến ở quy mô vừa và nhỏ.
CNNT, do có những đặc tính nêu trên nên tất yếu phải được đặt
dưới sự quản lý của các cấp chính quyền địa phương từ tỉnh đến huyện, xã
và việc phát triển CNNT nhất thiết phải được đặt trong chương trình, kế
hoạch phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của địa phương.
1.1.2. Phân biệt khái niệm CNNT với CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn
CNNT và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là hai khái niệm
khác nhau. Bởi lẽ CNNT là một khái niệm dùng để chỉ một bộ phận của
ngành công nghiệp, còn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện

nay là quá trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông
nghiệp, theo yêu cầu của CNH, HĐH đất nước.
CNH, HĐH là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao" [19, 43], [70, 587]. CNH, HĐH chỉ được tiến hành trong một
giai đoạn lịch sử nhất định ở những nước có nền kinh tế kém phát triển,
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo ra những tiền đề, điều kiện
cần thiết khác cho sự cất cánh của nền kinh tế và sự phát triển của xã hội
trong giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, CNH, HĐH sẽ được triển khai rộng
khắp trên tất cả các ngành và lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong
một quốc gia thông qua con đường phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học - công nghệ.
Ở nước ta CNH, HĐH được bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn với
nội dung đã xác định gồm:
11


5*

Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp.

6*

Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học

7*


Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công

hóa.
nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở
đô thị.
8*

Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các

ngành nghề mới.
9*

Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình

thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [17, 87].
Như vậy, chúng ta có thể hình dung được thực chất của CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay là quá trình phát triển toàn diện
kinh tế - xã hội nông thôn thông qua các biện pháp sau:
* Phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp bao gồm các
ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ
kinh tế kỹ thuật vào nông thôn với tỷ trọng ngày càng lớn nhằm chuyển
dịch và cải biến nền kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế
nông - công nghiệp - dịch vụ.
* Trang bị máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp
để cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp thành nền nông
nghiệp cơ khí hóa, sinh học hóa, năng suất cao, khối lượng hàng hóa lớn.
* Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội
nông thôn (thủy lợi, giao thông, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục, văn
hóa, nhà ở, điện, nước... ) để từng bước đô thị hóa nông thôn.
Chính vì CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chỉ được thực hiện

thông qua hàng loạt các phát triển cụ thể nên nó là khái niệm dùng để chỉ
quá trình biến đổi toàn diện trong kinh tế - xã hội ở nông thôn, trong đó bao
hàm cả quá trình biến đổi của CNNT từ chỗ là các hoạt động kinh tế phụ

12


trong cơ cấu kinh tế thuần nông truyền thống trở thành ngành sản xuất chính
trong cơ cấu kinh tế mới theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành ngoài nông
nghiệp.
Như vậy, phát triển CNNT chỉ là một giải pháp của CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Do vậy, không nên có sự đồng nhất giữa phát triển
CNNT với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tuy nhiên, do phát triển CNNT, đặc biệt là trong giai đoạn CNH
không chỉ có tác dụng giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống cho dân cư và tạo ra sự tăng trưởng về kinh tế trong các ngành sản
xuất công nghiệp ở khu vực nông thôn mà còn tạo ra sự chuyển dịch về cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng vật chất và
xã hội, tạo sự biến đổi sâu sắc trong kinh tế - xã hội nông thôn nên phát
triển CNNT được coi là "chìa khóa" của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của CNNT trong lịch sử
1.1.3.1. Sự hình thành CNNT trong lịch sử phát triển kinh tế - xã
hội của thế giới
- CNNT là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội ngay trên địa bàn nông thôn.
Tiền thân của công nghiệp mà trước hết là CNNT là những hoạt
động thủ công của nông dân nhằm sản xuất ra những sản phẩm cần thiết
trước hết là công cụ sản xuất và sau đó là các vật phẩm tiêu dùng khác để
phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống cho bản thân và gia đình họ. Mặc dù

là những hoạt động sản xuất phụ của nông dân nhưng do được chuyên môn
hóa theo sự phân công nhất định nên năng suất và chất lượng sản phẩm
ngày càng tăng lên, số lượng sản phẩm làm ra không những đáp ứng đủ nhu
cầu tiêu dùng mà còn có dư thừa ngày càng nhiều để đem trao đổi lấy
những sản phẩm tiêu dùng khác. Việc trao đổi sản phẩm thừa lúc đầu chỉ là

13


ngẫu nhiên, nhưng dần dần nó đã trở thành hoạt động có ý thức, do đó các
hoạt động sản xuất thủ công nghiệp ngày càng trở thành hoạt động sản xuất
chủ yếu của một số thành viên trong gia đình nông dân.
Kể từ khi có sự ra đời của những công cụ bằng kim loại, đặc biệt là
công cụ bằng sắt, con người đã có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu
hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, nhờ đó nền sản xuất nhằm để
trao đổi mua bán từng bước ra đời phát triển, đồng thời các hoạt động thủ
công nghiệp cũng dần dần tách khỏi nông nghiệp. Ph. Ăngghen đã viết:
"Của cải tăng lên nhanh chóng, nhưng với tư cách là của cả của cá nhân;
nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim khí và những nghề thủ công khác ngày càng
tách khỏi nhau, đã làm cho sản phẩm của chúng ngày càng có nhiều loại và
ngày càng thêm hoàn hảo về mặt nghệ thuật; bây giờ ngoài ngũ cốc, các
loại đỗ và hoa quả ra, nông nghiệp còn cung cấp cả dầu thực vật và rượu
vang mà người ta đã học được cách làm. Một hoạt động nhiều mặt như thế
không thể chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa, sự phân công lớn lần
thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp... Vì nền sản
xuất bị tách ra thành hai ngành chính, nông nghiệp và thủ công nghiệp nên
đã ra đời nền sản xuất trực tiếp nhằm trao đổi, đó là nền sản xuất hàng hóa"
[1, 242-243]. Kinh tế hàng hóa ra đời đã tạo động lực thúc đẩy các hoạt
động sản xuất của những người thợ thủ công phát triển mạnh mẽ, từ đó
nhiều hộ nông dân đã trở thành hộ sản xuất thủ công nghiệp chuyên sản

xuất một mặt hàng nhất định. Chính vì vậy "công nghiệp chế biến tách khỏi
công nghiệp khai thác, và mỗi công nghiệp đó lại chia ra thành nhiều loại
nhỏ và phân loại nhỏ, chúng sản xuất ra, dưới hình thức hàng hóa, những
sản phẩm đặc biệt và đem trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác" [42,
21]. Điều này có nghĩa là một hệ thống kết cấu công nghiệp gồm nhiều
ngành nghề sản xuất khác nhau trên các địa bàn nông thôn đã nhanh chóng
hình thành và phát triển lớn mạnh ngay sau khi thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng trong các ngành nghề

14


sản xuất thủ công nghiệp đã khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm cũng như
việc cung ứng nguyên liệu ngày càng trở nên khó khăn. Chính vì thế mà
tầng lớp thương nhân ra đời với nhiệm vụ chủ yếu là đảm nhận việc tiêu
thụ sản phẩm và cung ứng nguyên liệu cho các hộ sản xuất thủ công nghiệp
trên khắp các địa bàn nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động
sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp đã tạo ra sự thay đổi căn bản
trong kết cấu kinh tế xã hội nông thôn. Nếu như trong nông thôn trước kia
chỉ có trồng trọt và chăn nuôi thì giờ đây bao gồm cả thủ công nghiệp và
dịch vụ, thương mại với tỷ trọng ngày càng lớn; xã hội nông thôn không
chỉ gồm những hộ nông dân mà còn có cả những hộ thủ công nghiệp và
thương nghiệp nữa. Như vậy sự ra đời của CNNT là kết quả phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
- CNNT chỉ được định hình một cách rõ nét khi các hoạt động sản
xuất công nghiệp trong nông thôn đã trở nên ổn định và chiếm một tỷ lệ
nhất định trong cơ cấu kinh tế nông thôn; sự hoạt động của các hộ, cơ sở
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã thích nghi được trong cơ
chế thị trường.
Dưới sự tác động của kinh tế hàng hóa, các sản phẩm thủ công

nghiệp nổi tiếng của một số hộ nhanh chóng trở thành đối tượng sản xuất
của nhiều hộ khác trong làng và lan sang những làng khác. Điều đó có
nghĩa là các bí quyết về kỹ thuật và công nghệ chế tạo sản phẩm của các hộ
nổi tiếng luôn luôn bị đánh cắp và được nhân rộng ra, gây thiệt hại rất lớn
cho những hộ đó, nhưng dần về sau nó lại trở thành thiệt hại chung cho cả
làng nghề. Tình trạng đó đã buộc những người quản lý trong làng phải đề
ra những quy định khắt khe về các quan hệ giữa người trong làng với người
ngoài làng như không truyền nghề cho con gái hoặc cấm gả con gái sang
làng khác... đồng thời họ còn quy định cả những tiêu chuẩn chất lượng và
giá bán của sản phẩm... nhằm bảo vệ độc quyền sản xuất của làng nghề.
Chính vì vậy mà truyền thống sản xuất của các làng nghề vẫn còn được lưu

15


giữ đến ngày nay. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng chính những quy
định khắt khe trong làng đã gây cản trở rất lớn trong việc mở rộng giao lưu
kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật với bên ngoài, do vậy khó có thể tạo ra
sự phát triển hơn nữa trong các làng nghề.
Sự tác động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng
đã thúc đẩy các hộ sản xuất thủ công nghiệp đi vào quá trình cạnh tranh
ngày càng gay gắt, đặc biệt là ở những nơi không có làng nghề. Kết quả
dẫn đến là một số hộ do sản xuất không đáp ứng được những đòi hỏi của
thị trường, buộc phải phá sản để đi làm thuê hoặc chuyển sang nghề sản
xuất khác. Ngược lại, một số hộ khác lại trở nên giàu có, ra đô thị xây nhà
xưởng, thuê công nhân, tiến hành sản xuất theo phương thức tư bản chủ
nghĩa. Kể từ khi các công trường thủ công ra đời thì sự cạnh tranh giữa nó
với các hộ sản xuất thủ công nghiệp càng diễn ra gay gắt hơn. Tuy nhiên hộ
sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn chẳng những không bị mất đi mà còn
có bước phát triển đi lên nhờ chuyển sang sản xuất những mặt hàng mà

công trường thủ công ở đô thị chưa với tới được hoặc gia công nguyên liệu
cho các công trường thủ công đó. Chính vì vậy mối liên hệ giữa các công
trường thủ công ở đô thị với các hộ tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn ngày
càng được thiết lập chặt chẽ hơn. Về sau này, ngay khi việc áp dụng máy
móc ở các công trường thủ công đã hoàn thành và tiến lên hiện đại như
ngày nay thì CNNT vẫn tồn tại và phát triển đi lên được. Bởi lẽ bản thân
CNNT cũng buộc phải tiến hành cơ giới hóa và hiện đại hóa sản xuất để
tồn tại và phát triển. Mặt khác, do có những ưu thế riêng nên CNNT luôn
năng động tìm được cho mình một thị trường tiêu thụ riêng, có tính chất
đặc thù mà công nghiệp lớn ở đô thị không muốn hoặc không thể vươn tới
được, đặc biệt là những nhu cầu tiêu dùng tại chỗ ở các vùng nông thôn.
Như vậy, sự tồn tại và phát triển của CNNT đã thật sự trở thành một bộ
phận không thể thiếu được trong hệ thống công nghiệp quốc gia và luôn
gắn bó với sự phát triển của kinh tế - xã hội nông thôn.

16


1.1.3.2. Sự hình thành CNNT trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
- CNNT ở nước ta cũng được hình thành trên cơ sở phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trên địa bàn nông thôn, nhưng
có đặc thù là: phát triển gắn liền với lịch sử phát triển làng xã, lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhiều ngành nghề như nghề làm gốm,
nghề mộc, nghề dệt, nghề làm giấy, làm muối, làm đường, làm tương, làm
mắm, nấu rượu, làm nón, đan lát, thủ công mỹ nghệ, trang sức v.v... đã xuất
hiện rất sớm và gắn liền với đời sống của nhân dân ta từ khi dựng nước đến
nay. Ví dụ, nghề đúc đồng đã có từ thiên niên kỷ thứ I, trước công nguyên,
với các trống đồng nổi tiếng, các giáo đồng, mũi tên bằng đồng ở Cổ Loa,
lưỡi rìu đồng, lưới hái, lưỡi cày bằng đồng; nghề giấy cũng xuất hiện từ
những thế kỷ đầu công nguyên. Tiếp theo là kỷ nguyên Văn Lang, tiêu biểu

có những chiếc trống đồng Đông Sơn; đến kỷ nguyên Đại Việt thời cận đại,
Nguyễn Trãi đã viết: nước Đại Việt ta thật là một nước văn hiến, các ngành
nghề thủ công mỗi ngày một phát triển từ lẻ tẻ từng người, từng nơi, đến
tập trung lại thành từng phường nghề, làng nghề và hình thành một lớp thợ
thủ công đông đảo, gắn liền với các chợ để tiêu thụ sản phẩm.
- Đến thời Pháp thuộc, do có sự xâm nhập của hàng hóa từ nước
ngoài vào, nên nhiều ngành nghề ở nước ta đã bị suy giảm. Tuy nhiên, vẫn
còn một số ngành nghề tồn tại và phát triển đi lên được. Hơn nữa, một số
ngành nghề mới cũng đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu đa dạng về hàng
tiêu dùng cho xã hội. Chính vì thế mà ngành nghề ở nông thôn nước ta vẫn
có sự phát triển liên tục. Theo tài liệu điều tra của học giả người Pháp P.
Gourou, năm 1935, ở đồng bằng Bắc Bộ đã có 108 nghề thủ công khác
nhau tập trung thành các làng nghề. Ở Hà Bắc cũ, có hàng trăm làng nghề
thủ công cổ truyền, trong đó có hơn 40 làng nghề có quy mô cả làng. Ở tỉnh
Hải Hưng cũ, có 36 làng nghề thủ công quy mô cả xã [2, 105-107].

17


- Trong thời kỳ bao cấp, các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp ở các vùng nông thôn tuy chỉ được xem là ngành nghề phụ trong
hợp tác xã nông nghiệp và ít được quan tâm đầu tư, nhưng nó vẫn tồn tại,
phát triển và có vai trò lớn trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Đến
năm 1981, ở tỉnh Thái Bình đã có 271 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp
trong nông nghiệp, sử dụng trên 40.000 lao động và đã đóng góp 45,83%
giá trị tổng sản lượng toàn ngành tiểu thủ công nghiệp của tỉnh [49]. Theo
tài liệu trung gian của đề tài "Xây dựng chính sách công nghệ phục vụ phát
triển nông thôn" thì trong ba năm (1986 - 1988) các huyện trung du và đồng
bằng thuộc tỉnh Hà Bắc cũ đã thu hút được 10.600 lao động vào các ngành
nghề phi nông nghiệp trong nông thôn, gấp 6,3 lần số lao động được điều đi

vùng kinh tế mới trong 8 năm (1979 - 1987) mà Nhà nước không phải đầu
tư gì cả. Đến năm 1988, ở Hà Bắc đã có tới 16 làng nghề có doanh thu lên
tới 18 tỷ đồng mỗi làng, đó là: Phong khê (sản xuất giấy dó), Đông Xuất
(sản xuất cày bừa), Đại Bái (sản xuất đồ đồng), Vân Hà (sản xuất rượu),
Đình Bảng (sản xuất đồ mộc chạm trổ)... Thu nhập từ các hoạt động sản
xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề vừa nêu đã chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập của dân cư nông thôn và đã trở thành nguồn thu nhập
chủ yếu.
Bảng 1: Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp
trong tổng thu nhập của một số làng nghề ở Hà Bắc năm 1988
Tên các làng nghề

Tỷ lệ thu nhập phi nông
nghiệp so với tổng số (%)

- Làng Vân Hà

90

- Làng Đa Hội

81

- Làng Mẫn Xá

89

- Làng Phong Khê

80


- Làng Đại Bái

87

18


Nguồn: Kinh tế - Xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập II, Nxb Tư tưởng
Văn hóa, H. 1991, tr. 122.

Nhìn chung đến cuối những năm 80, đã có từ 6,5 - 6,7% tổng lao
động các ngành kinh tế nông thôn tham gia vào các hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp và đã làm ra trên 10% khối lượng hàng tiêu dùng cho toàn xã
hội [2, 122-124].
- Từ sau Nghị quyết 10 Bộ Chính trị khóa VI của Đảng ta đến nay,
các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã có điều
kiện phát triển tốt và đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao thu nhập
cho dân cư nông thôn. Vào năm 1990, các hộ ngành nghề hoặc kiêm
ngành nghề ở nông thôn ĐBSH đã có tổng thu nhập cao gấp 4 lần so với hộ
thuần nông, trong đó thu nhập từ ngành nghề chiếm 38% tổng thu nhập của
họ [11].
Dù đã trải qua nhiều thăng trầm, sóng gió trong lịch sử, nhưng
những ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn nước ta vẫn luôn
được duy trì và phát triển; nó vẫn luôn là một phương tiện mưu sinh và là
cơ sở trọng yếu để nâng cao đời sống của một bộ phận ngày càng lớn dân
cư nông thôn. Điều đó có nghĩa là CNNT ở nước ta là một thực thể luôn
tồn tại. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khóa VII của Đảng ta khẳng định phải phát triển CNNT và xem đó là một
nội dung quan trọng của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

nước ta.
1.1.4. Đặc điểm của CNNT
Sự ra đời và phát triển của CNNT trong tiến trình phát triển kinh tế
- xã hội nông thôn đã cho thấy rõ CNNT có những đặc điểm cơ bản sau:
1.1.4.1. CNNT luôn phát triển gắn bó với kinh tế - xã hội nông
thôn, trước hết là với sản xuất nông nghiệp và ngành nghề truyền thống

19


Điều này đã được thể hiện rõ trong sự tác động qua lại giữa nông
nghiệp và công nghiệp trong tiến trình lịch sử phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn, trong đó mỗi bước chuyển của nông nghiệp từ sản xuất tự cung,
tự cấp sang sản xuất hàng hóa đều có tác dụng thúc đẩy CNNT phát triển.
Bởi vì: "Nông nghiệp càng đi vào lưu thông hàng hóa thì dân cư nông thôn
lại càng đòi hỏi những sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, cần thiết
cho tiêu dùng cá nhân họ và yêu cầu về tư liệu sản xuất tăng lên" [42, 385];
hơn nữa, nó còn bảo đảm về nguyên liệu, lương thực và cung cấp lao động
để CNNT phát triển ổn định, bền vững. Ngược lại, mỗi bước phát triển của
công nghiệp trên địa bàn nông thôn đã có tác dụng làm cho năng suất lao
động trong nông nghiệp tăng lên nhanh chóng, nguồn lương thực, thực
phẩm nuôi sống con người được sản xuất ra ngày càng nhiều, chất lượng
càng cao, chủng loại càng phong phú. Mỗi bước phát triển về chất và lượng
trong mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng đồng thời là
bước chuyển của nền kinh tế - xã hội nông thôn từ kinh tế tự nhiên tự cung,
tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa với năng suất chất lượng ngày càng
cao, trong đó kinh tế công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn cả về mặt
giá trị lẫn mặt lao động. V.I. Lênin đã vạch rõ là: "Tùy theo sự sụp đổ của
nền kinh tế tự nhiên mà các quá trình chế biến nguyên liệu lần lượt làm nảy
sinh ra những ngành công nghiệp riêng biệt; sự hình thành ra giai cấp tư

sản nông dân và giai cấp vô sản nông thôn đã làm tăng thêm yêu cầu về sản
phẩm các nghề thủ công nhỏ của nông dân và đồng thời cung cấp cho các
nghề đó sức lao động tự do và tiền nhàn rỗi" [42, 428]. Chính vì vậy, ngay
từ khi mới ra đời CNNT đã là một bộ phận kinh tế quan trọng cấu thành
nền kinh tế nông thôn.
1.1.4.2. CNNT thường mang nặng tính chất địa phương, có quy mô
nhỏ và vừa, vốn ít, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, tính
cạnh tranh kém

20


CNNT phát triển chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu và lao động tại
địa phương hoặc là dựa vào thế mạnh của địa phương về một trong hai yếu
tố đó. Bởi vì đây là ưu thế lớn nhất đảm bảo cho CNNT tồn tại và phát triển
được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với công nghiệp đô
thị.
Kết quả nghiên cứu của V.I. Lênin về sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản ở Nga đã cho thấy rõ sự phát triển của các ngành nghề chế biến nông
sản ở nông thôn phát triển gắn bó với vùng nguyên liệu: "Vùng có nghề cất
rượu phát đạt nhiều nhất cũng là vùng ở đó thu hoạch ròng về khoai tây
tính theo đầu người đạt tới con số cao nhất" [42, 356]; "Nghề làm bột phát
triển rộng rãi chủ yếu trong những tỉnh không có đất đen, trong vùng công
nghiệp và một phần nào ở những tỉnh đất đen phía Bắc" [42, 362] v.v...
Tương tự, đối với những ngành nghề khác như nghề sản xuất vật
liệu xây dựng, nghề gốm sứ, các nghề thủ công mỹ nghệ ... cũng chỉ phát
triển mạnh ở những vùng có nguồn nguyên liệu dồi dào hoặc là dựa vào
truyền thống nghề nghiệp đang được lưu truyền bởi những nghệ nhân của
từng địa phương. Do vậy, ở nước ta, nghề gốm sứ phát triển nổi tiếng ở Bát
Tràng, Bình Dương; nghề mộc phát triển nổi tiếng ở Đồng Kỵ; nghề chạm

bạc phát triển nổi tiếng ở Đồng Sâm; v.v...
Chính vì ra đời và phát triển trên cơ sở những thế mạnh có tính đặc
thù của từng địa phương cụ thể nên các ngành nghề của CNNT thường
mang nặng tính chất địa phương. Cho nên, mặc dù cùng sản xuất một loại
sản phẩm nhưng sản phẩm của CNNT ở những địa phương khác nhau bao
giờ cũng có sự khác biệt về hình thức, thẩm mỹ, chất lượng, tức là có nét
đặc thù riêng.
CNNT bao gồm những cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ và vừa,
nhưng lại không hoàn toàn giống với những cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa
ở đô thị. Nhìn chung, các cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa ở đô thị hay ở
nông thôn đều có chung đặc điểm là ít vốn, trang thiết bị công nghệ lạc hậu

21


hơn so với các cơ sở công nghiệp lớn đương thời và trong quá trình phát
triển chúng đều hướng tới việc hiện đại hóa sản xuất kinh doanh để đủ sức
đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, do đóng ở nông thôn nên CNNT
thường ít có điều kiện để tiếp cận hệ thống dịch vụ, tư vấn, thông tin, khoa
học, kỹ thuật, thương mại... hiện có, cho nên hoạt động của các cơ sở
CNNT thường kém linh hoạt và kém hiệu quả hơn so với các cơ sở công
nghiệp nhỏ và vừa ở đô thị.
1.1.4.3. CNNT có sự phát triển phong phú đa dạng về ngành
nghề, sản phẩm, hình thức tổ chức và vị trí địa lý
Trong lịch sử, CNNT đã từng đi vào chế tạo công cụ phục vụ sản
xuất nông nghiệp và các phương tiện phục vụ sinh hoạt trong gia đình; đã
từng đi vào chế biến lương thực, thực phẩm; đã từng đi vào sản xuất vật
liệu xây dựng cũng như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ... Ngày nay, sự
phát triển đó vẫn đang còn được đẩy mạnh và đi vào hiện đại hóa.
CNNT cũng được biểu hiện dưới nhiều hình thức tổ chức sản xuất

như: Sản xuất theo hộ gia đình; các loại hình xí nghiệp... hoạt động trên cơ
sở sử dụng lao động gia đình hoặc kết hợp lao động gia đình với thuê mướn
nhân công hay thuê mướn 100% lao động.
Tùy theo sự phát triển về kết cấu hạ tầng mà các cơ sở CNNT có
thể ra đời và phát triển tập trung ở các thị trấn, thị tứ hoặc ở các làng quê
tạo thành nhiều cụm công nghiệp tổng hợp hay các làng nghề ngay trên các
địa bàn nông thôn hoặc được phân bố một cách rải rác trên khắp các địa
bàn nông thôn. Nhìn chung sự phát triển của CNNT về mặt số lượng bao
giờ cũng có mối liên hệ gắn bó với sự phát triển của kết cấu hạ tầng.
Sản phẩm của CNNT không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân
cư trong vùng mà còn được đem tiêu thụ sang các vùng khác trong nước và
ngoài nước.

22


1.1.5. Những điều kiện cơ bản của sự hình thành và phát triển
của CNNT
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
trên các địa bàn nông thôn đã phát triển đến một mức độ nhất định.
Nhìn chung, các hoạt động sản xuất có tính chất công nghiệp như chế
tạo công cụ sản xuất, đồ dùng trong nhà, chế biến, bảo quản nông sản v.v...
đã ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất nông
nghiệp. Trong quá trình đó cũng đã từng có một bộ phận lao động chuyên
nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp và nông thôn để di chuyển vào các đô thị
làm ăn sinh sống trong các phường hội hoặc làm công ăn lương trong các
công trường thủ công, v.v... Nhưng đại bộ phận số lao động còn lại ở nông
thôn vẫn tiếp tục phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, vì họ chưa thể tự tồn
tại và phát triển đi lên được bằng ngay chính bản thân lao động của mình.
Chỉ khi lực lượng sản xuất trong xã hội, trong đó trước hết là trong nông

nghiệp đã phát triển đến mức độ nhất định, do đó có khả năng tạo ra một
khối lượng sản phẩm với chủng loại ngày càng phong phú khiến cho cuộc
sống của con người không phải phụ thuộc chủ yếu vào nguồn sản phẩm tự
nhiên nữa thì bộ phận lao động công nghiệp trong các gia đình nông dân
mới có điều kiện phát triển thành nghề sản xuất chính và dần dần thoát ly
khỏi nông nghiệp. Bởi vì sự phát triển đó có tác dụng vừa kích thích làm
tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp đồng thời vừa tạo ra tiền đề vật
chất cần thiết như cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu v.v... để
đẩy mạnh phát triển các hoạt động công nghiệp trong các hộ gia đình nông
dân dưới những hình thức chuyên môn hóa nhất định. Tuy nhiên, những
điều vừa nêu chỉ phát triển mạnh mẽ khi chế độ nông nô phong kiến đã bị
xóa bỏ. Mọi công dân trong quốc gia đều có quyền tự do di chuyển lao
động và có quyền tự do phát triển sản xuất kinh doanh để trở thành giàu có.
Trên thực tế điều này đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư
sản. Kết quả là số đông nông dân đã bị giải phóng ra khỏi ruộng đất để trở
thành những người tự do đi bán sức lao động, trong khi đó quyền sử dụng
23


ruộng đất lâu dài lại được tập trung vào tay giai cấp tư sản. Tuy vậy, C.
Mác vẫn nhận thấy rằng: "Mặc dù số người cày cấy ruộng đất có giảm đi,
ruộng đất bây giờ vẫn mang lại một số sản phẩm như trước hay nhiều hơn
trước, vì cuộc cách mạng về quan hệ sở hữu ruộng đất đã dẫn theo sự cải
tiến các phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tích tụ các tư
liệu sản xuất v.v... và vì công nhân làm thuê trong nông nghiệp chẳng
những buộc phải lao động căng thẳng hơn, mà lĩnh vực sản xuất trong đó họ
tự làm cho bản thân cũng ngày càng bị thu hẹp lại" [44, 1036]. Điều đó có
nghĩa là lực lượng sản xuất nông nghiệp đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề,
điều kiện cho sự hình thành CNNT.
- Sản xuất tự cấp, tự túc trên các địa bàn nông thôn được thay thế

bằng sản xuất hàng hóa và sản xuất hàng hóa trở thành mục tiêu, động lực
chính đối với hoạt động sản xuất của số đông cư dân nông thôn.
Mặc dù sự phát triển của các hình thức sản xuất công nghiệp đầu
tiên trên các địa bàn nông thôn là do lực lượng sản xuất quyết định, nhưng
nếu sự phát triển đó vẫn còn nằm trong khuôn khổ của sản xuất tự cấp tự
túc thì sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn vẫn chưa thể thoát ly
khỏi sản xuất nông nghiệp để trở thành ngành sản xuất độc lập. Chỉ khi
phần lớn các hoạt động sản xuất của dân cư nông thôn đều nhằm tạo ra
những sản phẩm đem trao đổi mua bán thì CNNT mới được hình thành rõ
nét và phát triển một cách độc lập với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì sự phát
triển của kinh tế hàng hóa có tác dụng thúc đẩy phân công lao động xã hội
ngày một phát triển, sản xuất xã hội ngày càng đi vào chuyên môn hóa làm
cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, số lượng sản phẩm sản xuất
ra ngày càng nhiều hơn, chất lượng tăng lên liên tục nên có thể đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng tăng lên của thị trường. Chính vì vậy nên sự
trao đổi mua bán trong nông thôn ngày càng phổ biến, làm cho thị trường
nông thôn được mở rộng ra liên tục khiến cho mọi sản phẩm sản xuất ra
đều được tiêu thụ hết, do đó các quá trình tái sản xuất trong công nghiệp

24


cũng như trong nông nghiệp sẽ được thực hiện liên tục với quy mô ngày
càng mở rộng. Nhờ đó mà CNNT mới có sự định hình và phát triển đến
ngày nay.
- Sự ra đời của CNNT còn do có sự tác động mạnh mẽ từ phía
nhà nước.
Mặc dù, như C. Mác đã nói: "Tư bản mới ra đời lại có máu và bùn
nhơ rỉ ra từ tất cả các lỗ chân lông, từ đầu đến chân" [44, 1056], nhưng cũng
phải ghi nhận rằng: nhờ có sự tác động mạnh mẽ của nhà nước tư sản nhằm

xóa bỏ tận gốc chế độ nông nô phong kiến đồng thời xây dựng hệ thống
pháp luật cần thiết để xác lập quyền độc lập tự chủ sản xuất kinh doanh đối
với mọi chủ thể sản xuất nên lực lượng sản xuất xã hội mới được khơi dậy,
phân công lao động xã hội mới được đẩy mạnh, do đó kinh tế hàng hóa trên
từng địa bàn nông thôn mới có điều kiện phát triển. Vì vậy công nghiệp
trên các địa bàn nông thôn mới ra đời và phát triển với tư cách là ngành sản
xuất độc lập và trở thành một bộ phận trong kết cấu kinh tế - xã hội nông
thôn. Đó cũng là sự kiện chưa thể xuất hiện ở các chế độ xã hội trước chủ
nghĩa tư bản.
Sự ra đời và phát triển của CNNT trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa
tư bản không chỉ có được môi trường pháp lý thuận lợi như vừa nêu mà còn
do có sự tác động mạnh bởi các chính sách đối nội và đối ngoại, đặc biệt là
các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản nhằm đẩy mạnh sản xuất xuất
khẩu. Chính nhờ ngay từ đầu các nước tư bản chủ nghĩa đã tập trung được
nguồn vốn cho đầu tư phát triển thông qua việc áp dụng nhiều loại thuế,
thực hiện chính sách bảo hộ xuất khẩu, phát triển tín dụng, phát hành công
trái... [44, 1050-1055] nên chỉ trong một thời gian ngắn, công nghiệp các
nước đó, đặc biệt là nước Anh, đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ đó kích
thích CNNT phát triển mạnh theo, nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu sơ
chế từ các loại nông sản cho công nghiệp đô thị.

25


×