Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ GIỮ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội TRUYỀN THỐNG ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.2 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

3

GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA LỄ
HỘI TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN
11

1.1

NAY
Quan niệm về vai trò giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

11

1.2

của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Thực trạng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội

truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Chương 2 YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

30

ĐỂ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH PHÚ
51



2.1

THỌ HIỆN NAY
Yêu cầu của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của

51

2.2

lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
Một số giải pháp cơ bản để giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện
nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

59
81
84
88


2

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng cộng sản Việt Nam coi như là
một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Là giá trị cốt
lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm hồn, cốt cách, lý trí, sức mạnh của
dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc
là một trong những động lực to lớn bảo đảm sự ổn định và phát triển bền
vững của quốc gia dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình
thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Bản sắc đó thể hiện ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực,
trong đó có lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần
đặc biệt được bao thế hệ vun đắp, hun đúc, tạo nên sức sống mãnh liệt gắn
kết các dân tộc Việt Nam thành một cộng đồng để vượt qua mọi khó khăn,
thử thách để tồn tại, không ngừng lớn mạnh và phát triển bền vững và không
dễ bị đồng hóa. Nó là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam, là nguồn
sức mạnh vô địch bảo đảm cho dân tộc Việt Nam trường tồn, phát triển trong
mọi thời đại lịch sử.
Ở nước ta, lễ hội truyền thống được tổ chức bao gồm các loại hình
như: tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị anh hùng có
công với dân với nước, các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, các nghi
lễ… Hàng năm trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội truyền thống được tổ
chức với nhiều hình thức, quy mô và mang ý nghĩa khác nhau. Lễ hội truyền
thống một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể có
giá trị to lớn trong cố kết cộng đồng dân tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con
người hướng về cội nguồn. Đồng thời, lễ hội truyền thống còn có giá trị văn
hoá tâm linh, vừa là không gian thụ hưởng hình thức văn hóa tinh thần của
nhân dân lao động hướng về cái cao cả thiêng liêng của dân tộc. Lễ hội truyền
thống còn là hình thức bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, điều này



3

3

càng có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao
lưu và hội nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa.
Trải theo tiến trình lịch sử dân tộc, do nhiều nhân tố tác động như
chiến tranh khốc liệt hoặc có giai đoạn kinh tế nước nhà kém phát triển, ảnh
hưởng của xu thế toàn cầu hóa nên lễ hội truyền thống ít được chú ý và chưa
phát huy được giá trị đích thực của nó. Vì vậy, nhiều giá trị văn hoá đặc sắc
của lễ hội truyền thống bị mai một, việc nghiên cứu phục dựng lễ hội truyền
thống cũng chưa được quan tâm đúng mức. Bước vào thời kỳ đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trước xu thế toàn
cầu hoá, Đảng ta đã xác định phải gắn kết đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Tiếp
tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng kháng
chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Các giá trị văn
hoá nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc.
Bảo tồn và phát huy văn hoá văn nghệ dân gian [6,tr 56].
Phú Thọ vùng đất Tổ giàu truyền thống lịch sử văn hoá, là trung tâm
sinh tụ của người Việt cổ - nơi ra đời của Nhà nước Văn Lang và kinh đô Văn
Lang, kinh đô đầu tiên của nước Việt Nam. Hiện nay, trên tỉnh Phú Thọ còn
ghi dấu các di tích lịch sử của người Việt cổ và di tích thời Hùng Vương dựng
nước với hàng trăm lễ hội truyền thống và các kho tàng văn hoá dân gian
phong phú. Vì thế, nếu duy trì tốt các lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ sẽ
làm giàu cho bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam càng đặc sắc, đa dạng hơn.
Thực trạng những năm gần đây bên cạnh những thành tựu đạt được
trong tổ chức lễ hội truyền thống. Do tác động mặt trái của nền kinh tế thị
trường và do những biến đổi của lịch sử, giống như ở nhiều địa phương khác
trên cả nước, sinh hoạt của các lễ hội truyền thống trên địa bàn vùng đất Tổ đã

và đang có xu hướng xa rời bản chất đích thực của nó, các giá trị văn hóa dân
tộc chứa đựng trong lễ hội truyền thống đang có nguy cơ bị biến dạng, bị mai
một thậm trí là thương mại hóa lễ hội, đặc biệt ở phần hội đã bị lạm dụng một


4

4

cách thái quá của một số cá nhân, nên đã xuất hiện nhiều hiện tượng biến tướng,
trá hình như đề đóm, cờ bạc, mê tín dị đoan, lợi dụng việc tổ chức lễ hội để buôn
thần, bán thánh, kinh doanh thu lợi nhuận. Những hành vi ứng xử thiếu văn hóa
ở nơi công cộng, nâng giá bắt chẹt khách thập phương, xâm hại các công trình
văn hóa, gây ùn tắc giao thông. Khâu tổ chức ở một số lễ hội phần "lễ" nặng hơn
phần "hội"; các trò vui chơi có thưởng, thực chất là cờ bạc công khai, móc túi du
khách còn nhiều, mà những trò vui mang tính giải trí lành mạnh còn ít... vì thế,
nét đẹp của lễ hội cũng bị giảm đi phần nào. Thay vào đó là các giá trị xa lạ với
văn hóa truyền thống, với thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm xói mòn đạo
đức, lối sống của con người Việt Nam, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì vậy, lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội
truyền thống là một đề tài lớn luôn dành được sự quan tâm, nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học. Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã có những tác
giả nghiên cứu về văn hóa, về giữ gìn bản sắc văn hóa, về lễ hội truyền thống
như: “Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới” của Phan Ngọc”; “Bản sắc
dân tộc và hiện đại trong văn hoá” của Hoàng Trinh; “Xây dựng và phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” của Nguyễn Khoa
Điềm; “Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại” của PGS.TS Lê Như Hoa;
"Thời Đại Hùng Vương” của Lê Văn Lan; "Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc
Vượng; “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh; "Lễ hội truyền thống và hiện đại"
của Thu Linh - Đặng Văn Lung; “60 lễ hội truyền thống Việt Nam" của Thạch
Phương - Lê Trung Vũ; “Lễ hội Việt Nam” của Lê Trung Vũ - Lê Hồng Lý;
"Lễ hội cổ truyền" của Lê Trung Vũ chủ biên; "Lễ hội truyền thống trong đời
sống xã hội hiện đại" của Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng chủ biên…


5

5

Những công trình trên đã khẳng định: Bản sắc văn hoá là một trong
những cội nguồn làm nên sức mạnh trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước,
giữ nước cũng như trong cuộc đấu tranh chống “đồng hoá” của dân tộc Việt
Nam. Chính nhờ bản sắc ấy, dù trải qua những biến cố, thăng trầm của lịch sử,
dân tộc ta vẫn trường tồn, vẫn tỏ rõ bản lĩnh và sức mạnh của mình. Hiện nay,
trước sự xâm lăng của văn hóa, phát triển của khoa học - cộng nghệ và xu thế
toàn cầu hoá đòi hỏi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
phải gắn liền với bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc.
Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc không
phải bằng cách đóng kín cửa, không tiếp nhận văn hóa thế giới mà ngược lại
phải biết giao lưu văn hoá để tiếp biến, bồi đắp, làm giàu bản sắc văn hoá dân
tộc. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa với nhau không chỉ nâng tầm văn hóa
của dân tộc ta, mà còn là cơ sở động lực để cho chúng ta loại bỏ những cái phi
truyền thống, những hủ tục lạc hậu không phù hợp, trong đó phải lấy bản sắc
văn hoá dân tộc làm “bộ lọc” cho sự tiếp thu các giá trị văn hóa của thời đại.
Đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá ở đơn vị cơ sở trong

Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Đoàn Mô, đã phát hiện và đề xuất
những vấn đề có tính cấp thiết cả về nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện tổ chức hoạt động văn hóa ở các đơn vị cơ sở. Tác giả cho rằng
sự nghiệp đổi mới của nước ta đang mở ra một giai đoạn mới, thời kỳ giao lưu
và hội nhập ngày càng sâu hơn vào các quan hệ văn hóa và kinh tế quốc tế.
Đời sống xã hội có nhiều chuyển biến mau lẹ, chứa đựng những yếu tố thuận
lợi và khó khăn, đan xen thời cơ và thách thức, tác động, ảnh hưởng không
nhỏ tới sự nghiệp xây dựng quân đội, nhất là trên mặt trận chính trị tư tưởng.
Mặc dù các đơn vị cơ sở đã tạo được những cách làm hay và có hiệu quả
trong việc tổ chức, duy trì các hoạt động văn hóa, đảm bảo đúng pháp luật về
quyền con người nhưng cũng duy trì kỷ luật, kỷ cương trong quân đội. Tuy
nhiên, vẫn còn cách nghĩ cách làm thiếu đồng bộ, hời hợt, “hành chính hóa
văn hóa”, nặng về hình thức, chưa đi vào khai thác nội dung giá trị và sức


6

6

mạnh đích thực của văn hóa; chưa phát huy và làm tỏa sáng được giá trị văn
hóa quân sự trong đời sống văn hóa ở các đơn vị cơ sở, dẫn đến vai trò của
văn hóa có phần mờ nhạt, đâu đó chỉ còn là sự duy trì quản lý bằng hành
chính quân sự mà thiếu sắc màu văn hóa.
Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Xuân Trường về “Phát triển giá trị
văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” xác
định nhiệm vụ xây dựng nhân cách cho sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay là nhiệm vụ rất quan trọng. Phát triển các giá trị văn hoá thực chất
là phát triển những giá trị mang bản chất “Người” trong nhân cách sĩ quan trẻ,
nhất là về phẩm chất và bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, sức khoẻ... là những
vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng quân đội và phát huy nhân

tố con người trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Văn Ngoan về “Quan hệ thống nhất đa dạng trong phát triển môi trường văn hoá quân sự ở các trường sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” đã bàn về văn hoá và xây dựng môi
trường văn hóa theo chiều đồng đại. Xác định quan hệ thống nhất - đa dạng
trong phát triển môi trường văn hóa các nhà trường quân đội hiện nay là nhân
tố có ý nghĩa to lớn, góp phần giữ vững trận địa chính trị của các nhà trường
quân đội, nơi đào luyện đội ngũ cán bộ nòng cốt cho quân đội và đất nước.
Sách “Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Duy Bắc chủ
biên đã chỉ rõ sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường làm ảnh hưởng tiêu
cực đến nhiều giá trị văn hóa truyền thống. Đề tài đã làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của văn hoá, giá trị văn hoá và những biến đổi thang giá trị
của văn hoá trước những tác động cả tích cực và tiêu cực trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ đó, đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao nhận thức, giữ gìn, bảo vệ, phát triển giá trị văn hóa dân
tộc và phòng chống, tránh sự tác động đó làm phương hại đến các truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc.


7

7

Bài viết “Văn hoá quân sự Việt Nam” của PGS.TS Lê Văn Quang và
PGS.TS Văn Đức Thanh đã làm rõ cách tiếp cận mới về văn hoá quân sự Việt
Nam dưới góc nhìn của một phương pháp luận triết học. Phân tích và làm
sáng tỏ có sự khác nhau tương đối trong quan niệm về văn hoá quân sự và văn
hoá trong quân sự, tức là trong hoạt động quân sự và là sự khái quát cao của
văn hoá giữ nước. Còn văn hoá quân sự được thể hiện một cách đầy đủ trong
việc thiết lập và xây dựng củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân,

toàn dân đánh giặc “trăm họ là binh”.
Bài viết “Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người
Việt ở đồng bằng Bắc bộ trong xã hội hiện nay” của Nguyễn Quang Lê (Viện
nghiên cứu văn hoá dân gian, Hà Nội, 1999). Tác giả đã nêu khái quát chung
về thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống trong lịch sử dân tộc Việt Nam và
thực trạng một số lễ hội tiêu biểu ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong 6 lễ hội được
nghiên cứu, tác giả đã dành một chương nghiên cứu về lễ hội Đền Hùng ở
Phú Thọ, trong phần kết luận và một số dự báo, tác giả đã đề cập đến xu
hướng phát triển du lịch văn hoá trong các lễ hội truyền thống trong tương lai.
Tuy góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều khẳng
định: bản chất của văn hoá là sáng tạo, sự lớn lên về mặt văn hoá và phát huy
giá trị văn hóa phải gắn với việc bảo vệ gìn giữ, phát triển những giá trị văn
hóa ấy trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi chủ thể. Sự sáng tạo
và lớn lên đó không chỉ diễn ra trong bản thân nội tại của mỗi nền văn hoá,
mà còn là sự tích hợp những giá trị trong các nền văn hoá khác thông qua giao
lưu, hợp tác văn hoá. Những công trình đó cung cấp những luận cứ có giá trị
khoa học, liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài và góp phần quan trọng
vào việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của tác giả.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về việc “Giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”. Trong
khi vấn đề này đang được đặt ra vừa cơ bản, vừa bức thiết trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm đầu tư nghiên cứu. Vì vậy, đề tài


8

8

tác giả chọn mang tính độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học
đã được công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay; từ đó xác định yêu
cầu, đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền
thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quan niệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền
thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Đánh giá thực trạng việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội
truyền thống ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất các yêu cầu và giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
của lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Phạm vi lựa chọn khảo sát: Trong luận văn này tác giả chủ yếu khảo sát
phân tích đánh giá một số lễ hội truyền thống ở huyện Lâm Thao, Phù Ninh.
Phạm vi về thời gian: Từ 2006 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
*Phương pháp luận của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Đề tài cũng quán triệt những quan


9


9

điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa kết quả của các công trình
nghiên cứu đã công bố và căn cứ vào những số liệu báo cáo tổng kết của Tỉnh
uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế,
xã hội, văn hoá, kết quả tổ chức lễ hội hàng năm.
* Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành và liên ngành
như phương pháp phân tích, tổng hợp, chuyên ngành và liên ngành, lôgíc và
lịch sử, hệ thống, so sánh, điều tra xã hội học, quan sát, tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ quan niệm, vai trò và
thực trạng của công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền
thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Đề xuất các giải pháp để giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một
cách bền vững.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10

10

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
1.1. Quan niệm, nội dung và vai trò giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
1.1.1. Quan niệm về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội
truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay
* Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội ở tỉnh Phú Thọ
Về vị trí địa lý: Phú Thọ là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây bắc Thủ
đô Hà Nội có tổng diện tích là 3.528 km 2 phía bắc giáp Tuyên Quang, phía nam
giáp Hoà Bình, phía đông giáp Vĩnh Phúc, phía tây giáp Sơn La và Yên Bái. Với một vị
trí địa lý thuận lợi ở vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc, đồng bằng Sông Hồng và Tây Bắc,
Phú Thọ là trung tâm của tiểu vùng phía Tây và phía Đông Bắc Việt Nam. Với vị trí là
cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội và hệ thống giao thông thuận lợi đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ nối tỉnh Phú Thọ với các tỉnh phía Tây và phía Đông Bắc với Thủ đô
Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh thành phố lớn khác trong cả nước. Đây là yếu tố thuận
lợi để phát triển kinh tế, đồng thời cũng là yếu tố thuận lợi cho việc tiếp thu, giao lưu
văn hoá với thủ đô Hà Nội với các tỉnh vùng Tây, Đông Bắc.

Các yếu tố về vị trí địa lý tự nhiên cho thấy Phú Thọ có lợi thế để trở
thành trung tâm kinh tế, xã hội của vùng. Do địa hình của tỉnh Phú Thọ
nằm ở cuối dãy Hoàng Liên Sơn nên địa hình chia cắt tương đối mạnh. Sự
chuyển tiếp của dãy Hoàng Liên Sơn giữa miền núi cao và miền núi thấp,
gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Diện tích đồi núi
chiếm 64%, tổng diện tích tự nhiên, nhiều sông, suối (4,1%). Mỗi khu vực
địa hình gắn với dân tộc khác nhau tạo nên những tập quán, nếp sống văn
hoá riêng. Vì vậy, trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ
đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định xây
dựng Phú Thọ trở thành trung tâm kinh tế vùng; là một trong những trung
tâm khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao du lịch của vùng



11

11

trung du và miền núi Bắc Bộ; là đầu mối giao thông nội vùng và là Thành
phố lễ hội về nguồn của dân tộc Việt Nam.
Về cơ cấu kinh tế: Phú Thọ là một tỉnh có tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tương đối nhanh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, tạo sự chuyển biến cơ bản trong quá trình
CNH-HĐH đất nước. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ đang phấn đấu
thoát khỏi tỉnh nghèo và phấn đấu về cơ bản trở thành Tỉnh công nghiệp
vào năm 2020.
Về các lĩnh vực văn hoá - xã hội: Phú Thọ là tỉnh có nhiều di tích
lịch sử văn hoá, di tích lịch sử kháng chiến có giá trị về mặt kiến trúc lịch
sử, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, toàn tỉnh có 1372 di tích lịch sử văn
hoá, 228 lễ hội truyền thống. Xét về giá trị văn hoá, hệ thống di tích lịch
sử, lễ hội truyền thống đang là di sản văn hoá truyền thống quý báu không
chỉ của vùng đất Tổ mà của cả dân tộc Việt Nam. Phú Thọ là một tỉnh có
thiết chế văn hoá rộng từ tỉnh đến cơ sở, hệ thống thư viện, nhà văn hoá,
viện bảo tàng được đầu tư xây dựng kiên cố và có giá trị phục vụ cao. Đặc
biệt là các thiết chế ở thôn xã, khu dân cư được tập trung xây dựng hoàn
chỉnh. Đến nay, toàn tỉnh đã có 2051/2854 khu dân có nhà văn hoá được
xây dựng. Theo Nghị quyết số 56/2003 của Hội đồng nhân dân tỉnh đến
năm 2010 toàn tỉnh sẽ có 100% khu dân cư có Nhà văn hoá, cao hơn nhiều
so với chỉ tiêu chung của cả nước (chỉ tiêu của cả nước là 60%).
Về đặc điểm lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ: Toàn tỉnh có 274 xã,
thị trấn, các lễ hội ở trên địa bàn tỉnh cho thấy một nền văn minh nông
nghiệp rực rỡ, cuộc sống của cư dân gắn liền với tín ngưỡng nông nghiệp,

các lễ hội gắn liền với thờ lúa thần, rước lúa thần, lễ hội tịch điền, lễ hội
thờ thần Sông như lễ hội Đền Bạch Hạc - Thành phố Việt Trì, lễ rước lúa
thần trong lễ hội Trò Trám xã Tứ Xã, lễ hội xuống đồng xã Minh Nông Thành phố Việt Trì. Qua đó các lễ hội đã thể hiện cuộc sống nông nghiệp
chủ yếu trồng trọt và công cuộc chế ngự thiên nhiên, đắp đê ngăn nước,


12

12

phòng chống lũ lụt và mong ước của người dân vùng này luôn cầu mong
mưa thuận gió hoà cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi nảy
nở. Nghiên cứu và quan sát nội dung lễ hội ở Phú Thọ, các hoạt động tế lễ,
rước, các bài văn tế, các trò diễn đều có sự gắn kết với nông nghiệp, với nền
văn minh lúa nước. Lễ hội lớn nhất là lễ hội Đền Hùng không chỉ là lễ hội
để tưởng nhớ công lao các Vua Hùng mà lễ hội còn mang đậm tín
ngưỡng nông nghiệp. Các lễ hội truyền thống vùng Phú Thọ là sự tái hiện
những sinh hoạt tiền nông nghiệp và nông nghiệp từ săn bắn hái lượm đến
nghi thức trồng trọt chăn nuôi…
Các lễ hội truyền thống đều gắn với tín ngưỡng thờ cúng các Vua
Hùng, vợ con và tướng lĩnh thời đại các Vua Hùng. Các lễ hội truyền
thống ở tỉnh Phú Thọ gắn với thời kỳ lịch sử của thời kỳ Hùng Vương
dựng nước, thờ những người anh hùng dân tộc có công bảo vệ xóm làng
gắn liền với tục thờ cúng tổ tiên và truyền thống đạo lý “uống nước, nhớ
nguồn” của dân tộc Việt. Sự kiện này cho thấy, Vua Hùng và các tướng
lĩnh thời đại các Vua Hùng là những nhân vật thiêng, có công lao to lớn
trong việc khai sơn phá thạch giúp dân phòng chống thiên tai bảo vệ nhân
dân, được nhân dân thờ phụng và trở thành đức tin trong tiềm thức của
người Việt cổ từ xa xưa truyền lại cho tới hôm nay. Điều đó càng chứng tỏ
thời đại các Vua Hùng là thời đại của lịch sử, một thời đại hào hùng trong

dựng nước, giữ nước. Các lễ hội truyền thống trên vùng đất Phú Thọ đã
tái hiện lại cuộc sống người Việt cổ từ thời đại Hùng Vương các hoạt
động săn bắn, đánh cá, trồng trọt…
Trong các lễ hội này cả phần lễ và phần hội đều thể hiện tín ngưỡng
thờ cúng tôn vinh các Vua Hùng và tướng lĩnh. Phần lễ hầu hết đều có lễ tế,
lễ rước, bài văn tế các Vua Hùng. Phần hội là các trò diễn dân gian tái hiện
cuộc sống cư dân và thời đại Hùng Vương. Vì thế, lễ hội truyền thống vùng
đất Tổ có giá trị như một kho báu sống về lịch sử thời đại các Vua Hùng.
Qua các chứng tích lịch sử và lễ hội truyền thống vùng đất Tổ ta có thể


13

13

thấy, thời đại các Vua Hùng là một bản thiên anh hùng ca dựng nước.
Ngoài các lễ hội mà nhân vật được tưởng niệm là Vua Hùng và các tướng
lĩnh thời Hùng Vương, thì các lễ hội truyền thống còn lại chủ yếu là tưởng
niệm tôn vinh các vị Vua và tướng lĩnh trong các thời kỳ, thờ Hai Bà Trưng
và các tướng lĩnh, Công Chúa thời Hai Bà Trưng như: lễ hội Đình Mộ Chu
Hạ - Phường Bạch Hạc - Thành phố Việt Trì thờ Vua Lê Đại Hành, lễ hội
Đền Thượng xã Thuỵ Vân - Thành phố Việt Trì và lễ hội Đền Sa Lộc xã Tứ
Xã, huyện Lâm Thao cùng thờ tướng Lân Hổ Hầu thế kỷ thứ 13.
Các lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ đều gắn với di tích đình, đền,
chùa. Đình làng là nơi thờ Thành Hoàng, đền thờ thần, chùa thờ phật là nơi
sinh hoạt cộng đồng, các nhân vật được thờ cúng tưởng niệm đều là những
nhân vật thiêng có công, có đức với dân được coi là Thành Hoàng làng, vùng
Phú Thọ chủ yếu là thờ Tản viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương… được
nhiều làng thờ phụng ở đình coi là Thành Hoàng che chở, phù hộ cho muôn
dân. Một số ít lễ hội được tổ chức cả ở đình và đền như lễ hội đình đền Đào

Xá thờ Hùng Hải Công ở đình và 3 vị thủy thần ở Đền Huý là Tam Công,
con của Hùng Hải Công hoặc lễ hội đền - đình La Phù thờ Tản viên Sơn, Đệ
Tam thuỷ thần. Có một số ít lễ hội tổ chức ở cánh đồng, bãi sông như các lễ
hội cướp kén, ném còn, đánh trống đu, bơi chải…
Các lễ hội truyền thống được tổ chức ở đình, đền đều có lễ tế, rước kiệu
và các trò diễn dân gian, việc tổ chức các lễ hội chủ yếu tập trung ở đình cho
thấy sự lô gích trong tín ngưỡng dân gian người Việt cổ là sự tin tưởng vào
thế giới tâm linh, gửi gắm niềm tin vào sự che chở của Vua Hùng và tổ tiên;
các lễ hội ở đình là một hoạt động chung của cộng đồng toàn thể làng xã nông
thôn. Nó khẳng định giá trị đoàn kết, cố kết cộng đồng của lễ hội, sự cộng
mệnh, cộng cảm sẽ làm cho tinh thần đoàn kết cộng đồng được chặt chẽ hơn.
Lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ là tín ngưỡng phồn thực, phồn
thịnh của sinh sôi sản xuất và thịnh vượng mùa màng, đó là tín ngưỡng của
nghề trồng lúa nước. Tín ngưỡng phồn thực có nét đặc thù là biểu hiện thông


14

14

qua hình tượng sinh thực khí và hành động tính giao nam nữ. Nghiên cứu các
lễ hội vùng Phú Thọ nhất là các lễ hội truyền thống khu vực quanh Đền Hùng
như Lâm Thao, Phù Ninh, Việt Trì, Tam Nông có rất nhiều lễ hội với tín
ngưỡng phồn thực và tục thờ sinh thực khí với nhiều dạng thức khác nhau.
Đồng thời, còn phản ánh sinh hoạt trong sản xuất, thu hoạch và niềm vui được
mùa của nghề trồng lúa nước - một bước tiến rất lớn của loài người nói chung
và người Việt cổ nói riêng.
* Quan niệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay
Lễ hội là sản phẩm của xã hội quá khứ, được truyền lại tới ngày nay

và nó được người dân, cộng đồng tiếp nhận và thực hành trong đời sống
sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay. Lễ hội truyền thống là
một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp, vừa độc đáo, vừa phong
phú đa dạng của dân tộc Việt Nam, vốn có nguồn gốc phát sinh và phát
triển từ rất lâu đời trong lòng lịch sử văn hóa nước nhà. Có thể coi lễ hội
truyền thống là hình ảnh thu nhỏ của nền văn hóa dân gian truyền thống
dân tộc. Bởi lẽ, trong lễ hội truyền thống bao hàm hầu như đầy đủ các hình
thức sinh hoạt văn hóa dân gian như: về văn học dân gian, có truyền thuyết
thần thoại, thần tích, văn tế…;về nghệ thuật biểu diễn dân gian có diễn
xướng, sân khấu dân gian, các làn điệu dân ca…;về tôn giáo có phong tục
và tín ngưỡng dân gian như: các nghi thức, nghi lễ… Do vậy, lễ hội truyền
thống không chỉ là một hiện tượng văn hóa dân gian, mà còn là một hiện
tượng lịch sử xã hội. Nó phản ánh khá trung thực và rõ nét cốt cách, bản
sắc dân tộc, cùng với tâm linh, nguyện vọng của nhân dân trong suốt thời
kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội truyền thống, còn gọi là lễ hội dân gian hay lễ hội cổ truyền
thường được tổ chức ở đình, chùa (hội chùa mang nội dung và mang chức
năng hội làng), đền, miếu, phủ, điện trong các làng gọi là hội làng, hoặc ngày


15

15

nay ở các thị trấn, tỉnh thành gọi là hội đền, hội đình, do dân làng mà trước
hết là các cụ, đại biểu nhiều mặt của cộng đồng làng xưa hoặc phường, phố tổ
chức. Đó là những lễ hội thường gồm hai phần lễ và hội.
Lễ là hệ thống các cách thức thể hiện hành vi, động tác mang tính
nghi thức uy nghiêm, thần bí của người theo một quy trình nhằm biểu hiện
lòng tôn kính, suy tôn đối với thần tượng có công trạng với nước, với cộng

đồng dân cư mà được nhân dân lưu truyền, tái hiện trong một không gian,
thời gian và gắn với phần hội là các trò diễn thể hiện đặc trưng hình thức
văn hóa nhất định.
Hội là tập hợp các hình thức, các trò diễn, vui chơi, giải trí, sinh hoạt
văn hóa tinh thần thể hiện phong tục tập quán của nhân dân địa phương trong
một thời điểm, trong khuân viên các di tích, nơi thờ tự các thần tượng mà do
đông người tham gia sau phần lễ đã diễn ra.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm lễ hội truyền thống: Là
những nghi thức có tính chất tôn nghiêm, thành kính để tưởng nhớ, tri ân
những anh hung, liệt nữ, thánh thần có công, có đức vì dân, vì nước, hội là
phần vi chơi giải trí, thăm quan thắng cảnh, văn hóa, nghệ thuật, trò trống…
để mọi người tham gia vui chơi, giải trí, thưởng thức, thưởng ngoạn và lĩnh
thưởng một cách công khai, lành mạnh, chính đáng, vui vẻ. Lễ có thể ngắn
gọn, nhưng hội có thể kéo dài.
Đặc điểm của lễ hội truyền thống ở nước ta bao gồm một số nội dung
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, lễ hội truyền thống gắn với đời sống tâm linh, tín ngưỡng
và nó mang tính linh thiêng
Lễ hội truyền thống thuộc về thế giới tâm linh, thiêng liêng, đối lập với
đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều nghi lễ, hình thức thể hiện sinh hoạt văn
hóa tinh thần, trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui


16

16

chơi giải trí, thi tài, các diễn xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính
“tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong tục, nên nó vẫn thuộc về cái
thiêng, như tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là điển hình.

Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của
lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực,
trần tục của đời sống thường ngày. Ví dụ: diễn xướng ba trận đánh giặc Ân
trong Hội Gióng, diễn xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn
xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn
xướng mang tính biểu tượng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi
và thăng hoa của lễ hội.
Thứ hai, lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ
thống, tính phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng hợp
Lễ hội truyền thống bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau
của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao
tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân
khấu…) các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… cho nên, muốn
hiểu văn hóa dân gian của Việt Nam hãy tìm đến các lễ hội truyền thống.
Thứ ba, chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng
Đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín
ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói
cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của
một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và
hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.
Ba đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ
chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt
với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival ... Lễ hội
cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác
động bối cảnh kinh tế - xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến


17

17


đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên
là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những tiểu tiết của
ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối cảnh
xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục
hồi, bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống trong xã hội hiện nay.
Trên cơ sở nhận biết đặc trưng của lễ hội truyền thống, một vấn đề cần
làm rõ là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống là gì; có thể
quan niệm: Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống là hoạt
động tự giác của các chủ thể gắn với hoạt động nhằm bảo vệ, giữ vững, lưu
truyền những di sản vật thể và phi vật thể gắn với các thần tượng có liên
quan đến truyền thống dân tộc như đền thờ, di tích; hình thức thể hiện uy
nghiêm của phần lễ nghi các trò diễn, các hình thức thể hiện sinh hoạt văn
hóa tinh thần trong phần hội ở các lễ hội truyền thống, phù hợp với điều kiện
lịch sử mới góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Giữ gìn theo nghĩa rộng, chung nhất được hiểu là giữ cho được nguyên
vẹn, không bị mất mát, tổn hại. Trên thực tế, việc hiểu và lý giải nghĩa giữ gìn
tùy thuộc vào từng đối tượng, sự vật. Với văn hóa thì giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc không chỉ đơn thuần là giữ nguyên vẹn, không mất mát tổn hại những
giá trị đã có, mà còn bao hàm cả việc kế thừa, tiếp biến tinh hoa văn hóa bên
ngoài để bổ sung, phát triển, làm giàu bản sắc dân tộc, bảo đảm sự phù hợp,
thích nghi với điều kiện lịch sử của mình. Bởi bản sắc văn hóa dân tộc được
quan niệm là tổng hòa những giá trị văn hóa bền vững, phản ánh diện mạo,
sắc thái, cốt cách, tâm hồn, tâm lý… của một dân tộc, được thường xuyên hun
đúc, bổ sung và tỏa sáng trong lịch sử dân tộc, trở thành tài sản tinh thần đặc
sắc, tạo nên sức mạnh gắn kết cộng đồng và để phân biệt sự khác nhau giữa
dân tộc này với dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại. Đây là một quá trình
giải quyết rất nhiều mối quan hệ, nhiều lĩnh vực khác nhau, bảo đảm sự thống
nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc



18

18

và quốc tế, nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc… Tuy nhiên, tiếp cận và khai thác văn hóa, bản sắc văn hóa dưới góc
độ chính trị - xã hội, phải luôn đặt nó trong mối quan hệ với đặc điểm, điều
kiện dân tộc ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Trên thực tế đã có nhiều quan
điểm của các nhà khoa học bàn về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong lễ
hội truyền thống.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống là một hoạt
động có mục đích của chủ thể, gắn với nội dung và phương thức, biện pháp
cụ thể; chứ không phải chung chung, trìu tượng của một cá nhân riêng biệt.
Về mục đích giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống là nhằm lưu
giữ giá trị di tích văn hóa, lịch sử có liên quan đến các thần tượng của dân
tộc để các thế hệ sau hiểu biết, tự hào về truyền thống dân tộc gắn với các
di tích và sự kiện lịch sử của dân tộc, xác định đúng trách nhiệm của các
thế hệ sau đối với truyền thống văn hóa, lịch sử và tương lai của dân tộc
trong thời kỳ mới.
Nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống là
lưu giữ các yếu tố cấu thành của lễ hội truyền thống như các khu di tích, đền
thờ gắn với các thần tượng của dân tộc; phần lễ và phần hội để tái hiện các
sự kiện lịch sử của dân tộc gắn với giá trị của nền văn hóa dân gian mà các
thế hệ ông cha đã xây dựng trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Chủ thể
của giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống, bao gồm tất cả các lực
lượng, các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương; các thành tố trong
hệ thống chính trị đến mỗi người dân. Bằng phương thức, biện pháp rất đa
dạng như giáo dục, tuyên truyền; thiết chế pháp luật; biện pháp về kinh tế;
hành chính…

Trên cơ sở làm rõ quan niệm về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ
hội truyền thống ở trên, vấn đề đặt ra là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ
hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là gì và có gì khác so với địa
phương khác. Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Giữ gìn bản sắc văn


19

19

hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là hoạt động có
mục đích, gắn với vai trò của các chủ thể tham gia bảo vệ, lưu truyền những
nội dung cấu thành lễ hội được thể hiện qua các hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần của nhân dân vốn đã tồn tại lâu đời trên địa bàn tỉnh, với những
phương thức và biện pháp cụ thể để làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc
trong điều kiện lịch sử mới.
Mục đích giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay là nhằm lưu giữ văn hóa vật thể và phi vật thể, tái
hiện các sự kiện lịch sử để suy tôn các thần tượng của quê hương, của dân
tộc; gắn với các hình thức thể hiện của các lễ nghi, trò diễn mang đậm nét
của văn hóa dân gian, phong tục tập quán, qua đó mà giáo dục truyền thống
cho các thế hệ đời sau và góp phần làm cho nền văn hóa dân tộc đậm đà
hơn. Bản sắc văn hóa dân tộc còn sẽ không bị phai nhạt hoà tan, góp phần
làm cho kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất nước phát triển trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay vì mất văn hóa là mất tất cả.
Chủ thể tham gia giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền
thống của tỉnh Phú Thọ hiện nay là sự tham gia của đông đảo các lực
lượng, trước hết đó là sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các ban ngành
Trung ương; Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, các ban ngành của tỉnh; các
huyện, các xã, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân… Mỗi chủ thể có

vị trí vai trò không ngang bằng nhau, nhưng lại có những ưu thế khác
nhau nên phải huy động được đồng bộ các lực lượng tham gia giữ gìn bản
sắc văn hóa của lễ hội truyền thống ở Phú Thọ thì mới đạt được kết quả
như mong muốn.
Giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện
nay còn gắn với nội dung và phương thức, biện pháp cụ thể thì mới đạt
được kết quả. Nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống là
lưu giữ giá trị vật thể, di tích văn hóa, lịch sử có liên quan đến các thần
tượng của dân tộc để các thế hệ sau hiểu biết, tự hào về truyền thống dân


20

20

tộc gắn với các hình thức lễ nghi, tái hiện sự kiện lịch sử của dân tộc, các
hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần như các trò diễn dân gian, vui chơi
giải trí mà giáo dục truyền thống, xác định trách nhiệm cho các thế hệ sau
đối với truyền thống văn hóa, lịch sử và tương lai của dân tộc trong thời kỳ
mới. Thực chất nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền
thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là lưu giữ các yếu tố cấu thành của lễ hội
truyền thống như các khu di tích, đền thờ gắn với các thần tượng của dân
tộc; phần lễ và phần hội để tái hiện các sự kiện lịch sử của dân tộc gắn với
giá trị của nền văn hóa dân gian mà các thế hệ cha ông ta đã xây dựng
trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Bằng phương thức, biện pháp rất
đa dạng như giáo dục, tuyên truyền; thiết chế pháp luật; biện pháp về kinh
tế; hành chính để duy trì lễ hội truyền thống lành mạnh, vui tươi đạt mục
đích tôn chỉ đặt ra trong việc tổ chức lễ hội.
1.1.2. Nội dung, vai trò giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội
truyền thống ở tỉnh Phú Thọ

* Nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở
Tỉnh Phú Thọ hiện nay
Thứ nhất, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay là bảo tồn, lưu truyền văn hóa vật thể của lễ hội như di
tích, đền thờ, không gian kiến trúc, môi trường ở cơ sở thờ tự, bảo tồn dữ
liệu, công trạng về các thần tượng được suy tôn của lễ hội đó
Phú Thọ vùng cố đô của đất nước, nơi đây có khá nhiều các di tích lịch
sử, văn hóa cùng nhiều lễ hội truyền thống mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc
vẫn còn được bảo lưu, duy trì cho đến ngày nay. Theo số liệu thống kê của
ngành văn hóa, trên địa bàn tỉnh hiện có 1372 di tích lịch sử văn hóa, 228 lễ
hội truyền thống, trong đó có các lễ hội tiêu biểu như: lễ hội đền Hùng, lễ hội
đền Mẫu Âu Cơ, lễ hội Trò Trám, lễ hội hát Xoan… Các lễ hội truyền thống
được phân bố gần như ở khắp các làng, xã trên địa bàn tỉnh và tập trung chủ
yếu ở các xã vùng ven sông Hồng và khu vực quanh đền Hùng.


21

21

Lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có giá trị như một kho
báu sống về thời đại các vua Hùng. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, trong tâm
thức dân gian, vua Hùng và các tướng lĩnh thời đại Hùng Vương là những
nhân vật có công to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta. Đạo lý biết ơn những người có công dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
đã được duy trì, phát huy và chuyển tải qua các thế hệ thông qua sinh hoạt lễ
hội trên vùng đất Tổ. Nên nội dung quan trọng hàng đầu của việc giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là bảo
tồn, giữ vững, lưu truyền và tu bổ những vật thể của văn hóa lễ hội như di
tích, đền thờ, không gian kiến trúc cơ sở thờ tự, bảo tồn dữ liệu, công trạng về

các thần tượng được suy tôn của lễ hội đó. Đây là một công việc không hề
đơn giản của một tỉnh còn có khó khăn về kinh tế, nhưng nhu cầu tu bổ, bảo
tồn các di tích lịch sử lớn nên cũng phải huy động sức mạnh của các lực
lượng thì mới thực hiện tốt nội dung này.
Thứ hai, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay là bảo tồn, lưu truyền những hình thức như văn tế, đạo cụ,
trang phục bảo đảm lễ nghi thể hiện sự uy nghiêm khi tổ chức lễ suy tôn,
công trạng của các thần tượng có công dựng nước và giữ nước
Hình thức lễ nghi là nội dung rất quan trọng cấu thành lễ hội truyền
thống dân tộc, mà các lễ hội truyền thống ở Phú Thọ đã diễn ra lâu đời nên
các thế hệ khác nhau có những biến đổi nhất định. Đặc biệt, hiện nay do ảnh
hưởng bởi những mặt trái của cơ chế thị trường, cùng với những tác động của
xu thế toàn cầu hóa đã làm biến đổi những thang giá trị về văn hóa lễ nghi,
làm mất đi tính linh thiêng của những lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ. Thực tế đó, đặt ra nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ
hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là bảo tồn, giữ vững, lưu truyền
những hình thức như văn tế, đạo cụ, trang phục, thể hiện lễ nghi, sự uy
nghiêm, suy tôn, quảng bá, công trạng của các thần tượng có công dựng


22

22

nước và giữ nước. Thực hiện tốt nội dung này sẽ vừa tạo ra sự linh thiêng
của lễ hội truyền thống, vừa thu hút được đông đảo quần chúng tham gia và
không bị “lai căng”, đánh mất bản sắc văn hóa của lễ hội truyền thống ở
tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Thứ ba, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay là bảo tồn, lưu truyền, phát triển những hình thức văn hóa

dân gian như hát xoan, điệu múa lượn, nhảy các trò chơi, những phong tục, tập
quán đặc thù đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của địa phương và của dân tộc
Nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của con người là rất lớn, thông
qua các lễ hội truyền thống mà tạo ra không gian văn hóa, gồm cả hình thức
và nội dung sinh hoạt văn hóa tinh thần rất đặc sắc. Vì thế, nếu giữ gìn được
bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay sẽ là
điểm kích hoạt để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và góp phần làm đa dạng
nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đối với đại đa số người dân Việt Nam nói
chung với người dân Phú Thọ nói riêng, tham gia các hoạt động lễ hội truyền
thống đã trở thành sinh hoạt phổ biến, thành nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Lễ hội truyền thống là nơi nuôi dưỡng bảo tồn giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc và độc đáo
của cộng đồng người, mỗi vùng miền được ẩn chứa trong tầng sâu của các trò
diễn, các hoạt đồng cộng đồng phong phú và hấp dẫn. Vì vậy, lễ hội truyền
thống có một sức hút mạnh mẽ đối với nhân dân. Các lễ hội lớn trên vùng đất
Tổ như: Lễ hội đền Hùng (xã Hy Cương, Thành Phố Việt Trì ), lễ hội đền
Mẫu Âu Cơ (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa )… đã trở thành nơi bảo tồn và
phát huy những giá trị tiêu biểu về đạo đức, lối sống cho cốt cách, tâm hồn
của nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Vì thế,
nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay là gắn với bảo tồn, giữ vững, lưu truyền những hình thức văn
hóa dân gian như hát xoan, điệu múa xòe, múa lân…, các trò chơi, những


23

23

phong tục, tập quán đặc thù đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của địa phương và
của dân tộc là rất quan trọng.

Thứ tư, giữ gìn cốt cách của bản sắc văn hóa dân tộc là tinh thần đoàn
kết, cố kết cộng đồng lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống giản
dị giàu tình thương, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, đức hy sinh cao
thượng vượt qua khó khăn, phấn đầu vì nước Việt Nam trường tồn và phát triển
Sống trên vùng đất đậm đặc sắc màu tín ngưỡng, tâm linh, cuộc sống
của người dân Phú Thọ chịu tác động khá sâu sắc bởi ảnh hưởng của các lễ
hội truyền thống. Qua hàng loạt các lễ hội tưởng nhớ công ơn các vua Hùng
và các tướng lĩnh đương thời, người dân địa phương đã được thấm nhuần đạo
lý uống nước, nhớ nguồn, hướng về cội rễ dân tộc. Thông qua các hoạt động
tâm linh này, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng dân tộc ngày càng được
gắn kết hơn. Tính cộng mệnh và tính cộng cảm được thể hiện rõ nét thông qua
các sinh hoạt lễ hội trên địa bàn tỉnh. Tính cộng đồng và sự cố kết cộng đồng
là nét đặc trưng và là giá trị văn hóa tiêu biểu nhất mà lễ hội đem lại cho cộng
đồng dân cư trong khu vực. Cho nên, nội dung quan trọng giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay phải lưu truyền
tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, lối sống giản dị giàu tình thương, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động, đức hy sinh cao thượng vượt qua khó khăn, phấn đấu vì nước Việt Nam
trường tồn và phát triển.
Thứ năm, quảng bá những tinh hoa văn hóa lễ hội truyền thống ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay cho các thế hệ kế tiếp và giới thiệu không gian văn hóa đặc
sắc của Việt Nam ra khu vực và thế giới
Lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ có nét riêng so với các lễ hội
truyền thống ở các địa phương khác, vì lễ hội ở đây đều liên quan đến sự
tích dựng nước của các vua Hùng; nên hàng năm cứ đến mùa lễ hội thì du
khách trong và ngoài nước đến với Phú Thọ rất đông vì đây là dịp để họ trở
về với cội nguồn xa xưa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, lễ hội truyền


24


24

thống ở tỉnh Phú Thọ còn là không gian văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt
Nam đã được lưu giữ nhiều đời nay, những điệu múa, hát dân ca, đặc sắc
của miền đất Tổ, cũng là cái riêng có của dân tộc Việt Nam. Một trong
những nội dung quan trọng trong giữ gìn bản sắc văn hóa của lễ hội truyền
thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là, quảng bá những tinh hoa văn hóa cho các
thế hệ mai sau và giới thiệu không gian văn hóa đặc sắc của Việt Nam ra
khu vực và thế giới. Đây là một thế mạnh, sự hấp dẫn và thể hiện rõ nét
bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, nên việc tổ chức lễ hội tốt, không
đủ mà cần quảng bá giá trị của các lễ hội để thu hút các du khách đến thăm
quan, và lượng du khách hành hương về với đất Tổ năm sau đông hơn năm
trước. Đây vừa là nội dung, vừa là hình thức để nuôi dưỡng, giữ gìn một
cách hiệu quả về bản sắc văn hóa của các lễ hội truyền thống tỉnh Phú Thọ
hiện nay và mãi mãi về sau.
Những nội dung trên là một chỉnh thể thống nhất, chúng có mối quan
hệ biện chứng tác động qua lại với nhau. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ là một quá trình
thường xuyên gắn liền với những hoạt động thiết thực, hiệu quả của chính bản
thân nhân dân trên địa bàn tỉnh, bởi mỗi suy nghĩ, hành động, việc làm của
con người sẽ ảnh hướng rất lớn tới việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc của lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh. Khi nước ta cũng như ở
nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ hội
truyền thống vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội
truyền thống đã có vai trò to lớn, thu hút và lôi cuốn người dân trong nước, cả
những du khách nước ngoài ở các châu lục cũng đã tìm đến lễ hội truyền
thống, đặc biệt là lễ hội đề Hùng.
* Vai trò giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội truyền thống ở tỉnh
Phú Thọ

Cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng: Lễ hội nào cũng là của
một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng),


25

25

cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội
nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quốc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp
hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng
đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn
kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu
tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối
của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự
đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)…
Hướng về cội nguồn: Tất cả mọi lễ hội truyền thống đều hướng về
nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn
là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm
làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở
thành tâm thức của con người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội truyền thống bao giờ cũng gắn
với hành hương - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá,
toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình
với tự nhiên, môi trường, với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc
đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn
bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về tìm lại cái nguồn cội tự
nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên, trở về, tìm lại và

khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái
chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ
hội truyền thống là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó
cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội truyền thống có
thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại. Hiện nay, các thế hệ trẻ
sống trong điều kiện vật chất ngày càng khá giả hơn nhiều lần so với các thế
hệ cha anh, nên những quan niệm về giá trị cũng đã có sự thay đổi theo hướng


×