Thứ Bẩy, ngày 03/01/2009, 10:08
Những chuyện thú vị về khả năng não người
Một công dân Libăng có thể nói, đọc, viết 59 thứ tiếng trên thế giới và chỉ mất một tuần để nắm
vững một ngôn ngữ mới. Khi học một tiếng nước ngoài, mỗi ngày anh dành 30 phút để nghe, 30
phút học ngữ pháp và 15 phút ghi lại các âm thanh.
Không chỉ trường hợp đặc biệt nói trên mà ngay cả bộ não một người bình thường cũng có
nhiều điều thú vị. Não của người trưởng thành có khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh kết nối với
nhau thông qua khoảng 5.000 khớp. Mỗi giây não có thể tạo ra và cắt đứt một triệu kết nối.
Nó có thể lưu trữ thông tin trong hơn một thế kỷ (nếu bạn có thể sống từng ấy năm), tự
động phân loại, thay thế và chỉnh sửa dữ liệu khi cần thiết.
Não có thể tái tạo môi trường xung quanh chúng ta nhờ các tế bào nhạy cảm có khả năng
cảm thụ rung động, phóng xạ điện từ, hóa chất, áp suất. Các tế bào đó có khả năng quyết
định thông tin cần ưu tiên hàng đầu chỉ trong một phần triệu giây. Não phối hợp hoạt động
của ít nhất 640 cơ và theo dõi hoạt động sản sinh năng lượng, sinh sản cùng nhiều quá trình
khác. Tuy nhiên một số bộ não tỏ ra đặc biệt hơn hẳn so với nhiều bộ não của số đông khác.
Chỉ số thông minh
Trí thông minh là một khái niệm khá trừu tượng và chẳng có gì ngạc nhiên khi nó luôn là
chủ đề gây tranh cãi. Nhiều nghiên cứu khẳng định trí thông minh có liên quan tới kích
thước, khối lượng, thể tích của não. Sandra Witelson, một chuyên gia thần kinh tại Đại học
McMaster (Canada) tìm hiểu não của 100 người quá cố từng hoàn thành xuất sắc các bài
kiểm tra chỉ số thông minh (IQ) lúc còn sống. Bà phát hiện một số mối liên hệ tích cực giữa
chỉ số IQ và thể tích não, song chúng lại thay đổi theo giới tính, tay thuận và loại bài kiểm
tra.
Ví dụ mức độ thông minh ngôn từ có mối quan hệ tỷ lệ thuận với thể tích não ở đàn ông
thuận tay phải, nhưng điều đó không đúng ở đàn ông thuận tay trái. Ở phụ nữ, trí thông
minh không gian (khả năng bắt chước động tác hình thể, làm toán hình học) có liên quan
chặt chẽ tới thể tích não, song mối tương quan đó không mạnh như trí thông minh ngôn
ngữ.
Tất nhiên kích thước não không phải là điều quan trọng nhất. Não phụ nữ nhỏ hơn nhiều so
với đàn ông ngay cả khi tính tới tương quan giữa não với kích thước cơ thể, nhưng chỉ số
thông minh giữa nam và nữ không có khác biệt lớn. Trên thực tế, sách kỷ lục Guinness thế
giới từng ghi nhận một phụ nữ tên Marilyn vos Savant là người có chỉ số IQ cao nhất thế giới
trong giai đoạn 1986-1989. Kể từ đó, danh sách những người có IQ cao không được cập
nhật nữa. Ngoài ra, chỉ số IQ mà Marilyn vos Savant đạt được cũng không ổn định. Nó dao
động từ 186 tới 228, tùy thuộc vào loại bài kiểm tra, điều kiện môi trường xung quanh và
ngày tiến hành làm bài.
Nếu kích thước không thể giải thích được trí thông minh thì hoạt động của não có thể mang
đến manh mối không? Năm 2000, một nhóm chuyên gia thần kinh của Đại học Cambridge
tìm ra một thứ gọi là “điểm G” của não. Đó là khu vực có mối liên hệ với trí thông minh tổng
hợp – đối tượng mà các bài kiểm tra IQ hướng tới.
Sau khi sử dụng kỹ thuật chụp positron cắt lớp, nhóm nghiên cứu nhận thấy các câu đố và
bài toán mà người ta dùng để đo trí thông minh tổng hợp (hoặc điểm G) dường như chỉ tác
động tới vùng vỏ não bên trán chứ không kích hoạt toàn bộ não. Phát hiện này cho thấy có
nhiều thứ khác quan trọng hơn kích thước não.
Trí thông minh cũng có thể liên quan tới trí nhớ hoạt động. Đôi khi chúng ta có thể tập luyện
để tăng cường khả năng ghi nhớ và điều đó tốt cho trí thông minh, đặc biệt là khả năng giải
quyết vấn đề mới. Tuy nhiên, biện pháp ấy chỉ có thể là đường tắt để chúng ta đạt được
điểm cao hơn khi làm các bài kiểm tra IQ, chứ không thể giúp giới khoa học hiểu rõ hơn về
cấu trúc não.
Năm ngoái, Philip Shaw, một chuyên gia làm việc tại Viện Sức khỏe thần kinh quốc gia Mỹ
tìm ra một khác biệt liên quan tới IQ trong quá trình phát triển của trẻ. Ông và cộng sự tiến
hành thử nghiệm với hơn 300 trẻ em có độ tuổi từ 7 tới 18. Nhóm nghiên cứu chia lũ trẻ
thành 3 nhóm theo chỉ số IQ: trung bình (dưới 108), cao (109-120) và xuất sắc (trên 120).
Khi lũ trẻ đến tuổi 18, các nhà khoa học không nhận thấy bất kỳ khác biệt nào về độ dày vỏ
não. Tuy nhiên, trẻ trong nhóm IQ trung bình đạt tới độ dày cực đại ở tuổi thứ 8, sau đó độ
dày giảm dần khi chúng lớn lên. So với nhóm trung bình, vỏ não của trẻ xuất sắc mỏng hơn
ở tuổi thứ 7 nhưng độ dày tiếp tục tăng lên cho tới 11 hoặc 12 tuổi rồi sau đó giảm đi. Vỏ
não của trẻ thuộc nhóm IQ cao cũng giống như vỏ não của nhóm xuất sắc, nhưng chúng đạt
độ dày cực đại trong khoảng thời gian từ 8 tới 11 tuổi.
Khả năng học ngoại ngữ
Ziad Fazah, một người Libăng nhắc đến ở trên, có khả năng nói, đọc và viết 59 ngôn ngữ
gồm 10 ngôn ngữ anh sử dụng như tiếng mẹ đẻ. Anh chỉ cần một tuần để nắm vững một
ngôn ngữ mới. Cha của Ziad chào đời tại Colombia và bản thân Ziad cũng được sinh ra tại
Liberia, phía tây châu Phi. Anh tới Libăng khi còn là một đứa trẻ và lớn lên gần một hải
cảng, nơi anh có cơ hội gặp gỡ thủy thủ tới từ nhiều nước.
Ziad bắt đầu học tiếng Pháp và Anh tại trường. Năm lên 11 tuổi, anh ấp ủ ước mơ nói được
tất cả ngôn ngữ trên hành tinh. Trong 3 năm sau đó, tuy không hề rời Libăng, anh học hơn
50 ngôn ngữ. Đôi khi Ziad học vài ngôn ngữ cùng lúc, song với mỗi thứ tiếng anh chỉ mất 3
tháng để sử dụng thành thạo. Chàng thanh niên này từng mơ ước làm việc cho Liên Hợp
Quốc và được nhiều cơ quan tình báo mời làm việc, nhưng giờ đây anh quyết định theo đuổi
một cuộc sống bình lặng với nghề giáo viên ngôn ngữ tại Brazil.
Bên trong não những thiên tài ngôn ngữ ẩn chứa những bí mật gì? Ziad tỏ ra chẳng có gì
đặc biệt mặc dù anh nói rằng trí nhớ của anh “giống như một máy ảnh” và anh cũng dành
khá nhiều thời gian cho việc học. Ziad cho rằng mọi người có thể nói được ít nhất một tiếng
nước ngoài nếu bỏ ra 30 phút mỗi ngày để nghe âm thanh của một người nói thứ tiếng ấy,
30 phút nữa để học ngữ pháp và 15 phút để ghi lại các âm thanh.
Ziad chưa bao giờ tham gia vào nghiên cứu nào liên quan tới tài năng của anh. Tuy nhiên,
sau khi tìm hiểu nhiều thiên tài ngôn ngữ khác, các nhà khoa học khẳng định việc tìm ra các
yếu tố khiến người ta có khả năng học ngôn ngữ cực nhanh không hề đơn giản. Luận điểm
duy nhất được nhiều nhà khoa học tán thành là: Càng tiếp xúc với ngôn ngữ sớm, người ta
càng dễ tiếp thu nó.
Nếu chúng ta không thể tạo ra được ký ức về những âm thanh đặc biệt ngay trong năm đầu
tiên của cuộc đời, khả năng nhận ra chúng sẽ biến mất và việc học trở nên khó khăn hơn.
Việc tiếp xúc với ngữ pháp của các ngôn ngữ nước ngoài trước tuổi thứ 7 sẽ giúp bạn tiếp
thu chúng tốt hơn trong giai đoạn sau của cuộc đời. Tuy nhiên, mức độ ghi nhớ từ vựng
hoàn toàn phụ thuộc vào trí nhớ của chúng ta.
24H.COM.VN (Theo VnE)
Thứ Ba, ngày 06/01/2009, 10:03
Những chuyện thú vị về khả năng não người (2)
Não nhà vật lý lỗi lạc Albert Einstein nhỏ như người thường, trong khi não cụ bà 115 tuổi có số
lượng tế bào tương đương người ở độ tuổi 60 là hai phát hiện thú vị về não của những người đặc
biệt.
Albert Einstein, một trong những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trong lịch sử loài người,
từ trần vào ngày 18/4/1955 tại bệnh viện Princeton (bang New Jersey, Mỹ). Đúng 7 giờ sau
khi nhà vật lý thiên tài qua đời, chuyên gia bệnh học Thomas Harvey cắt não của ông để
bảo quản, với hy vọng rằng sự phát triển của khoa học thần kinh trong tương lai có thể giải
thích được tại sao Einstein lại thông minh đến thế. Thomas nhận thấy não của Einstein
không có điểm đặc biệt. Nó co lại theo tuổi tác và thậm chí còn nhỏ hơn một chút so với
phần lớn não đa số người thường.
Trong những năm đầu thập niên 80, nhà thần kinh học Marian Diamond thuộc Đại học
California (Mỹ) phân tích một số lát cắt lấy từ các thùy trên đỉnh sọ và vùng vỏ não trước
trán của Einstein mà Thomas để lại. Sau khi so sánh các lát cắt với mô của 11 não bình
thường, bà nhận thấy tỷ lệ tế bào đệm trên tế bào thần kinh của Einstein lớn hơn. Trong
não và tủy sống, tế bào đệm bao bọc tế bào thần kinh và giúp tế bào thần kinh nằm yên tại
vị trí. Chúng không chỉ cung cấp năng lượng và dưỡng chất cho tế bào thần kinh, mà còn
liên quan tới quá trình xử lý và truyền tín hiệu thần kinh. Tuy không thể xác định chính xác
số lượng tế bào đệm, song Marian khẳng định số lượng của chúng trong vùng đỉnh trái trong
não Einstein nhiều gấp ít nhất hai lần người thường.
Trước đó, Marian từng biết một nhà toán học mất khả năng viết và vẽ hình khối sau khi
vùng đỉnh trái của anh bị chấn thương. Một số nhà toán học khẳng định họ nhìn thấy các
khái niệm trừu tượng một cách rõ ràng tới mức cứ như thể chúng tồn tại trong não và có thể
sờ mó như vật thể hữu hình. Marian cho rằng vùng đỉnh trái – nơi có vai trò quan trọng đối
với khả năng cảm nhận thị giác – liên quan tới vấn đề này. Nhưng cũng có một vài giả thiết
khác. Einstein từng mắc bệnh chậm đọc và khả năng nhớ từ của ông thuộc diện kém. Bệnh
chậm đọc thường xuất hiện sau khi vùng đỉnh trái bị tổn thương. Vì thế, số lượng tế bào
Nhà vật lý thiên tài
Albert Einstein
đệm lớn hơn mức trung bình của Einstein có thể là nguyên nhân khiến ông gặp khó khăn
trong kỹ năng đọc.
Britt Anderson, một chuyên gia tại Đại học Alabama (Mỹ) tiến hành nghiên cứu các mô trên
vỏ não thuộc vùng trán phải – nơi có liên quan tới trí nhớ hoạt động, khả năng tư duy và tổ
chức. Ông nhận thấy số lượng và kích thước tế bào thần kinh tại vùng này chẳng có gì bất
thường, nhưng toàn bộ lớp vỏ lại mỏng hơn so với mức trung bình (2,1 mm so với 2,6 mm).
Điều này nghĩa là tế bào thần kinh ở vỏ não của Einstein bị nén với mật độ dày hơn mức
bình thường. Britt cho rằng mật độ càng dày thì tốc độ liên lạc giữa các tế bào thần kinh
càng tăng.
Năm 1998, Britt lại tiếp tục nghiên cứu não Einstein một lần nữa. Lần này ông xem xét các
bức ảnh. Mọi thứ không có gì đặc biệt trừ các thùy trên đỉnh não. Tại đây não Einstein rộng
hơn mức trung bình khoảng 15% khiến nó giống hình bán cầu hơn. Phần lớn não người
thường có cấu trúc bất đối xứng, nhưng các thùy trên đỉnh của Einstein lại đối xứng với
nhau. Điều này củng cố giả thiết cho rằng Einstein có khả năng cảm nhận không gian và
suy luận hơn người nhờ một số cấu trúc không bình thường của não.
Một trường hợp đặc biệt khác là Hendrikje van Andel-Schipper, phụ nữ người Hà Lan sống
thọ nhất thế giới qua đời ở tuổi 115, tháng 8 năm ngoái. Não của bà trở thành đối tượng
nghiên cứu của một số nhà khoa học tại Đại học Y khoa Groningen. Họ nhận thấy não
Hendrikje hầu như không bị tổn thương mạch máu, không có hiện tượng tích tụ protein
(nguyên nhân gây nên các bệnh về trí nhớ như Alzheimer). Số lượng tế bào trong đó tương
đương với số tế bào trong não của người trong độ tuổi 60-80. Theo Wilfred den Dunnen,
trưởng nhóm nghiên cứu, điều đó cho thấy tuổi thọ của não có thể vượt xa tuổi thọ sinh học
của con người.
Quá trình lão hóa mang tới nhiều thay đổi cho não. Các mạch máu lên não co lại, trong khi
chất lượng myelin (chất béo có nhiệm vụ tách các sợi thần kinh ra khỏi nhau) giảm đi. Thể
tích não giảm xuống đôi chút và các đường rãnh trên bề mặt não phình ra. Tuổi già cũng
khiến tốc độ di chuyển của tín hiệu thần kinh và khả năng phối hợp giữa các vùng não giảm.
Các nhà tâm lý khẳng định rằng, trí nhớ có thể bắt đầu suy giảm từ độ tuổi đôi mươi, song
kinh nghiệm và kiến thức tổng hợp lại tăng lên cho đến khi chúng ta bước vào độ tuổi ngũ
tuần hoặc lục tuần. Ngoài ra, khả năng nhận thức của con người được duy trì liên tục trong
suốt cuộc đời bởi khi thể tích một vùng não giảm xuống, não sẽ huy động các vùng khác
làm việc thay.
Nhiều nhà khoa học cho rằng suy giảm trí nhớ là căn bệnh không thể tránh khỏi của tuổi
già. Quan điểm này ngày càng lung lay khi người ta tìm thấy vài chục người có tuổi thọ trên
một thế kỷ có trí nhớ chẳng kém thanh niên tuổi đôi mươi. Bí quyết để có một bộ não minh
mẫn lúc về già không hề đơn giản. Một số người mắc bệnh mất trí nhớ do di truyền, trong
khi nhiều người khác đột nhiên mắc bệnh. Huyết áp cao, béo phì và các bệnh liên quan tới
tim mạch đều làm tăng nguy cơ đột quỵ và mất trí nhớ. Tập thể dục và rèn luyện trí não
thường xuyên là hai trong số những cách hiệu quả nhất để duy trì sự minh mẫn của bộ não
khi về già.
- Những chuyện thú vị về khả năng não người
24H.COM.VN (Theo VnE)