Các trận đánh nổi tiếng trong đệ nhị thế chiến.
Trận đánh Trân Châu Cảng
Yamamoto sinh ra trong một gia đình võ sĩ ngày 4/4/1884 thành phố Tân Cương Nhật Bản.
Năm 1904, với tinh thần võ sĩ đạo, ông tốt nghiệp trường sĩ quan hải quân Giang Điền.
Từng sống và tu nghiệp ở Mĩ nhiều năm, sau 42 năm phục vụ trong hải quân Nhật Bản ông
trở thành tư lệnh Hải quân Liên hợp Nhật Bản. Với năng khiếu và tầm nhìn quân sự chiến
lược, Yamamoto đã ra sức xây dựng lực lượng Không Quân của Hải quân Nhật Bản sớm
có vị trí tiên tiến hàng đầu thế giới. Kể từ sau chiến tranh Nga-Nhật, hải quân Nhật Bản đã
giành quyền bá chủ bắc thái bình dương và đe dọa đến quyền lợi của Anh-Mĩ. Thế chiến
thứ hai bùng nổ, Nhật Bản tham gia trục phát xít Đức-Ý. Không tán thành liên minh này
bởi Yamamoto cho rằng Nhật Bản không phải là đối thủ lâu dài với tiềm lực quân sự kinh
tế của Mĩ. Tuy nhiên để giành được ưu thế tạm thời ở khu vực Thái Bình Dương, cần phải
có đòn chí mạng vào lực lượng hải quân chủ lực của Mĩ ở nam Thái Bình Dương. Vì vậy,
ông là người đề xuất thực hiện kế hoạch tập kích Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii.
Đây là một trận đánh mang yếu tố bí mật và vô cùng bất ngờ của Hải quân Nhật Bản. Lực
lượng tập kích của Nhật bao gồm: 6 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giạm hạm, 2 tuần dương
hạm hạng nặng, 3 tàu ngầm, 9 khu trục hạm, 8 tàu chở dầu đã bí mật xuất phát từ ngày
25/11 từ vịnh Curilo, hành quân suốt 7 ngày theo một lộ trình vòng vèo, với sự im lặng
tuyệt xuống phía nam Thái Bình Dương né tránh tất cả sự do thám của không quân của Hải
quân Mĩ và tập kết ở một vị trí cách Trân Châu Cảng 200 hải lý. 5h sáng ngày 7/12/1941,
1
từ những tàu sân bay, lực lượng không quân đã cất cánh oanh kích bằng thủy lôi vào các
chiến hạm Mĩ đang đậu tại cảng Trân Châu. Qua hai đợt tấn công các phi cơ ném bom,
phía Mĩ đã bị đánh chìm 6 chiến hạm lớn, 6 tuần dương hạm hạng nhẹ, 6 khu trục hạm, 2
tàu chở dầu và làm bị thương hai chiến hạm lớn, 1 tuần dương hạm hạng nặng. Mĩ tổn thất
300 phi cơ, chết 2003 binh sĩ, bị thương 1117 người. Riêng Nhật bị tổn thất 29 phi cơ, 5
tiềm thủy tĩnh, chết 100 người. Rõ ràng trận tập kích đã toàn thắng nhờ yếu tố bất ngờ và
sự chuẩn bị kĩ càng hàng năm trời của Yamamoto.
Sau trận đánh thắng giòn giã này, Nhật Bản lại tiếp tục phát huy chiến quả tiến đến phía
nam.
Chiến dịch Midway Nhật-Mĩ (1942)
Nhật Bản tấn công Midway lúc 06:20 ngày 4 tháng 6.
Vào những năm 1941-1942, quân đồng minh đã bị đẩy lùi một cách nhanh chóng trước sức
tấn công mạnh mẽ của quân đội Nhật Bản. Mở đầu là cuộc tập kích của hạm đội Nhật Bản
2
vào Trân châu cảng vào sáng chủ nhật ngày 7/12/1941. Cuộc tập kích đã giáng một đòn
choáng váng vào hải quân Mĩ làm cho 19 tàu chiến bị đánh chìm, 311 máy bay bị đánh
cháy, 3600 quân thương vong. Thắng lợi đó đã tạo điều kiện cho Nhật Bản phát triển trên
các khu vực khác ở Thái Bình Dương. Chỉ trong vòng 5 tháng, từ thắng lợi Trân châu cảng,
Nhật đã chiếm được Philipines, Mianma, Thái Lan, Malayxia và các đảo lớn ở
Indonexia…căn cứ hải quân quan trọng của Mĩ ở Guam, Uây cơ, Mariar cũng bị Nhật
chiếm đóng. Tuy nhiên, hạm đội Nhật đã gặp phải thất bại đầu tiên trên vùng biển san hô
khi đánh chiếm cảng Moresby gần Úc vào ngày 7-8/5/1942, nhưng Nhật không lùi bước.
Tháng 4/1942 Nhật có kế hoạch tấn công Midway, Hawai do đô đốc Yamamoto soạn thảo.
Midway đối với cả Nhật và Mĩ có vị trí chiến lược rất quan trọng, đây là nơi mà Mĩ đã xây
dựng các căn cứ Hải lục không quân mạnh ở trung tâm Thái bình dương. Nếu chiếm được
Midway, hành lang an toàn về phía đông của Nhật Bản được tăng cường vững chắc, tạo
điều kiện cho Nhật tiếp tục tiến về phía nam.
Kế hoạch tấn công Midway của Nhật được chuẩn bị khá chu đáo, lực lượng tham gia tấn
công gồm 11 thiết giáp hạm, 4 hàng không mẫu hạm hạng nặng và 4 HKMH hạng nhẹ, 13
tuần dương hạm hạng nặng và 9 nhẹ, 66 khu trục hạm, 22 tàu ngầm và 620 máy bay. Ngoài
ra còn có tàu quét mìn, vận tải và nhiều tàu khác. Tất cả lực lượng này hình thành nên 6
binh đoàn, trong đó có 4 binh đoàn cơ bản được triển khai như sau:
-Binh đoàn không quân tiến công dưới sự chỉ huy của phó đô đốc Nagumo với 4 HKMH
hạng nặng, 2 thiết giáp hạm, 3 tuần dương hạm và mười hai khu trục hạm; binh đoàn đổ bộ
dưới sự chỉ huy của đô đốc Kondo với 1HKMH, 2 thiết giáp hạm, 10 tàu phóng lôi, 4 tàu
quét mìn, 3 tàu săn ngầm, 24 tàu đổ bộ và 2 tàu vận tải.
Lực lượng chính của hạm đội dưới sự chỉ huy của đô đốc Yamamoto triển khai cách
Midway 600 hải lý về hướng tây bắc để yểm hộ hướng chính và hướng nghi binh.
-Binh đoàn do đô đốc Hooxxogaya chỉ huy hai hàng không mẫu hạm hạng nhẹ, 6 tuần
dương hạm, 12 khu trục hạm, 6 tàu ngầm, 4 tàu vận tải và nhiều tàu khác với nhiệm vụ
đánh chiếm quần đảo Aliut.
Ngày 24-27/5/1942, các binh đoàn nói trên lần lượt xuất phát đến vị trí tập kết.
Cuối tháng 5, Mĩ đã huy động 3 HKMH hạng nặng(có 233 máy bay), 8 tuần dương hạm và
14 khu trục hạm tổ chức thành 2 binh đoàn 16 và 17 dưới sự chỉ huy của đô đốc Flecher.
Để phòng ngự Alut Mĩ tăng cường thêm 5 tuần dương hạm, 14 khu trục hạm, 6 tàu ngầm
và nhiều máy bay chiến đấu các loại do đô đốc Nimit chỉ huy.
Trước khi mở màn trận Midway sáng ngày 3 tháng 6, các máy bay Nhật tập trung oanh tạc
các căn cứ Datch Kharbor trong khu vực quần đảo Alut nhằm thu hút sự chú ý của bộ chỉ
3
huy Mĩ. Sáng ngày 4/6, binh đoàn tiến công của Nhật cách Midway 420 hải lý, Nhật sử
dụng 108 máy bay từ các HKMH oanh tạc dữ dội vào khu vực đảo, gây thiệt hại lớn cho
công trình phòng ngự và bắn rơi 25 tiêm kích của Mĩ. Về phía Mĩ, các máy bay ném bom
cất cánh từ tàu Interprice và Yorktown đã bắn chìm các HKMH hạng nặng Kaga, Akaghi
và Horyu cùng 137 máy bay chiến đấu của Nhật. Ngày 7/6 thì Yorktown bị tàu ngầm Nhật
đánh chìm. Xong phía Nhật cũng mất 4 HKMH. Đô đốc Yamamoto ngừng việc đổ bộ lên
Midway, tập trung lực lượng về hướng Tây bắc, thậm chí điều cả binh đoàn từ khu vực
Alut về tăng cường nhưng đã quá muộn. Hạm đội Mĩ rời sang hướng đông. Ngày 6/6, lực
lượng chính của Hạm đội Nhật tiến xuống phía nam và 7/7 đô đốc Yamamoto buộc phải
cho hạm đội trở về căn cứ xuất phát.
Trận Midway kết thúc, hạm đội Nhật bị thiệt hại nặng, 4HKMH,1 tuần dương hạm hạng
nặng bị chìm, 322 máy bay cùng nhiều tàu bị hỏng nặng. Mĩ chỉ mất 1 HKMH, 1 khu trục
hạm và 150 máy bay chiến đấu.
Chiến dịch Bắc Phi (1942):
4
Quân Anh ở mặt trận Bắc Phi
Eisenhower sinh ngày 14/10/1890 tại thành phố Denison tiểu bang Texas, năm 1910 ông
tốt nghiệp trường võ bị Vest Foint cái nôi của sĩ quan lục quân Mĩ. Là người có năng khiếu
về lịch sử và toán học ông sớm nhận thức về vai trò, sức mạnh cơ động của binh chủng xe
tăng và không quân trong cuộc chiến tranh hiện đại.
Trong thế chiến thứ hai, với hàm thiếu tướng phụ trách cục tác chiến đồng minh ở châu âu,
ông đã đánh giá và thúc đẩy vai trò của công tác tình báo quân sự lên vị trí quan trọng.
Thời gian này , Eisenhower luôn ra sức củng có mối quan hệ liên minh có ý nghĩa tuyệt đối
với nước Anh để đảm báo thắng lợi cho cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít. Đến năm
1943 Eisenhower được tổng thống Roosevelt bổ nhiệm thống soái lực lượng viễn chinh 12
nước đồng minh tại Châu Âu với quân số lên tới 3 triệu người. Kết thúc thắng lợi cuộc đại
chiến thế giới lần thứ hai, ông trở thành vị tướng quân tiếng tăm nhất và thành công nhất
trong chiến tranh. 16 năm sau ông tiếp tục giữ nhiều trọng trách như: chỉ huy tối cao quân
Mĩ tại Đức, tham mưu trưởng lục quân Mĩ, hiệu trưởng trường đại học danh tiếng
5