Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Một số câu hỏi về lịch sử đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.16 KB, 11 trang )

Câu 2: Phân tích quá trình nhận thức của Đảng cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân của Đảng ta từ năm 1930 – 1954.
BÀI LÀM
I. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Trước yêu cầu của lịch sử, Nguyễn Ái Quốc được sự phân công của
quốc tế cộng sản, nhận trách nhiệm thống nhất các tổ chức cộng sản để lập
ra một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị thống nhất lấy tên là
Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua chánh cương vắn tắt, điều lệ vắn tắt,
chương trình tóm tắt, sách lược vắn tắt của Đảng và điều lệ tóm tắt của các
hội quần chúng do Nguyễn Ái Quốc Soạn thảo.
Hội nghị hợp nhất mang ý nghĩa lịch sử là đại hội thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã xác định một
cách tóm gọn những nét chính về các vấn đề chiến lược và sách lược của
CMVN. Tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản, đúng đắn cho
CMVN, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nội dung cương lĩnh tóm tắt :
- Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng, tức là làm cuộc CMDTDCND để đi tới xã hội cộng sản.
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng là : Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra
Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông; thủ tiêu các quốc
trái, thu hết sản nghiệp lớn của bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất, miễn thuế cho
dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8
giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục
theo hướng công nông hóa…
Các nhiệm vụ trên bao hàm cả hai nội dung : dân tộc và dân chủ, chống
đế quốc và chống phong kiến, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai phong kiến, giành độc lập và tự do cho toàn thể dân tộc.
- Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo công nhân, làm cho
GCCN lãnh đạo dân chúng, phải thu phục cho được đông đảo nông dân và


dựa vững vào nông dân nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất. Đảng
phải hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi về phía giai cấp vô
sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ và tư bản Việt
Nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Trong khi
liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận không được đi vào đường lối thỏa
hiệp.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tổ chức lãnh đạo CMVN
đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể đồng bào bị áp bức bóc lột. Đảng


phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới,
nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo là
cương lĩnh đầu tiên của Đảng CSVN, đó là cương lĩnh cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp xu thế phát triển của thời đại mới,
nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập
tự do gắn liền với định hướng tiến lên CNXH, là tư tưởng cốt lõi của cương
lĩnh.
II. Quá trình nhận thức đường lối cách mạng dân tộc dân chủ từ
1930-1954
1)- Thời kì 1930-1945 :
Sau hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được các
cơ sở Đảng bí mật đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng rộng lớn của
quần chúng diễn ra ngày càng sôi nổi và trên đà phát triển mạnh mẽ. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ phác ra những nét cơ bản nhất
về đường lối CMVN. yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng phải có một cương
lĩnh đầu đủ, toàn diện hơn.
Trần phú sau một thời gian dài học ở Liên Xô, được quốc tế cộng sản cử
về nước hoạt động và bổ sung vào BCHTW Đảng, được giao nhiệm vụ soạn
thảo (Luận cương chính trị(. Hội nghị lần thứ nhất BCHTW Đảng họp

10/1930, thống nhất đổi tên Đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương, thông
qua Luận cương chính trị, điều lệ Đảng, cử BCHTW chính thức… BCHTW
Đảng đã đánh giá rằng Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hội nghị
hợp nhất tháng 2/1930 đã phạm sai lầm chính trị rất (nguy hiểm( vì (chỉ lo
đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu(. Vì vậy đã quyết
định thủ tiêu (Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Đảng( và phải dựa vào
Nghị quyết của quốc tế cộng sản, chính sách và kế hoạch của Đảng theo tinh
thần hội nghị tháng 10/1930. Luận cương chính trị 10/1930 xác định :
- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào, Cao
Miên là : (một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, một bên
thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa(.
- Tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc (cách mạng tư
sản dân quyền(, (có tính chất thổ địa và phản đế(, (Tư sản dân quyền cách
mạng là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng(. Sau khi cách mạng tư sản
dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục (phát triển bỏ qua thời kì tư bản mà tranh
đấu thẳng lên con đường XHCN.
- Sự cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh
đổ các di tích phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất cho triệt để và
tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ


ĐQCN mới phá được giai cấp địa chủ, tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi
và có phá tan được chế độ phong kiến mới đánh đổ được ĐQCN. Luận
cương coi (vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền(, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Xác định giai cấp vô sản (GCVS) và nông dân là hai động lực chính
của cách mạng tư sản dân quyền. Trong đó GCVS là động lực chính và
mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Tư sản thương nghiệp chỉ đứng về
phía đế quốc chống cách mạng, tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc

gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo phe đế quốc.
Giai cấp tiểu tư sản, bộ phận tiểu thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu
tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có
xu hướng quốc gia cách mạng và chỉ có thể hăng hái chống đế quốc trong
thời kì đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà
thôi.
- Sự lãnh đạo Đảng là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, tập trung gắn bó quần
chúng, lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là đội tiên
phong của GCCN, đại biểu cho chính quyền lợi của GCCN, đấu tranh cho
mục tiêu CSCN.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất
là vô sản Pháp.
+ Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ trang, bạo động để
giành chính quyền, phải coi võ trang là một nghệ thuật, phải theo (khuôn
phép nhà binh(.
Nhìn chung, qua những nội dung cơ bản nêu trên của luận cương tháng
10/1930, đã thấy rõ là luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ
bản thuộc về đường lối chiến lược cách mạng nước ta mà Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu.
Tuy có mang tính kế thừa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của
hội nghị tháng 2/1930, nhưng do nhận thức giáo điều về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ
về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng
thời lại chịu ảnh hưởng khuynh hướng (tả( của quốc tế cộng sản, cho nên
BCHTW Đảng do Trần Phú đứng đầu đã không vạch rõ được mâu thuẫn chủ
yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn
thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên
được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách
mạng ruộng đất : không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp

rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Từ đó đã phê
phán gay gắt quan điểm đúng đắn của Hội nghị hợp nhất là đặt vấn đề dân
tộc lên hàng đầu và đã quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược


vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Song, ngay từ đầu, thực
tiễn cách mạng đã khẳng định tính chất khoa học, cách mạng và vị trí lịch sử
của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Cao trào cách mạng của quần chúng với đỉnh cao là cao trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh, cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng quyết liệt thì
Ban thường vụ TW Đảng ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, trong
đó nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn đã được nêu trong
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, coi việc đoàn kết toàn dân thành
một tổ chức rộng rãi, lấy công nông là động lực chính quyết định thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc. Chỉ thị cũng phê phán những nhận thức
sai lầm trong Đảng là tách rời vấn đề dân tộc và giai cấp, nhận thức không
đúng về vai trò đoàn kết dân tộc, về vai trò Hội phản đế đồng minh trong cách
mạng thuộc địa. Hậu quả là làm cho tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần mầu
sắc công nông, thiếu một tổ chức thật quãng đại quần chúng trong hàng ngũ
chống đế quốc Pháp.
Tuy nội dung của bản chỉ thị phù hợp với tư tưởng đoàn kết dân tộc đã
được nêu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Song quan điểm và chủ
trương đúng đắn về vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, vấn đề đoàn
kết dân tộc vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của BCHTW lúc đó.
Từ tháng 10/1930 cho đến đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ I (3/1935),
nhiều chương trình hành động và Nghị quyết của Đảng đều tiếp tục đứng
trên quan điểm tư tưởng sai lầm của Hội nghị tháng 10/1930. Nhìn nhận và
đánh giá một cách khách quan về chủ trương của Hội nghị BCHTW Đảng lúc
bấy giờ về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến, giữa liên minh công nông và đoàn kết với các lực lượng

yêu nước trong dân tộc thì thấy có nhiều quan điểm, nhận thức mâu thuẫn
nhau. Bệnh ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng (tả(, biệt phái và giáo điều rập
khuôn vẫn còn là khuynh hướng chi phối trong các chủ trương và chính sách
của Đảng.
Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt
là chủ trương chiến lược của đại hội lần thứ VII quốc tế cộng sản. Tháng
7/1936, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội nghị đã vạch ra những chủ trương mới
về chính trị, tổ chức và đấu tranh; xác định chiến lược cách mạng ở Đông
Dương vẫn là (cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính
quyền công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mệnh
XHCN(. Trung ương Đảng nêu rõ, tạm thời không nêu khẩu hiệu độc lập dân
tộc và ruộng đất cho người cày; mục tiêu trước mắt và trực tiếp là : (nhiệm vụ
lập mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái,
các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc Đông
Dương cùng đấu tranh đòi những điều kiện dân chủ, dân sinh cho nhân dân
lao động và chống hoạt động thuộc địa. Trung ương còn chủ trương đổi mới


về tổ chức và đấu tranh, chuyển từ hình thức tổ chức đấu tranh bí mật,
không hợp pháp sang các hình thức công khai, và nửa công khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp.
Điều đáng chú ý là trong khi đề ra chủ trương mới lãnh đạo nhân dân
đấu tranh đòi các quyền về dân chủ dân sinh. Trung ương Đảng đã bắt đầu
chú ý và xem xét lại quan điểm chỉ đạo chiến lược chống đế quốc và phong
kiến của hội nghị tháng 10/1930 và đi đến kết luận : không nhất thiết phải
thực hiện ngang bằng nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến mà tùy
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tùy vào tương quan so sánh
lực lượng giữa hai bên mà đề cao nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Và cho
rằng, nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn
đề điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể

trước hết tập trung đánh đổ đế quốc rồi giải quyết vấn đề điền địa sau; nhưng
có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp
cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là cuộc phản đế
phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời vì muốn tăng
thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng
điền địa. Đây là tư duy mới, là một quan điểm đúng đắn phù hợp với tư
tưởng chiến lược của Cương lĩnh tháng 2/1930, và nó mở đường cho chiến
lược của Đảng ta từ năm 1939 về sau này.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi
hành chính sách thống trị thời chiến. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, từ
đó nhân dân ta một cổ hai tròng áp bức Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân
dân ta và Pháp - Nhật gay gắt hơn bao giờ hết. Hội nghị TW6 (11/1939) do
đ/c Nguyễn Văn Cừ chủ trì và đặc biệt là hội nghị BCHTW lần thứ 8 (5/1941)
do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đề ra những thay đổi mới về đường lối,
chủ trương (cách mạng tư sản dân quyền( ở Đông Dương.
Hội nghị 5/1941 nhận định : (bước đường sinh tồn của các dân tộc ở
Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận là da trắng hay da vàng để
tranh lấy giải phóng dân tộc(. BCHTW Đảng khẳng định : tập hợp toàn dân
tộc, đề cao khẩu hiệu đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc, đề cao
khẩu hiệu dân tộc trên hết, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra nhiều bước;
trung ương Đảng chủ trương đấu tranh để xây dựng các quốc gia riêng biệt :
Việt Nam, Cao Miên, Lào theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết,
không tổ chức thành Liên bang Đông Dương; chủ trương thành lập mặt trận
Việt Minh để tập hợp toàn dân tộc chống Pháp - Nhật, và chỉ ra con đường
đấu tranh giành chính quyền là khởi nghĩa võ trang với hình thức khởi nghĩa
từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Trong thư gửi đồng bào 6/1941, Người viết :( Trong lúc này quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta hãy đoàn kết lại đánh đổ bọn



đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng…(,
(Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác
một phần trách nhiệm : người có tiền góp tiền, người có của góp của... Riêng
phần tôi, tôi xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự
do độc lập, dầu phải hi sinh tính mệnh cũng không nề(.
Các Nghị quyết trên và sự điều chỉnh chiến lược của BCHTW chính là
sự kế tục và phát triển những quan điểm, tư tưởng đúng đắn của Chính
cương vắn tắt, Sách lược văn tắt 2/1930 và là nguồn gốc quyết định thắng lợi
của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 sau này.
1)- Thời kì 1945 - 1954 :
a)- Bối cảnh lịch sử :
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Kết thúc chiến tranh TG II, tương quan lực lượng trên thế
giới có nhiều thay đổi, hệ thống các nước XHCN hình thành tạo một dòng
thác cách mạng phối hợp phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa
bình tiến bộ trên thế giới tiến công đẩy lùi CNĐQ. Chủ nghĩa thực dân cũ thất
bại, Pháp suy yếu do chiến tranh TG II và lệ thuộc Mĩ về nhiều phương diện.
CNĐQ dưới sự điều khiển của Mĩ coi Việt Nam là trọng điểm, thỏa thuận với
nhau về quan điểm bao vây tiêu diệt CMVN.
Ở trong nước, lực lượng mọi mặt của Nhà nước còn non yếu, các nước
đế quốc và các thế lực phản động quốc tế và trong nước liên kết bao vây
chống phá quyết liệt. Miền Bắc, quân Tưởng kéo vào với danh nghĩa quân
đồng minh tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là âm mưu (Cầm Hồ, diệt
cộng( tạo lập một Chính phủ tay sai tranh giành quyền lực gây khó khăn cho
cách mạng. Ngoài ra còn có 2 vạn quân Anh dưới danh nghĩa đồng minh dọn
đường cho Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Ngày 23/8/1945, quân Pháp đã
nổ súng đánh chiếm : Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ
cách mạng phải đương đầu với nhiều tổ chức và giáo phái phản động ở miền
Nam do Pháp viện trợ để tranh giành quyền lực với Việt Minh… Mặt khác,

Chính quyền cách mạng phải đương đầu với nền kinh tế nghèo nàn, các di
sản văn hóa nô dịch nặng nề… Đất nước lâm vào tình thế : (nghìn cân treo
sợi tóc(.
Trước tình thế khó khăn, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi sức mạnh của cả dân tộc,
dùng sách lược đấu tranh linh hoạt và khôn khéo với địch, từng bước vượt
qua mọi hiểm nguy, chủ động trước mọi tình thế để giữ vững chính quyền,
đưa cách mạng tiến lên. Lúc này, Ban thường vụ TW Đảng ta xác định :
(Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải
phóng(. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta
chưa hoàn toàn độc lập. Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông
Dương, Đảng ta nêu rõ : (Kẻ thù chính của dân tộc lúc này là thực dân Pháp


xâm lăng(, (phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng(. Vì vậy, phải (lập
mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng Việt
Minh … Kiên quyết giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, độc lập về
chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa, cải thiện đời sống nhân dân(.
Những chủ trương trên của Ban thường vụ TW Đảng được nêu trong chỉ
thị (Kháng chiến kiến quốc(. Ngoài ra, Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc Đảng
cũng nêu rõ : cách mạng muốn đứng vững phải biết tự bảo vệ, phải đồng
thời thực hiện hai mặt song song :
- Kiến quốc để phát triển thực lực cách mạng nhằm đủ mạnh để thắng
kẻ thù
- Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng kẻ thù để nhằm hòa
hoãn những kẻ có thể hòa hoãn được để tập trung lực lượng chống Pháp.
* Về tổ chức thực hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc :
- Về xây dựng và phát triển thực lực cách mạng : ta tổ chức tổng tuyển
cử, xây dựng chính quyền cách mạng, ban hành Hiến pháp (1946) tạo tính
hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Tích cực xây dựng lực

lượng vũ trang : Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, diệt nạn đói, giặc
dốt.
- Về thực hiện chính sách hòa hoãn : thực hiện thành 2 giai đoạn
+ Giai đoạn I (9/1945-2/1946) : chủ trương hòa với Tưởng để tập
trung lực lượng đánh Pháp ở Nam Bộ, tranh thủ hòa hoãn để tập trung phát
triển lực lượng cách mạng
+ Giai đoạn II (3/1946-12/1946) : kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ
6/3/1946, đặt cơ sở đi đến đàm phán để kí một Hiệp định chính thức. Cuộc
đàm phán chính thức giữa ta và Pháp tại Phông-ten-nơ-bơ-lo không đi đến
kết quả. Nhằm tranh thủ kéo dài thời gian cho việc tiếp tục xây dựng lực
lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với
Chính phủ Pháp bản tạm ước 14/9/1946 : chấp nhận cho Pháp mang 15 vạn
quân ra miền Bắc, Việt Nam là quốc gia nằm trong sự bảo hộ của Pháp. Phía
Pháp phải chấp nhận Bắc kì trải qua cuộc trưng cầu dân ý, công nhận Chính
phủ Hồ Chí Minh là quốc gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp... Với kết quả
đàm phán và thương lượng : 20 vạn quân Tưởng, 6 vạn quân Nhật, 2 vạn
quân Anh phải rút về nước.
Nhìn chung, từ 9/1945-12/1946, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giữ vững được Chính quyền cách mạng, đẩy mạnh kháng chiến ở miền
Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Thực
tiễn lịch sử của thời kì này đã đem lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu,
nhất là bài học về phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, chống chia rẽ, đối


lập, về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và về sự nhân nhượng
có nguyên tắc.
* Phát động toàn quốc kháng chiến; đường lối kháng chiến của
Đảng
Sau kí Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp đem quân ra miền Bắc liên tục
khiêu khích và lấn chiếm, gửi tối hậu thư Chính phủ ta đòi tước vũ khí lực

lượng tự vệ Hà Nội, kiểm soát an ninh thủ đô. Hành động của thực dân Pháp
đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng.
Lịch sử dân tộc đã đặt trước một sự lựa chọn mới : phải đứng lên kháng
chiến trong toàn quốc để bảo vệ nền độc lập. Đêm 19/12/1946, Ban thường
vụ TW Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất
nước, là lời hịch làm thấu động tình cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong mỗi
lòng người dân Việt anh hùng bất khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên
chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với ý chí (cảm tử cho tổ quốc
quyết sinh(, với một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định, vì độc lập tự do
của tổ quốc. Lời kêu gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến, khái quát ở trình
độ cao, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh
nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng. Ngày 22/12/1946, Ban
thường vụ TW Đảng ra bảng chỉ thị toàn dân kháng chiến. Tóm tắt những nội
dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng như sau :
- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam
xác định cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược
của thực dân Pháp; chiến tranh chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho
người cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH.
- Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng
chiến toàn diện, kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chiến lâu
dài và trải qua ba giai đoạn : cầm cự, phòng ngự và tổng phản công. Đảng ta
xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong giai đoạn này, tác phẩm :
(Kháng chiến nhất định thắng lợi( của Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm
của Đảng là : (cuộc kháng chiến chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất
nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ. Nó không tịch thu
ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và

các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng
chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh(.
* Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951)


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II triệu tập từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại
Tuyên Quang. Đại hội quyết định tách ba Đảng bộ Đảng cộng sản ở Đông
Dương để lập ra mỗi nước một Đảng cách mạng riêng. Đảng cộng sản Đông
Dương được đổi tên là Đảng lao động Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng, báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh đã vạch rõ khẩu
hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ,
giành thống nhất độc lập hoàn toàn, đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên
Đảng là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo chính trị Bàn về cách mạng Việt
Nam của Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối CMVN. Đó là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH ở Việt Nam. Nội dung cốt lõi
của bản báo cáo bàn về CMVN là Cương lĩnh chính trị thứ ba của Đảng ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của CMVN là đánh đuổi bọn
đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH. Ba nhiệm vụ đó khắng
khích với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân
tộc. Đại hội xác định lực lượng CMDTDCND ở Việt Nam là : GCCN, giai cấp
nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc.
Ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp,
tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công,
nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là GCCN…
Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất trong vùng tự do. Đầu 1953,
Hội nghị TW lần 3,4 của Đảng chủ trương tổ chức cải cách ruộng đất, xóa bỏ
giai cấp địa chủ, chia ruộng đất cho nông dân ở vùng tự do. Kết quả : trong
một thời gian ngắn đã xóa bỏ hoàn toàn giai cấp địa chủ, chia ruộng đất (đất

địa chủ và đất làng xã) cho nông dân. Đây là cuộc cách mạng đổi đời của
nông dân, lúc này nông dân chỉ có đóng một sắc thuế duy nhất là thuế kháng
chiến, không còn phải nộp tô thuế cho địa chủ.
III. Đảng lãnh đạo đường lối, xây dựng thực lực kháng chiến về mọi
mặt
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch, phương châm chiến lược của
ta là đánh lâu dài. Là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, từng
bước làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Vì thế phải đánh địch trên
tất cả các lĩnh vực : quân sự, kinh tế, chính trị văn hóa, trong đó Đảng xác
định quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng địch trên toàn
bộ đất nước.
- Về chính trị : Đảng chủ trương tiếp tục củng cố chính quyền dân
chủ nhân dân ở vùng tự do, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc chống
Pháp bằng việc duy trì mặt trận Việt Minh và xây dựng thêm mặt trận Liên
Việt để thu hút mọi lực lượng chống Pháp; tuyên truyền tính chất chính nghĩa


của cuộc kháng chiến để cô lập và hạn chế tối đa những hoạt động của bọn
Việt gian.
- Về kinh tế : xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở vùng tự do,
đảm bảo đời sống nhân dân và nuôi quân đánh Pháp, thực hiện sách lược
tiêu thổ kháng chiến ở vùng tự do. xây dựng các nhà máy quốc phòng, chế
tạo vũ khí với phương châm phục vụ trước mắt cho kháng chiến và khi
kháng chiến thành công sẽ phục vụ chuyển sang xây dựng CNXH. Ở vùng
tạm chiếm : đưa lực lượng phá hoại nền kinh tế bằng lực lượng du kích, đặc
công, đẩy mạnh sách lược làm chảy máu nền kinh tế của Pháp.
- Mặt trận tư tưởng văn hóa : tuyên truyền đấu tranh xóa bỏ những
tàn dư phong kiến lạc hậu, tư tưởng thực dân, xây dựng nền văn hóa mới,
nền văn hóa khoa học đại chúng.
- Về quân sự : Dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng

cường, nhất là sự phát triển của ba thứ quân, Đảng chỉ đạo đấu tranh đi từ
đánh nhỏ đến đánh lớn, từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh
chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Đảng chủ
trương dẫn dắt cuộc kháng chiến qua ba giai đoạn :
+ Giai đoạn 1 (9/1945 đến cuối 1947) : chủ động tiến hành cuộc
kháng chiến cục bộ ở miền Nam và sau đó phát động kháng chiến trong cả
nước. Ta đã đánh bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp
(kế hoạch một tuần dạo mát ở Việt Nam). Đỉnh cao của giai đoạn này là ta đã
đánh bại cuộc hành quân Thu Đông 1947 của Pháp ra miền Bắc.
+ Giai đoạn 2 (1948 đến 1950) : trên cơ sở chiến tranh du kích
được mở rộng, ta đã liên tiếp mở nhiều chiến dịch nhỏ hạ hàng loạt đồn bót,
tiêu diệt nhiều sinh lực của địch, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng ở nhiều
nơi. Kết hợp một số chiến dịch nhỏ ta đã đánh bại kế hoạch dùng người Việt
đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp. Năm
1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới, một chiến dịch tấn công lớn đầu
tiên của quân đội ta. Chiến dịch Biên giới thắng lợi đánh dấu một bước
trưởng thành của về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của
quân đội ta.
+ Giai đoạn 3 (1951 đến 7/1954) : chủ động mở nhiều chiến dịch
ở vùng đồng bằng Bắc bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà
đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. với chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã
đánh bại mọi cố gắng quân sự cao nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở
Đông Dương và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị kí Hiệp định Giơnevơ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn nhất trong cuộc đọ sức
toàn diện và quyết liệt nhất của quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội
xâm lược Pháp. Chiến công đó mãi mãi được ghi nhớ vào lịch sử dân tộc
như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỉ XX và đi


sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, một sự kiện báo hiệu

sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân



×