Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÌM HIỂU NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐCLẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG VÀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNGBỘ TỈNH LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ 2015 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.03 KB, 23 trang )

CUỘC THI “TÌM HIỂU NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC
LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG VÀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG
BỘ TỈNH LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ 2015 - 2020”
Câu 1:
Đại hội lần thứ XII của Đảng họp vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng:
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục
tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; trải qua 5
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011- 2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, 30 năm tiến hành công cuộc
đổi mới. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Đại hội đã thảo luận và thông qua những
chủ trương, quyết sách quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc toàn bộ
quá trình triển khai tổ chức thực hiện phượng hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước
nhanh, bền vững, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng, cổ vũ và động
viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng (2011-2015); nhìn lại 30 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ 5 năm 2016-2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá XI; đánh giá việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; bầu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII.
Câu 2:
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân
vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".


Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững.
Thành tựu to lớn đầu tiên trong suốt thời gian sau 30 năm đổi mới là: Việt
Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục được
nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm 1995)
1


và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu lương
thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương
thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam
đã chú ý đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ
đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.
Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
đã tăng 2,45 lần.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác
định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ
định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và
đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi
mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn
hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát
huy đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước

hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo
dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000,
Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo
sau đại học với hai học vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các
ngành học thuộc khoa học tự nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và
nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã
kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt
Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm
10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 102004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và
châu Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
2


Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng
xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn
thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,404
tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm
2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình
quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm
2004 đạt trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-1987,

Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy đến nay,
đất nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn
dự án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói rằng, nguồn đầu tư
trực tiếp nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ
đổi mới. Ngoài ra, Việt Nam còn tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính
thức (ODA) ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ
trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh
nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi mới tư
duy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng cho việc
tiếp tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được triển khai và đi vào chiều sâu
thì đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy
cũng đều làm ngưng trệ sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại
vừa đặt ra những yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm
cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là phủ định quá khứ mà
khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, bổ sung
những nhận thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.
Thực hiện được những điều trên đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa
cái đúng và cái sai, giữa tiến bộ và lạc hậu, lỗi thời, giữa cái mới thúc đẩy sự phát
triển và cái cũ cản trở sự phát triển. Tiêu chuẩn để phân biệt những mặt trái ngược
đó chính là thực tiễn - kết quả về kinh tế, xã hội giành được trong thời kỳ đổi mới.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn đề
sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành
phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu
tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất
biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân
3


phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc
đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn
trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã
hội, giải phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là
con người: Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó
lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện
phát triển lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
chuyển sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp,
hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ
bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là
căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng,
điều tiết ở tầm vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh
tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng
đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ
chế thị trường.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị
trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải
quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối
hiệu quả.

Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm
Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội
vào giữa tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài trợ quốc tế đã đánh
giá cao những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Việt
Nam là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương
thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần
quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển
văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc
đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi
mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó. Cụ thể
là:
4


Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ
phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất
trong Đảng... Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái”1.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội

bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm
phạm quyền và lợi ích của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. “Các
đoàn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận
động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa
giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội”2.
Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là đáng
kể. Đổi mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập
được các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Tất cả
những điều vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với
Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng
là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm.
5



Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một
số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ
sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một
số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn
định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả,
năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát
triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề
bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức
đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn
định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được
thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm nhưng không thể không
khẳng định rằng những thành tựu mà Đảng ta đã đạt được sau 30 năm đổi mới là
rất to lớn và có ý nghĩa quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy và đưa đất nước phát triển
sâu và vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Câu 3:
Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi
mới, nhất là 5 năm gần đây, tiếp tục thực hiện có kết quả các phương hướng,
nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là
giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng
và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền

vững. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để
đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy
nhân tố con người; vai trò của khoa học - công nghệ;...
Mục tiêu tổng quát:
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
6


nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới.
Nhiệm vụ tổng quát:
(1) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm
trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát
triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh
vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu.
(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch
trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh

nghiệp.
(3) Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ;
phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối
với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
(4) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con
người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
(5) Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc
lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm
sóc sức khoẻ nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân;
thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống
lành mạnh, văn minh, an toàn.
(6) Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ
môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố,
tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh
nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng.
(8) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
7


định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị
thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
(9) Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân

dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
(10) Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng
bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân
chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.
(11) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu, phát huy
truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo
vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
(12) Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới,
ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các
quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa
Nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ;...
Các chỉ tiêu chủ yếu:
a) Về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD; tỉ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm

bằng khoảng 32 - 34% GDP; bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP.
Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%;
năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng
tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt
38 - 40%.
b) Về xã hội
8


Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng
40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng
chỉ đạt 25%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9 - 10 bác sĩ và trên
26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỉ
lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
c) Về môi trường
Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng
nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được
xử lý; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Câu 4:
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,
là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn
lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề
cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn

dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường
xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn,
vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; có hình thức, cơ chế, biện pháp
cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền
làm chủ.
Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các
khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân.
Thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm
9


2013. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm
công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những
biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi
dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi
phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành

đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế,
văn hoá, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế
vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường. Trong những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn
với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản
lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà
nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo
đức xã hội. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là
cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất;
xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Thực hiện thí điểm
dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và cấp huyện; mở rộng đối tượng thi
tuyển cán bộ quản lý.
Câu 5:
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Trong đó, tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo là những vấn đề
cơ bản, là cơ sở để xây dựng Đảng ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Về nội dung công tác xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XII của
Đảng có nhiều quan điểm và những giải pháp mới so với Văn kiện Đại hội XI.
Thứ nhất, nội dung về công tác xây dựng đảng được nhấn mạnh và đặt đúng
tầm quan trọng, vị trí then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cụ thể là: 1- Vấn đề “Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh” được xác định là thành tố đầu tiên của Chủ đề Đại hội, cũng là tiêu đề của

Báo cáo chính trị, đó là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
10


bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại”. 2- Trong 15 mục đề cập 15 vấn đề lớn của Báo cáo chính trị, thì
mục về “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng” có nội dung dài nhất (mục xây dựng Đảng dài hơn 35
trang, 14 mục còn lại là 123 trang) thể hiện vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công
tác xây dựng Đảng trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII và trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 3- Đại hội XII xác định 6
nhiệm vụ trọng tâm trong cả nhiệm kỳ, thì 2 nhiệm vụ đầu tiên là về công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đó là: a- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ. b- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu.
Thứ hai, Đại hội XII của Đảng xác định phương hướng chung về công tác
xây dựng đảng trong cả nhiệm kỳ là: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ
nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc
Đại hội XII của Đảng xác định phải tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, của
cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và coi đó là
nhiệm vụ vừa trọng tâm, cơ bản, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của công

tác xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay; khắc phục một số hạn chế, khuyết
điểm và một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
Thứ ba, hai nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII cụ thể hoá thành 3 đề án
trong Chương trình làm việc toàn khóa của Trung ương để trình ra các hội nghị
Trung ương khóa XII là: (1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ (Đề án trình Hội nghị Trung
ương 4, tháng 10-2016). (2) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn
với xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu
(Đề án trình Hội nghị Trung ương 6, tháng 10-2017). (3) Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ (Đề án trình Hội nghị Trung ương 7, tháng 5-2018).
Thứ tư, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu 10 nhiệm vụ về xây dựng
Đảng, bổ sung thêm 2 nhiệm vụ mới so với Đại hội XI, đó là:
1- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân. Ở Đại hội XI, chưa có mục riêng nói về công tác
11


dân vận. Trong khi đó, công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng,
nhất là triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận
còn chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn
biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân… để có chủ trương, chính sách và biện pháp phù hợp. Xuất phát từ vị
trí quan trọng và thực trạng của công tác dân vận trong tình hình hiện nay, Đại hội
XII có một mục riêng về công tác dân vận, nhằm cụ thể hoá thực hiện Hiến pháp
năm 2013 về tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhân dân và
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) về “Tăng cường

và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới”.
Đại hội XII của Đảng đề ra một số giải pháp mới để thực hiện nội dung này
là:
1- Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; giải
quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân
dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. (2) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân,
trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với
dân. (3) Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương
châm“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
2- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ở Đại hội XI,
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đề cập trong phần xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở Đại hội XII, vấn đề đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đề cập cả trong phần xây dựng Nhà nước
và xây dựng Đảng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ thực trạng: nhiều cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý,
thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu,
yêu cầu.
Từ thực trạng đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: Đấu
tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền và toàn hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống
tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng

phí và bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can
thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.
12


Đại hội XII đã đề ra một số giải pháp mới để thực hiện nội dung này là:
Hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để
bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là
trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như: quản lý và sử dụng đất đai,
khai thác tài nguyên, khoáng sản, thu, chi ngân sách và mua sắm công, thực hiện
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản...
Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng;
cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng;
Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý; hạn chế
giao dịch bằng tiền mặt.
Thứ năm, ngoài 2 nhiệm vụ mới được bổ sung so với Đại hội XI, 8 nhiệm vụ
còn lại về công tác xây dựng Đảng đều được bổ sung, phát triển và nhấn mạnh
hơn. Cụ thể là:
1- Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị.
Văn kiện Đại hội XI nêu “Xây dựng Đảng về chính trị”. Trước những hạn
chế như: việc thể chế hóa, xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể
và hiệu quả chưa cao; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức
đảng còn thấp…; Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Chú trọng xây dựng Đảng
về chính trị”.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp để thực hiện: Một là, kiên định những vấn
đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững
bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Hai

là, nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách
quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Ba là, hoàn thiện
cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê
bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy các cấp. Bốn là, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ
chế phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền.
2- Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận.
Đại hội XI nêu: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý
luận”. Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận”.
Phải đổi mới công tác này do yêu cầu từ tình hình thực tiễn là chất lượng và hiệu
quả công tác tư tưởng, lý luận còn chưa cao, còn thiếu sắc bén và chưa thuyết
phục. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu…
13


Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để
thực hiện: (1) Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính
chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất cao trong
Đảng, đồng thuận trong xã hội. (2) Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu
quả. (3) Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho hoạch định, phát
triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước (điểm
mới là đưa tổng kết thực tiễn lên trước nghiên cứu lý luận). (4) Thực hiện nền nếp
việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương.

3- Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân, cơ hội, thực dụng.
Đại hội XI nêu: “Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân”, Đại hội XII đã bổ sung và nhấn mạnh: “Tăng cường rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”. Đây là một
nội dung mới rất quan trọng để thực hiện mục tiêu “Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Việc bổ sung nội dung xây
dựng Đảng về đạo đức là vấn đề đặc biệt quan trọng trong tình hình hiện nay, khi
tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày
càng tinh vi, phức tạp; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn
biến phức tạp hơn. Vì vậy, Đại hội XII nhấn mạnh phải “Tăng cường rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng” cho cán bộ, đảng viên, thể hiện quyết tâm chính trị
của Đảng ta trong việc đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói
không đi đôi với làm; đồng thời, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị là “coi trọng cả đức và tài, trong đó
đức là gốc” để xây dựng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ đã nói.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện: Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hai là, thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng; giám sát và phản
biện xã hội của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về
phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
4- Về tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị.
Tình hình thực tiễn hiện nay cho thấy, tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ
thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ
14



chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ
thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Số lượng cán bộ, công chức
không những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập và
viên chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã, phường, thị trấn…
Do vậy, Đại hội XII tiếp tục phát triển, cụ thể hoá chủ trương của Đại hội
XI, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành
Trung ương (khoá XI)“Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở” và nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ mối quan hệ giữa tập
thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện là: Một là, hoàn thiện và thực
hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ
luật, kỷ cương. Hai là, nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan
đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. Ba là, thực hiện chủ trương
quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Bốn là, tinh giản tổ
chức bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt
động của các tổ chức. Năm là, thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản
biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế
kiểm soát quyền lực, ngăn chặn sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Sáu
là, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân
các cấp; sớm tổng kết mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp xã, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện.
5- Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên.
Đại hội XI nêu: “Kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên”. Đại hội XII đã bổ sung và làm rõ hơn: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất

lượng đảng viên”. Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để thực hiện: Một
là, kiện toàn tổ chức, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Hai
là, tổng kết việc thực hiện Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về đảng viên
làm kinh tế tư nhân và việc thí điểm kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư
nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Ba là, xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên
phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân… vững vàng trước mọi
khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
6- Về công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ.
Đại hội XI nêu: “Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính
trị nội bộ”. Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh là: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán
bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII
thẳng thắn thừa nhận: Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế, chưa
15


nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống
chính trị và trong xã hội...
Đại hội XII chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; thể chế hóa, cụ thể hóa các
nguyên tắc về xây dựng Đảng; tiếp tục ban hành và thực hiện các quy chế, quy
định trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các
khâu, liên thông giữa các cấp; có quy chế về đánh giá đúng đắn, khách quan đối
với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy
chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp...
Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực
hiện: Một là, thể chế hoá, cụ thể hoá nguyên tắc của Đảng về: Quan hệ giữa đường
lối chính trị với đưòng lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết
rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài;
giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy

đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền và trách
nhiệm cá nhân và tập thể. Hai là, đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương
thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chọn những người có bản lĩnh chính
trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Ba là, tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng
dụng nhân tài. Bốn là, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở
trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ; gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác
bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Năm là, kiên quyết đấu tranh, ngăn
chặn những biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong
Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Ban Chấp
hành Trung ương về những điều đảng viên KHÔNG được làm, nhất là việc phát
ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh
có hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
7- Về đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng.
Đại hội XI nêu “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát”.
Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng”. Nhiệm vụ này đặt ra xuất phát từ tình hình
hiện nay: chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và
đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức
đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử lý, hoặc xử lý kéo dài, nên kỷ
16



cương, kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm; chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong công tác
kiểm tra, giám sát.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp thực hiện là: Một là, xử lý kịp thời,
nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những hành vi
dung túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công
khai kết quả xử lý. Hai là, tập trung chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định của
Đảng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng. Ba là, chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để
người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Bốn là, nghiên
cứu việc tăng thẩm quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho ủy ban kiểm tra các
cấp.
8- Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Về nội dung này, Đại hội XII đã nhấn mạnh một số hạn chế như: đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị xã hội còn chậm; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
có những nội dung còn lúng túng. Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm
quyền…
Trước tình trạng đó, Đại hội XII xác định: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà
nước. Các tổ chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Coi trọng xây dựng văn hóa
trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị.
Đại hội XII đề ra một số giải pháp mới để thực hiện: Một là, tiếp tục tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích,
phương thức, nội dung và điều kiện cầm quyền; việc phát huy dân chủ trong điều

kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với
đảng cầm quyền. Hai là, tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã
được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế,
quy định, quy trình cụ thể. Ba là, quy định rõ hơn các tiêu chí Đảng phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình. Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các
cấp. Bốn là, đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền; có cơ chế để các địa phương
phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm
sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương. Năm là, đổi mới phương pháp,
17


phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới
cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng
dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Câu 6:
SÁU NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước
nhanh, bền vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có
kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2. Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu.

3. Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú
trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách
nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
4. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng
và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức,
thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế
và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
5. Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc.

18


6. Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc;
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Câu 7:

Sau 2 ngày làm việc chính thức 28 - 29/9/2015, Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI đã diễn ra thành công tốt đẹp tại Thành phố Hà Giang. Đại hội đã
bầu BCH Đảng bộ khóa XVI gồm 54 đồng chí. Tại hội nghị lần thứ I diễn ra chiều
28/9, BCH Đảng bộ tỉnh khóa XVI bầu BTV Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí, UBKT
Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Triệu Tài Vinh, Ủy viên BCH T.Ư Đảng, Bí
thư Tỉnh ủy khóa XV tái đắc cử chức Bí thư Tỉnh ủy khóa XVI; đồng chí Nguyễn
Đình Khang, Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa XV, tái cử chức Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa
XVI. Các đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường
trực UBND tỉnh; Thào Hồng Sơn, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH
khóa XIII được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa XVI. Đồng chí Lê Quang
Minh, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy khóa XV, tái cử chức
Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy khóa XVI. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII gồm 18 đồng chí.
Đại hội đã xác định có 2 khâu đột phá nâng cao chất lượng công vụ và xây
dựng chính sách, vận dụng cơ chế, đưa chính sách vào cuộc sống; đột phá về ứng
dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, có ý kiến đề nghị xây dựng kế
hoạch luân chuyển cán bộ, gắn với các chính sách đồng bộ, sửa đổi quy định về
phân cấp quản lý cán bộ theo hướng rõ ràng trên nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng, đổi mới công tác tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ; sắp xếp lại cán
bộ, công chức, viên chức theo vị trí, việc làm gắn với tinh giản biên chế; từng bước
triển khai đánh giá sự hài lòng của người dân khi tiếp cận các dịch vụ công.
Đại hội đã xác định có 5 chương trình trọng tâm.
Câu 8:
Nhiệm vụ chủ yếu 5 năm 2015-2020:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế, thực hiện XĐGN bền
vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân;
Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển bền vững, từng bước xây dựng Hà Giang thành một trong
những trung tâm du lịch và trọng điểm Quốc gia về dược liệu;
Có kết cấu hạ tầng đồng bộ, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, hệ

thống chính trị trong sạch, vững mạnh;
Chủ quyền Quốc gia được giữ vững, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; phấn đấu xây
dựng Hà Giang thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, có trình độ phát triển đạt
mặt bằng chung của các tỉnh miền núi.
19


Mục tiêu tổng quát:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng
và đảng viên; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc. Tập trung huy động và sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế để đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững, nâng cao
năng lực cạnh tranh. Từng bước xây dựng Hà Giang thành một trong những trung
tâm du lịch quốc gia và vùng trọng điểm quốc gia về dược liệu, có kết cấu hạ tầng
cơ bản đồng bộ; có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; chủ quyền quốc gia được giữ vững, xây dựng biên giới hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.
Quyết tâm xây dựng Hà Giang thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, có trình độ
phát triển đạt mặt bằng chung của khu vực.
Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020:
(1) Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt tốc độ tăng bình quân 7,5-8%.
(2) Cơ cấu kinh tế: Thương mại - dịch vụ chiếm 39%, công nghiệp - xây dựng
28%, nông lâm nghiệp - thuỷ sản 33%.
(3) Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 2.000 tỷ đồng.
(4) Giá trị hàng hoá xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu đạt 880 triệu USD.
(5) Tổng sản phẩm bình quân đầu người đạt 30 triệu đồng/năm.
(6) Tổng sản lượng lương thực đạt 42 vạn tấn.
(7) Giá trị sản xuất bình quân/ha đất canh tác đạt 50 triệu đồng.
(8) Tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp đạt 30%.

(9) Tỷ lệ che phủ rừng đạt 60%.
(10) Số xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới đạt 41 xã.
(11) Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,4%.
(12) Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm đạt 3%.
(13) Tỷ lệ số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 94,4%.
(14) Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%.
(15) Tỷ lệ huy động trẻ từ 6 đến 14 tuổi đến trường đạt 99%.
(16) 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế và đạt 8,8 bác sỹ/1 vạn dân.
(17) Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch đạt 100%.
(18) Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 86%.
(19) Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom đạt 90%.
(20) Trên 90% xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn an toàn về
an ninh trật tự.
(21) Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt
90% .
(22) Tỷ lệ đảng viên từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên hằng năm đạt 99%.
(23) Bình quân hằng năm kết nạp mới 2.200 đảng viên.

20


Câu 9:
Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và văn hóa, cải cách hành
chính là một nhu cầu tất yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm xây dựng
một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả, giảm phiền hà, một
nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục đích chủ yếu, để từ đó xây
dựng, phát triển và hoàn thiện nền hành chính.
Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính đang là tâm điểm trong
các nỗ lực của Đảng và nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng một

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ và văn minh” là điều kiện căn bản để góp phần đạt
được các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội quốc gia.
Tại tỉnh Hà Giang, cải cách hành chính trong những năm qua nhận được sự
quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, cải cách hành chính nói chung còn chậm, thủ tục hành chính còn rườm
rà, mang nặng tính hình thức, còn chưa chủ động, chưa tạo tác động mạnh đến các
cơ quan, tổ chức, người dân, do đó chưa đáp ứng được tình hình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương. Do vậy, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành
chính.
Tại đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI kêu gọi toàn thể
đảng viên, cán bộ, công nhân, viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và nhân dân các
dân tộc trong toàn tỉnh “Phát huy sức mạnh toàn dân – đẩy mạnh cải cách hành
chính, vì Hà Giang phát triển”.
Là một trong những đảng viên, viên chức đang công tác ở Hà Giang trực
tiếp tham gia thực hiện, giải quyết và cảm nhận về những kết quả đạt được trong
công cuộc cải cách hành chính của cả nước nói chung và địa phương nói riêng
trong thời gian qua. Tôi xin mạnh dạn đưa ra những đề xuất, đóng góp về giải pháp
để góp phần thực hiện hiệu quả công tác cải cách hành chính của tỉnh như sau:
Thứ nhất, sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết liệt, kiên trì và quyết tâm của cả hệ
thống chính trị từ lãnh đạo Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh đến lãnh đạo các cấp, các ngành. Đây là yếu tố tiên quyết dẫn đến
thành công trong công tác cải cách hành chính.
Thứ hai, để có được những kết quả, sản phẩm cụ thể như mong muốn về cải
cách hành chính, phải thực sự quan tâm và coi trọng đến yêu cầu về thời gian, nội
dung và chất lượng của việc xây dựng kế hoạch thực hiện CCHC từ tỉnh đến các sở
ban ngành, quận huyện và phường xã. Phải căn cứ vào mục tiêu tổng quát, nội
dung và lộ trình thực hiện chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước để
xây dựng kế hoạch 10 năm, 5 năm và hàng năm về CCHC của tỉnh.
Thứ ba, công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra về CCHC phải được

tiến hành thường xuyên, có thể lặp đi lặp lại ở những đơn vị còn nhiều hạn chế,
21


yếu kém nhằm tạo kết quả chuyển biến thực sự và rõ nét về kỷ luật, kỷ cương hành
chính, năng lực quản lý, điều hành và chất lượng dịch vụ công.
Thứ tư, cần phải có công cụ làm đòn bẩy, tạo động lực thúc đẩy làm chuyển
biến tích cực, mạnh mẽ tình hình, kết quả công tác cải cách hành chính đối với mỗi
cấp chính quyền và tại từng cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố.
Thứ năm, trong công tác cải cách hành chính, cần phải xác định rõ trọng
tâm, trọng điểm và tạo được điểm nhấn trong từng thời đoạn và thời điểm; có giải
pháp cụ thể, mô hình mới, có tính đột phá, tạo ra hiệu ứng, sức lan tỏa và hiệu quả
trên thực tế, tạo ra được những chuyển biến rõ nét và có sức
Thứ sáu, cải cách hành chính phải gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở tại từng cơ quan, địa phương, đơn vị; phát huy sức mạnh tập thể, tạo sự đồng
thuận cao trong thực hiện, giám sát, kiểm tra, đấu tranh với các biểu hiện và hành
vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, tạo sự đồng tình, ủng hộ trong nhân dân. Trong
đó, tuyên truyền, phổ biến, đối thoại, công khai, minh bạch kế hoạch, chương trình,
nội dung hoạt động cải cách hành chính nhà nước ở địa phương là việc làm rất cần
thiết để thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở.
Thứ bảy, sự vào cuộc khá đồng bộ và tích cực của các cơ quan thông tin đại
chúng góp phần không nhỏ vào kết quả, hiệu quả của công tác cải cách hành chính
Nhà nước ở địa phương.
Bên cạnh việc chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng xây
dựng chuyên mục, chuyên trang về CCHC, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát
thanh và truyền hình của địa phương và Trung ương luôn đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ tuyên truyền các chủ trương, chính sách, giải pháp về cải cách
hành chính của chính quyền thành phố đến đông đảo người dân và doanh nghiệp
để biết, thực hiện, giám sát; đồng thời đã gián tiếp thông tin, phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư đến với các cơ quan nhà

nước.
Thứ tám, cải cách hành chính có thể ví như công cuộc cách mạng. Người
làm công tác cải cách hành chính thực thụ ngoài kiến thức, tư duy, quan điểm, lập
trường, kinh nghiệm thực tiễn, phải thực sự có tâm, có tầm, có ý chí, nghị lực,
quyết tâm, dám đổi mới, dám làm, dám chịu trách nhiệm… thì phải biết kiên trì,
nhẫn nại và biết chấp nhận hy sinh. Công tác cải cách hành chính cần có sự đầu tư
thoả đáng về các nguồn lực. Trong đó, con người là nhân tố quyết định, đặc biệt là
người đứng đầu, đội ngũ công chức, viên chức trực tiếp phụ trách, tham mưu, chỉ
đạo, điều hành và thừa hành về công tác cải cách hành chính ở các ngành, các cấp
và tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố.
Sự thành công của các chính sách và giải pháp thường có một phần đóng
góp không nhỏ của chính đội ngũ này. Họ là những hạt nhân, đóng vai trò xúc tác,
tạo đòn bẩy cho việc đẩy mạnh cải cách hành chính một cách đồng bộ, tiến bộ,
toàn diện và rộng khắp. Do đó,phải luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ này cả về kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn về cải
22


cách hành chính. Các lớp đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cần được tổ chức hàng
năm, hướng đến mục tiêu không ngừng đổi mới về hình thức và phương pháp, chú
trọng vào các nội dung mà đội ngũ công chức, viên chức phụ trách, tham mưu về
cải cách hành chính tại các đơn vị còn nhiều bất cập, hạn chế.
Tóm lại, thành công trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng đòi hỏi có sự
kết hợp của nhiều yếu tố. Cải cách hành chính là một quá trình đầy gian nan, thử
thách, phải vượt qua nhiều khó khăn, phức tạp, cần sự quyết tâm, kiên trì của cả hệ
thống chính trị; cần có sự kiểm tra, đánh giá thường xuyên; xác định trọng tâm,
trọng điểm qua từng thời đoạn; sử dụng các công cụ hữu hiệu để tạo đòn bẩy thúc
đẩy; gắn với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; thu hút sự tham gia của các
cơ quan truyền thông; quan tâm đào tạo nguồn nhân lực ngày càng chuyên nghiệp
nhằm đáp ứng mục tiêu, nội dung, yêu cầu của cải cách hành chính và công cuộc

đổi mới ở nước ta./.
Mậu Duệ, tháng 9 năm 2016
NGƯỜI VIẾT

Hoàng Văn Tưởng

23



×