Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.05 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ

BÙI KHẮC

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC
TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC
ƢỚNG
Am
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Hành
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS . NGUYỄN MINH

HÀ NỘI -


LỜI CAM
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi, dưới
hướng dẫn của PGS. ts, Nguyễn Minh Đoan. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng Luận văn, tôi có tham khảo một số bài viết, công trình nghiên
cứu và các tài liệu liên quan của các tác giả, cơ quan Nhà nước, những
số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Việc sử dụng các nguồn tham khảo được trích dẫn, chỉ ra trong
Danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan


TÁC

Bùi Khắc


MỤC
MỞ ĐẦU
.............................................................................................................. 1 Chƣơng
1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ Ở VIỆT NAM ............................................................................. 7 1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thi hành án dân sự .................................... 7
1.2. Chủ thể, nội dung, quy trình thi hành án dân sự ở Việt Nam
..................... 18 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển thi hành án dân sự ở Việt
Nam ................ 20 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thi hành án dân sự
ở Việt Nam ....... .27 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC TỪ NĂM 2011 ĐẾN
NAY ............................................. 31 2.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế,
văn hóa - xã hội, dân cư, tôn giáo có ảnh hưởng đến việc thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc . ............... 31 2.2. Thực trạng về các quy định
pháp luật, chủ thể và hoạt động tổ chức thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc ....................................................... 33 2.3. Những kết quả đạt được
và hạn chế, bất cập trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và
nguyên nhân ........................................................... . 44 2.4. Đánh giá chung về
công tác thi hành án dân sự ở Vĩnh Phúc từ năm 2011 đến nay và những kinh
nghiệm được rút ra ....................................................... 57 Chƣơng 3:
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 60 3.1.
Phương hướng đẩy mạnh thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.............. 60
3.2. Giải pháp đẩy mạnh thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. ...................



DANH MỤC VIẾT

TAND

: Tòa án nhân dân.

THADS

: Thi hành án dân

sự. UBND

: Ủy ban nhân dân.


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ
Tran
g Bảng số 2.1. Số việc thi hành án dân sự trong 05 năm (2011-2015).
36 Bảng số 2.1. Số việc thi hành án chuyển kỳ sau.


MỞ
ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS), thực chất là hoạt động tổ chức thi hành
bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan có
thẩm quyền (hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm), là hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân, trong đó có cơ quan Thi
hành án dân sự các cấp, là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng, đảm bảo cho

bản án, quyết định về dân sự của Tòa án được thực hiện trong đời sống xã
hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà
nước, góp phần bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, giữ vững chính trị,
trật tự xã hội, phát triển kinh tế bền vững và tăng cường hiệu lực trong quản
lý của bộ máy Nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”
[37].
Tổng kết sau gần 06 năm thực hiện, Luật Thi hành án dân sự năm 2008
đã có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả đối với đời sống kinh tế - xã hội
và đời sống chính trị của đất nước, tạo hành lang pháp lý cơ bản, bảo đảm cho
công tác thi hành án dân sự thực hiện có hiệu quả. Nhiều bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền đã được cơ quan Thi hành án dân sự
kịp thời đưa ra tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật, đạt hiệu quả
cao; hệ thống tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự được thành lập ổn định,
phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Việc tổ chức hệ thống thi hành án dân sự
theo ngành dọc đã tăng cường vị thế cho cơ quan Thi hành án dân sự tương
xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
cho việc quản lý, chỉ đạo chuyên ngành, thống nhất từ Trung ương đến cấp
huyện, nhưng không xa rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính


thi hành dứt điểm, số tiền phải thi hành án thu được hàng năm tăng lên và
luôn cao hơn năm trước, đồng thời giảm số việc thi hành án dân sự tồn
đọng, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, ở Việt
Nam hiện nay đang trên con đường hội nhập quốc tế, sự tác động của nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, giao lưu dân sự trong nội bộ nhân dân,
giữa các cơ sở kinh tế ngày càng mở rộng và đa dạng, dẫn tới tình trạng số vụ
việc tranh chấp về dân sự và kinh tế, lao động… ngày càng tăng về số lượng

và phức tạp về nội dung. Kết quả là số lượng bản án, quyết định của Tòa án
ngày càng nhiều, số tiền và hiện vật phải thi hành ngày càng lớn, trong đó
có nhiều vụ việc rất khó khăn, phức tạp, liên quan đến người nước ngoài làm
cho công tác thi hành án dân sự ở nước ta trở nên khó khăn hơn. Mặt khác,
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm chỉ đạo, chưa tạo điều kiện cho công
tác thi hành án dân sự, nên thời gian qua vẫn gặp không ít khó khăn, trở
ngại. Các văn bản quy phạm về thi hành án với các văn bản quy phạm pháp
luật của các ngành có liên quan còn thiếu tình thống nhất, đồng bộ; Hoạt
động của cơ quan Thi hành án dân sự còn phụ thuộc rất nhiều vào các cơ quan
Nhà nước có liên quan, dẫn đến việc tổ chức thi hành án rất thụ động,
thiếu linh hoạt, thậm chí không thể tổ chức thi hành; Nhiều việc thi hành án
liên quan đến nhiều ban, ngành, địa phương, có lúc, có nơi còn có sự can
thiệp, thiếu tôn trọng đối với các quyết định của cơ quan Thi hành án dân
sự ngày càng nhiều; Việc thi hành án liên quan đến tổ chức tín dụng còn bất
cập về trình tự, thủ tục, hồ sơ cho vay không đảm bảo tính pháp lý dẫn đến
việc đương sự khiếu nại kéo dài, không thể tổ chức thi hành; Nhiều trường
hợp kê biên tài sản chung của người phải thi hành án với người có liên quan,
các bên đương sự và người có liên quan không thực hiện việc yêu cầu Tòa
án xác định tài sản, nhưng khi kê biên, xử lý tài sản thì có đơn thư khiếu nại
gây khó khăn trong việc xử lý tài sản. Từ những vấn đề trên cho thấy, yêu cầu


thức của tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành, thực hiện pháp luật là rất
cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Thi hành án dân sự Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn đối với Ngành thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay và
đặc biệt là ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong những năm gần đây, công tác thi hành án dân sự đang được Đảng
và Nhà nước đặt ra, là nhiệm vụ cấp bách trong việc bảo vệ kinh tế, trật tự xã

hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân đang sinh
sống tại Việt Nam. Do vậy, những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo các
cơ quan quản lý Nhà nước, các học viện, trường đại học quan tâm nghiên cứu
để hoàn thiện hơn nữa đối với Ngành thi hành án dân sự, cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì,
như: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
ở Việt Nam trong giai đoạn mới”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do
Tổng cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì: “Mô hình quản
lý thống nhất công tác thi hành án dân sự”.
- Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội: “Hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự” của Nguyễn Thanh Thủy (2001); “Một
số vấn đề về tổ chức và thi hành án dân sự” của Trần Văn Quảng (2001);
“Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự” của Lê Xuân Hồng
(2002); “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của Lê Anh Tuấn
(2004); “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân
sự ở Việt Nam” của Phạm Thị Thu Nga (2004); “Cơ sở lý luận và thực tiễn
khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Đức Nghĩa (2005). Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa luật đại học
Quốc gia Hà Nội: “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự” của Phan Huy
Hiếu (2012).


“Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam” của
Nguyễn Quang Thái (2003);
- Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh: “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”
của Đặng Đình Quyền (2011).
- Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội:
“Giám sát thi hành án dân sự” của Hoàng Thế Anh (2015)…
Sau khi xem xét và tham khảo về các công trình nghiên cứu nêu trên

cho thấy, các công trình nghiên cứu đã tập trung đi vào nghiên cứu sâu những
vấn đề chung về thi hành án dân sự; những vấn đề mang tính tổng thể hay
những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự trên phạm
vi toàn quốc, nhưng đến nay còn rất ít công trình nghiên cứu dưới góc độ lý
luận và thực tiễn về công tác thi hành án dân sự ở một địa phương cụ thể. Do
vậy, với những đặc thù riêng biệt của địa bàn có tốc độ đô thị hóa, công
nghiệp hóa nhanh như tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn sẽ dựa trên cơ sở có
chọn lọc về kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng
kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của mình để có những tiếp cận và
cách giải quyết riêng cho phù hợp với lĩnh vực công tác của mình.
- Mục đích: Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về thi hành án dân sự
là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng; đánh giá thực trạng công tác thi hành án
dân sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc những năm qua, chỉ ra
những nguyên nhân chủ quan, khách quan về kết quả đạt được và những tồn
tại, khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự hiện nay, từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thi hành án dân sự,
đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực được triệt để tổ
chức thi hành.
+ Tìm hiểu và nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về thi hành án dân sự;


+ Phân tích, đánh giá những vụ việc cụ thể, điển hình, từ đó chỉ ra
nguyên nhân về những kết quả đã đạt được và những khó khăn, vướng mắc,
tồn đọng trong công tác thi hành án dân sự nói chung và trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng trong những năm qua;
+ Đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để
đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam và tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Thi hành án dân sự là lĩnh
vực tương đối rộng và được nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.

Trong khuôn khổ Luận văn thạc sỹ, học viên chỉ nghiên cứu những vấn đề lý
luận về thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng thực tiễn thi hành án dân sự từ
năm 2011 đến nay ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn nghiên cứu hoạt động
thi hành án dân sự dưới góc độ luật Hiến pháp và luật Hành chính, trong
đó tập trung đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thi
hành án dân sự; Những kết quả đạt được và hạn chế trong việc thi hành án dân
sự ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2011 đến nay.
- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật. Trọng tâm là quan điểm và chủ
trương của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa “Nhà nước của dân, do nhân dân và vì nhân dân”,
đang từng bước củng cố, hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật, trong đó có
việc hoàn thiện công tác thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 [21].


+ Phương pháp nghiên cứu của Luận văn được sử dụng là phương
pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát
triển, toàn diện, lịch sử và cụ thể.
+ Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học...
- Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống về công tác
thi hành án dân sự. Luận văn đã đưa ra và luận giải về một số quan điểm cơ
bản về khái niệm thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành
án và thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt
động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án dân sự.

- Từ thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra
những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thi hành án dân sự.
- Từ đánh giá về thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích
những nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về thi
hành án trên cả nước nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Luận văn có thể
là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên và những người làm công tác
có liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu gồm 03 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về thi hành án dân sự ở Việt
Nam; Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc từ năm 2011 đến nay;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay.


Chƣơng
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thi hành án dân
sự 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự thực chất là việc tổ chức thi hành các bản án,
quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật (hoặc những bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành án ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo,
kháng nghị) của Tòa án có thẩm quyền (theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật
Thi hành án dân sự) [40, 41], là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân, trong
đó có cơ quan Thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự được thực hiện theo
trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Để làm rõ khái niệm về thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ khái

niệm thi hành án: (1) Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành án là: “Thực hiện
điều đã chính thức quyết định” [tr.1599]. Như vậy, thi hành án có thể được
hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa
án được hiểu là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại
phiên tòa, giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính… Việc thực hiện bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực, hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, công dân đối với phán quyết của
Tòa án. Mặt khác, nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị xâm hại. (2) Theo từ điển
Luật học, thi hành án dân sự là “giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu
cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa
án nhất định có hiệu lực pháp luật” [45; tr.464]. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có một khái niệm cụ thể về thi hành án dân sự. Mặt khác, có rất nhiều
cách lập luận và tiếp cận khác nhau nhưng nổi bật lên là hai quan điểm với


Quan điểm 1: Thi hành án dân sự được hiểu là việc đưa bản án,
quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế, giải quyết các vấn đề thi
hành án về phần dân sự và tài sản trong vụ án hình sự, hôn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế, hành chính... các quyết định khác của cơ quan có thẩm
quyền như quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Việc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực và hiệu quả, bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết
của Tòa án nhân danh Nhà nước.
Như vậy, Tư pháp được hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các
thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, đảm bảo công lý, công bằng
xã hội, trong đó hoạt động xét xử là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là
khâu trung tâm. Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới việc tuân thủ Hiến pháp và

Pháp luật, là nơi thể hiện rõ nhất bản chất của pháp luật Nhà nước.
Tư pháp được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa
án thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi phạm
pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ
pháp luật, duy trì, bảo đảm tính công lý và công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ
các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp (Giám định
tư pháp, Luật sư, Công chứng, Hộ tịch, Tư vấn pháp luật...) đều nhằm phục
vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật, đảm bảo sự công bằng
trước pháp luật đối với các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, căn cứ trên cơ sở đó
Tòa án sẽ đưa ra phán quyết đảm bảo đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Toà án
tuyên bản án, quyết định mới chỉ là văn bản pháp lý của Tòa án, vì trên thực
tế chưa phải là kết thúc hoạt động tư pháp, công lý chỉ thực sự được thực
hiện khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành một cách đầy đủ và
diễn ra trên thực tế.
Từ sự phân tích và cách lập luận, tiếp cận nêu trên về thi hành án
nói chung và thi hành án dân sự nói riêng, thì quan điểm thứ nhất này cho


Tòa án là thực hiện một quyết định tư pháp, không phải là thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật hay quyết định hành chính cá biệt. Cơ quan Thi hành
án dân sự không phải cơ quan tiến hành tố tụng nhưng là cơ quan có nhiệm vụ
thực hiện một số hoạt động tư pháp.
Quan điểm 2: Thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng
là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Để hoạt động
thi hành án có hiệu lực, hiệu quả thì cần phải có cơ quan Thi hành án. Tuy
nhiên, hoạt động thi hành án lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét
xử, bởi thi hành án được tiến hành dựa trên bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, căn cứ pháp lý để thi hành án là bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan Thi hành án dân

sự có trách nhiệm ra quyết định thi hành án và thi hành đúng theo phán quyết
của Tòa án, trong quá trình tổ chức thi hành án không được suy diễn, hướng
dẫn để làm thay đổi nội dung các phán quyết của Tòa án. Điều này được
hiểu, thi hành án là hoạt động có tính chấp hành nhưng là chấp hành phán
quyết của cơ quan xét xử. Ngoài ra, trong hoạt động thi hành án bên cạnh
việc sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục còn sử dụng các phương
pháp điều chỉnh như phương pháp mệnh lệnh, cưỡng chế bắt buộc phải thi
hành án.
Với cách tiếp cận và lập luận nêu trên thì quan điểm thứ hai cho rằng
“thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp”. Theo quan điểm
này được hiểu rằng, thi hành án dân sự không phải là hoạt động xét xử nên
không phải là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án. Trong giai đoạn thi hành án không chỉ có Toà án mà
còn nhiều cơ quan hành chính nhà nước có liên quan cùng tham gia để phối
hợp tổ chức thi hành, thậm chí nếu người phải thi hành án (cá nhân, tổ chức)
không tự nguyện thi hành thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án


Nhận xét về hai quan điểm nêu trên cho thấy, cả hai quan điểm đều
có những điểm hợp lý. Nhưng để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề lý luận và
thực tiễn cho thấy, quan điểm thứ hai sẽ là hợp lý hơn cả, bởi những lý do sau:
- Thứ nhất, Cơ sở của hoạt động thi hành án dân sự là việc tổ chức
thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc
những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được tổ chức thi hành
ngay, mặc dù bản án sơ thẩm đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị (theo Điều
2 Luật Thi hành án dân sự); các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án
chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng).
- Thứ hai, Thi hành án dân sự có mối quan hệ mật thiết, đan xen với
các giai đoạn tố tụng trước đó (như: Việc thi hành các quyết định khẩn cấp
tạm thời của Tòa án hoặc trong quá trình tổ chức thi hành án Chánh án Tòa

án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền yêu cầu cơ
quan Thi hành án dân sự thực hiện việc hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi
hành án theo quy định của pháp luật để xem xét lại bản án, quyết định
theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Như vậy, thi hành án dân sự có
tính độc lập tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này mang tính bắt buộc chấp
hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc
thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong phạm vi trách nhiệm của
mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện.
- Thứ ba, Thi hành án dân sự và các giai đoạn tố tụng trước đó có
mối quan hệ nhân quả với nhau. Vì vậy, nếu bản án, quyết định khi được
Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, thì việc
thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của
Tòa án tuyên không khách quan, thiếu công bằng, gây tâm lý bức xúc thì
đương sự sẽ không tự nguyện thi hành án và sẽ cản trở việc thi hành án, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước.
- Thứ tư, Bản chất của thi hành án dân sự là hoạt động chấp hành,
nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện


nhau, buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi
hành án dân sự là bảo đảm cho các quyết định của Toà án được thực hiện trên
thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có
tính điều hành, đây là nét đặc trưng của hoạt động hành chính.
Như vậy, có thể hiểu thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp do các cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành thực hiện
theo một trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định, nhằm đảm bảo thi
hành có hiệu lực, hiệu quả các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc
quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Trong các văn bản pháp luật
về thi hành án dân sự thì chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về thi
hành án dân sự. Thi hành án dân sự hiện nay còn được hiểu theo nghĩa hẹp

và nghĩa rộng liên quan đến khái niệm về “dân sự”. Theo nghĩa hẹp thì thi
hành án dân sự được hiểu là những bản án, quyết định của Tòa án về giải
quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, kinh doạnh thương mại,
hôn nhân và gia đình, lạo động và một số loại án khác có tính chất dân sự; còn
theo nghĩa rộng thì thi hành án dân sự không chỉ bao gồm việc thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp
đồng dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động và một
số loại án khác có tính chất dân sự, mà còn bao gồm cả các bản án, quyết
định khác do pháp luật quy định. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện
hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình
tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án dân sự đều được áp dụng theo
trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự.
Từ kết quả phân tích nêu trên, tác giả Luận văn đồng tình với ý kiến
này, bởi lẽ theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính
chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai
đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Do đó, phạm vi thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng, quy định


động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định
hình sự về bồi thường thiệt hại; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam, phán
quyết và quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định của Tòa án giải
quyết phá sản... Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định nêu trên được
thực hiện theo một trình tự, thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn bản
giữa việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại …
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên từ những phân
tích trên có thể đưa ra khái niệm: “Thi hành án dân sự là hoạt động hành

chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành
thống nhất theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm
đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết
định khác của cơ quan có thẩm quyền”.
Xuất phát từ sự phân tích nêu trên, căn cứ các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có thể thấy thi hành án
dân sự có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, Hoạt động thi hành án dân sự mang tính hành chính tư pháp: Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng), đó là
hoạt động nhằm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, đồng
thời bao gồm cả các hoạt động thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp, điều này thể
hiện rõ trong việc thi hành quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhằm
đảm bảo cho việc xét xử, cũng như đảm bảo cho việc thi hành án sau này,
mặc dù chưa có kết quả xét xử của Toà án. Tuy nhiên, cơ sở hoạt động thi
hành án dân sự chủ yếu là các bản án, quyết định về dân sự của Toà án và của
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được đưa ra thi hành. Mục
đích của hoạt động thi hành án dân sự là đảm bảo cho các phán quyết của
Tòa án và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực


đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Điều 12 Luật Thi hành án dân sự quy định
về giám sát, kiểm sát việc thi hành án và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, thì “Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, có quyền kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật về thi hành án của
cơ quan Thi hành án dân sự...”. Như vậy, ngay trong các văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao như Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thi hành
án dân sự cũng đã khẳng định thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp. Bản
chất của thi hành án dân sự là dạng hoạt động chấp hành, nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác
nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định
của Tòa án phải thực hiện.

- Thứ hai, Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản:
Xuất phát từ bản chất trong các quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản,
chính vì thế mà quá trình tổ chức thi hành án dân sự cũng mang tính tài sản,
nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
(các bên đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), tức là khôi
phục lại những lợi ích về vật chất trước đó hoặc các lợi ích bị xâm hại của
người được thi hành án. Do vậy, trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự cũng
cần được quy định một cách chặt chẽ, thống nhất biện pháp áp dụng thực
hiện, bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó đều liên quan đến
quyền công dân.
- Thứ ba, Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt:
Xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong luật dân sự thì các chủ
thể được phép sử dụng quyền của mình theo nhiều cách thức khác nhau
nhằm thực hiện lợi ích của mình. Chủ thể có quyền yêu cầu chủ thể khác
thực hiện những hành vi nhất định hoặc không thực hiện những hành vi nhất
định để đáp ứng quyền và lợi ích, đây là việc người được thi hành án yêu cầu
cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành án (thi hành án theo đơn yêu
cầu của đương sự). Quyền lợi của người được thi hành án chỉ có thể được thực


đình chỉ thi hành án, quyết định ủy thác thi hành án, quyết định cưỡng chế
thi hành án, quyết định giảm giá tài sản, quyết định giải tỏa quyết định kê
biên...). Người được thi hành án trong thời hạn do pháp luật quy định, có
quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự buộc người phải thi hành án thi
hành để bảo vệ quyền lợi của mình theo bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực hoặc bản án sơ thẩm được tổ chức thi hành ngay, mặc dù bản án
sơ thẩm đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trách nhiệm của cơ quan Thi
hành án dân sự là phải đưa bản án, quyết định đó ra thi hành kịp thời, đúng
pháp luật.
- Thứ tư, Thi hành án dân sự còn là hoạt động mang tính thỏa

thuận: Điều 6 Luật Thi hành án dân sự quy định về “Thỏa thuận thi hành
án” người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan về việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án có quyền thỏa
thuận về thi hành án, nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Chỉ khi các bên đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về phương
thức, nội dung thi hành án và người phải thi hành án có điều kiện thi hành
án mà không tự nguyện thi hành thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án.
- Thứ năm, Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực
Nhà nước: Để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các bản án, quyết định dân sự của
Tòa án được thi hành, Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án được sử dụng
các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật. Các chủ
thể liên quan phải tôn trọng các bản án, quyết định của Tòa án, phối hợp
nghiêm túc và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình để bảo vệ pháp chế,
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và cá nhân.
- Thứ sáu, Trong quá trình thi hành án dân sự Chấp hành viên tổ
chức thi hành án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: Luật Thi hành án dân
sự quy định rất chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục về thụ lý hồ sơ, ra quyết


thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử, ví dụ: đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, Chấp
hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định,
đó là: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi giấy tờ có giá trị của người
phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong tỏa
tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại Ngân hàng, Tổ chức tín
dụng, Kho bạc; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do
người thứ ba giữ; buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật,
tài sản khác; cấm hoặc buộc phải thi hành án không được làm hoặc phải

làm công việc nhất định; chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
sau khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án sau khi đã hết
thời hạn tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải
thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành
án; không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong các ngày nghỉ theo quy
định của pháp luật lao động và trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ
sáng hôm sau, mười lăm ngày trước và sau tết Nguyên đán, các ngày lễ tết
truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành
án và các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định; việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải
thi hành án; Chấp hành viên phải căn cứ vào nội dung bản án, quyết định của
Tòa án, tính chất, mức độ của nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải
thi hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tế ở địa phương để áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cho phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thứ nhất, Thi hành án dân sự góp phần củng cố kết quả về công tác
xét xử của Tòa án: Thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình
xét xử nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Do vậy, công tác thi hành
án dân sự sẽ làm cho bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
hoặc bản án sở thẩm chưa có hiệu lực (Điều 2 Luật Thi hành án dân sự) nhưng
theo quy định của pháp luật sẽ được tổ chức thi hành ngay. Do vậy, nếu phán


đúng pháp luật, công bằng, khách quan sẽ là sự thể hiện ý chí, bản chất của
Nhà nước, là tiền đề cho việc đưa pháp luật vào trong thực tiễn đời sống xã
hội, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, kỷ cương xã hội, nâng cao uy tín của
Nhà nước trước nhân dân.
- Thứ hai, Thi hành án dân sự góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả, hiệu lực xét xử: Quá trình xét xử luôn luôn phải tuân thủ chặt chẽ
các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố
tụng đều là những người có uy tín, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.

Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của vụ án dân sự, giải quyết các
mối quan hệ dân sự đa dạng và phức tạp. Trong khi đó, các quy định của pháp
luật về nội dung cũng như quy định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt
chẽ thậm chí những quy định của pháp luật không thống nhất về cách thức áp
dụng hay còn thiếu. Do đó, còn có thể dẫn đến những sai lầm trong quá trình
xét xử. Vì vậy, thi hành án dân sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm thực tiễn
những phán quyết của Tòa án, phản ánh tính trung thực, chất lượng và hiệu
quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Tòa án đã tham gia
quá trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc phục những khuyết điểm,
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác.
- Thứ ba, Thi hành án dân sự bảo vệ lợi ích hợp pháp của người
được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc thi hành án: Như đã nêu trên, thi hành án dân sự là hoạt
động tác động trực tiếp đến lợi ích về vật chất (quyền về tài sản …) của người
phải thi hành án, sẽ tác động trực tiếp đến đời sống của người phải thi hành
án và trong nhiều trường hợp đã tác động đến đời sống bình thường của gia
đình, người thân của người phải thi hành án. Do vậy, thực tiễn thi hành án cho
thấy, việc tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án còn rất hạn
chế. Mặt khác, trong nhiều trường hợp người phải thi hành án không thỏa
mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án do quá trình xét xử còn


tìm mọi cách chây ì, trì hoãn, chống đối việc thi hành. Chính vì vậy, việc
thi hành án sẽ là một cơ chế hữu hiệu để người được thi hành án thực hiện
quyền của mình. Tuy nhiên, thi hành án dân sự không chỉ là bảo vệ riêng
quyền lợi của người được thi hành án mà còn bảo vệ quyền lợi cho người
phải thi hành án và những người có quyền, lợi ích có liên quan đến việc thi
hành án theo quy định của pháp luật.
- Thứ tư, Thi hành án dân sự góp phần vào công tác giữ gìn an

ninh trật tự, an toàn xã hội và tăng cường pháp chế Nhà nước: Xuất phát
từ hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước, nên
hoạt động thi hành án dân sự mang tính quyền lực Nhà nước, như cưỡng chế
thi hành án để thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích của Nhà nước. Như vậy, trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, do
nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, quan hệ xã hội ngày càng mở rộng,
các quan hệ dân sự ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp, nên việc thi
hành án dân sự là một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong
việc duy trì trật tự, kỷ cương trong xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
công dân, Nhà nước và là cơ sở để đảm bảo sự công bằng xã hội trước pháp
luật, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
- Thứ năm, Thông qua công tác thi hành án dân sự nhằm nâng cao
ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân: Hoạt động thi hành án dân sự
không chỉ là hoạt động nghiệp vụ của riêng cơ quan Thi hành án dân sự mà
đó là sự Lãnh đạo, chỉ đạo với vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương; là sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu
quan và mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thông qua thi hành án dân
sự, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ngày càng được nâng
cao, vai trò trách nhiệm của các cơ quan tổ chức được đảm bảo, niềm tin của


- Thứ sáu, Thi hành án dân sự là kênh tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cho nhân dân: Qúa trình tổ chức thi hành án, cơ quan Thi hành án dân
sự, Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự phải thông qua
các hoạt động nghiệp vụ, kỹ năng tổ chức thi hành của mình, nắm vững các
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật khác có liên
quan để động viên, giải thích, giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án
biết để tự nguyện thi hành án; tiến hành hòa giải để các bên đương sự thỏa

thuận với nhau về phương thức thi hành. Tuy nhiên, để làm được điều này
đòi hỏi Chấp hành viên phải có kỹ năng tổ chức, am hiểu rõ pháp luật và tập
quán tại địa phương để phổ biến, giải thích rõ các quy định pháp luật về thi
hành án dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan, chính sách đãi
ngộ của Nhà nước, trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật
đến người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, lợi
liên quan hiểu rõ để thực hiện.
1.2. Chủ thể, nội dung, quy trình thi hành án dân sự ở Việt
Nam 1.2.1. Chủ thể thi hành án dân sự
Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là cơ quan Thi hành
án dân sự, Chấp hành viên (công chức làm công tác thi hành án dân sự) và
đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án). Như vậy, quan hệ
trong thi hành án dân sự luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là: (1) Cơ quan Thi
hành án dân sự, (2) Chấp hành viên (cán bộ làm công tác thi hành án) (3) Các
bên đương sự (người phải thi hành án, người được thi hành án), ngoài ra còn
các chủ thể khác có liên quan như: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
các cơ quan hữu quan có liên quan đến việc tổ chức thi hành án dân sự hình
thành trên cơ sở thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các
quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền
lực Nhà nước để thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định để


Các chủ thể thi hành án dân sự phải tuân thủ những quy định chặt chẽ
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Về nguyên tắc, Chấp hành
viên tổ chức thực hiện chủ động, độc lập, chủ thể trong hoạt động nghiệp vụ
thi hành án dân sự luôn được tôn trọng, bảo vệ. Ngoài ra, tùy thuộc vào vai trò
của từng chủ thể tham gia vào quá trình tổ chức thi hành án khác nhau mà có
các chủ thể như phối hợp thực hiện khác nhau ví dụ: Cơ quan Công an, Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Hội phụ nữ.., các Sở, ban, ngành cấp tỉnh

và các Phòng chuyên môn cấp huyện, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức chính trị,
xã hội nơi người phải thi hành án sinh sống và làm việc…
1.2.2. Nội dung và thủ tục thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án và theo đơn yêu cầu thi hành án của các bên đương sự;
việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo các trình tự, thủ tục thống nhất và
chặt chẽ. Thủ tục về tổ chức thi hành án dân sự phải tuân thủ những trình tự,
thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật, cụ thể như: (1) Cấp bản án,
quyết định cho các bên đương sự; Chuyển giao bản án, quyết định, thủ tục
nhận bản án, quyết định của Tòa án; (2) Đơn yêu cầu thi hành án, tiếp
nhận, từ chối đơn yêu cầu thi hành án (thụ lý hồ sơ thi hành án), ra quyết
định thi hành án; (3) Gửi quyết định thi hành án, thông báo thi hành án cho
Viện kiểm sát và tống đạt cho các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan; (4) Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành
án, xác định phần sở hữu đối với tài sản chung của người phai thi hành án
với người có liên quan, lập biên bản giải quyết thi hành án, thỏa thuận thi
hành án; (5) Tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án; hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ, ủy thác thi hành án; (6) thanh toán tiền, trả tài sản thi
hành án… Đồng thời, việc tổ chức thi hành án dân sự yêu cầu việc tuân thủ
các trình tự, thủ tục phải đảm bảo tính dân chủ, công khai, công bằng, đúng
pháp luật, đảm bảo thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu


Trong quá trình tổ chức thi hành án, việc thực hiện đúng trình tự, thủ
tục giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng, đảm bảo cho việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu quả sẽ làm hạn chế việc khiếu nại, tố
cáo kéo dài của đương sự, làm giảm lượng án tồn đọng và hạn chế thiệt hại
về tiền của cho đương sự và Nhà nước. Bởi lẽ, hoạt động thi hành án dân sự
là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong quan hệ thi
hành án. Vì vậy, nếu cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên áp dụng

pháp luật không chính xác sẽ dẫn đến sai lệch hồ sơ, làm mất đi điều kiện
thi hành án, ra quyết định không chính xác với thực tế sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên đương sự và Nhà nước.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển thi hành án dân sự ở Việt
Nam 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990
Đây là thời kỳ đất nước chưa hoàn toàn thống nhất, theo đó là một
nền kinh tế bao cấp đầy những khó khăn, yếu kém, nên những văn bản pháp
luật nói chung, các văn bản pháp luật về thi hành án nói riêng còn rất ít và
mang tính sơ lược. Do vậy, giai đoạn này được coi là giai đoạn mà công tác thi
hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn, cùng một lúc Tòa án phải thực hiện
hai chức năng đó là chức năng xét xử và chức năng thi hành án. Công tác thi
hành án dân sự ở giai đoạn này chủ yếu được tiến hành dưới sự hướng dẫn của
các Thông tư do Tòa án nhân dân tối cao ban hành, những quy định về vấn
đề này còn bị hạn chế rất nhiều nên việc thực hiện kém hiệu quả. Hầu hết
các bản án, quyết định do Tòa án tuyên, khi đưa ra thi hành án đạt hiệu quả,
hiệu lực còn rất hạn chế.
Đặc trưng nổi bật của thi hành án dân sự trong giai đoạn này là Tòa
án chủ động trong thi hành án, quyền định đoạt của đương sự về thi hành án
chưa được pháp luật quy định đầy đủ. Theo Điều lệ về thi hành án dân sự
ban hành kèm theo Thông tư số 827/TT-TANDTC ngày 23/10/1979 của
TAND tối cao thì TAND các cấp ở địa phương phải chủ động đưa ra thi


×