Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.48 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ BÍCH HỒNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Hữu Tráng

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác
Hà Nội,ngày 26 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Phạm Thị Bích Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI


PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG
ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................. 7
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ............................... 7
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................................... 11
1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với một số tội danh khác ................................................................. 15
1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm
2015 ................................................................................................................. 19
Chƣơng 2: ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
NINH BÌNH .................................................................................................... 24
2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................................... 24
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình................................................................... 28
2.3. Các giải pháp đảm bảo định tội danh tội đúng ........................................ 43
Chƣơng 3: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH ................................................................... 55
3.1. Khái quát lí luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................. 55
3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình ........................................................................................................ 60
3.3. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng .................................. 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 81



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

ATGT

An toàn giao thông

CTTP

Cấu thành tội phạm

HĐXX

Hội đồng xét xử

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HĐTP TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao


HSST

Hình sự sơ thẩm

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TNGT

Tai nạn giao thông

QĐHP


Quyết định hình phạt

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. .......................................................................... 15
Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời
khác ........................................................................................................................... 17
Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép. .................................................................. 18
Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011 – 2015. ........................................... 27
Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2011-2015. . 28
Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về
tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ .................... 28
Bảng 3.1: Cơ cấu loại hình phạt số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ năm 2011-2015. .................................... 59


.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao thông đƣờng bộ có vị trí và vai trò quan trọng đối với quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của các nƣớc trên thế giới. Trong những năm qua ở nƣớc ta nền
kinh tế thị trƣờng, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa có những khởi sắc đáng kể và
đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lính vực đem lại đới sống vật chất và tinh
thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên thì giao
thông vận tải thể hiện rõ.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển, chuyển biến của hoạt động giao thông vận
tại thì tình hình tai nạn giao thông đƣờng bộ nói chung và tình hình tội phạm vi
phạm quy định về phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nói riêng trong những năm gần
đây tăng rất nhanh về số vụ việc và cả về mức độ nghiêm trọng đã gây ra và để lại
những hậu quả rất lớn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nƣớc và nhân dân,
làm ảnh hƣởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đảng, Nhà nƣớc và hệ
thống chính quyền các cấp từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng đã nỗ lực đề ra nhiều
nhóm giải pháp kiềm chế sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi tai nạn giao thông.
Trong xu hƣớng đổi mới hội nhập sâu rộng nền kinh tế, số lƣợng phƣơng tiện
tham gia giao thông đƣờng bộ ngày càng gia tăng, số ngƣời tham gia giao thông
cũng ngày càng nhiều hơn, ý thức tham gia giao thông của ngƣời dân chƣa đƣợc cải
thiện nhiều, cơ sở hạ tầng chƣa đáp ứng đƣợc, dẫn tới việc vi phạm các quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ngày cang nhiều về số vụ và hậu quả
xảy ra đặc biệt nghiêm trọng, đây là vấn đề đặt ra trách nhiệm nặng nề của cả hệ
thống chính trị.
Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định của BLHS là nhiệm
vụ quan trọng đối với các cơ quan THTT góp phần ngăn chặn và kiềm chế tai nạn
giao thông. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về tội vi phạm

quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong những năm qua cho
thấy dù đƣợc sửa đổi, bổ sung ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan

1


Nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án
này, các cơ quan THTT còn gặp những khó khăn, vƣớng mắc. Nguyên nhân của
tình trạng này là một phần do bất cập của pháp luật về áp dụng các quy định của
BLHS do nhận thức thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận tội "vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ", tìm ra những bất cập, vƣớng mắc
trong thực tiễn áp dụng tội phạm này và nguyên nhân của chúng, để đƣa ra các kiến
nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn. Đây chính là lý do học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài
"Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" làm luận văn Thạc sĩ luật học
chính là xuất phát từ sự cần thiết đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, việc nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ
làm công tác thực tiễn xét xử. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực
đó là các giáo trình của các Trƣờng Đại học, các luận án, luận văn, các sách, tài liệu
tham khảo, bài viết liên quan đến tội phạm này đó là:
* Nhóm thứ nhất (Sách giáo trình, bài viết, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chƣơng X – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng. trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm), do
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 2) GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, Chƣơng XXV – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Tập II) do GS.TS.

Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) GS.TS. Đỗ
Ngọc Quang, Chƣơng XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm) Do GS.TS
Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001(tái bản năm 2003 và 2007).
4) Bình luận khoa học BLHS năm 1999, Chƣơng XIX các tội xâm phạm an toàn

2


công cộng, trật tự công cộng của PGS.TS. Phùng Thế Vắc, Tiến sỹ Nguyễn Đức
Mai; Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sỹ Đinh Văn Quế.
* Nhóm thứ hai (các luận văn, luận án tiến sỹ luật học) bao gồm: Luận văn
thạc sỹ luật học “Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên” của tác giả Nguyễn
Văn Tuấn năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Đắc Dũng, năm 2011. Luận án tiến sỹ luật học “Các biện pháp đấu tranh
phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
ở thủ đô Hà Nội”, của tác giả Bùi Kiến Quốc năm 2011.
* Nhóm thứ ba (Sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) TS Trần
Minh Hƣởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản
lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002; 2)Tạp chí Tòa án nhân dân số
01, tháng 1 năm 2012 “Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Văn Luật, Tạp chí Tòa án nhân
dân số 16, tháng 8 năm 2011; “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng
trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ”
của tác giả Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Tòa án số 9, tháng 5 năm 2007; “Một số
vƣớng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đƣờng
bộ” của tác giả Tiến Sỹ Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án số 22, tháng 11 năm

2009; Cần hình sự hóa hành vi đã uống rƣợu, bia hoặc các chất kích thích khác mà
vẫn điều khiển phƣơng tiện giao thông để phòng ngừa tai nạn” của PGS.TS Trần
Hữu Tráng, Tạp chí Tòa án số 16, tháng 8 năm 2012…
Nghiên cứu các tài liệu trên viết về tội phạm này đã đề cập nhiều vấn đề còn
vƣớng mắc về lý luận và thực tiễn áp dụng. Các luận án, luận văn và bài viết liên
quan đến vấn đề này chủ yếu từ góc độ tội phạm học. Tuy nhiên, trong phạm vi hệ
thống hai cấp Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình chƣa có công trình nào nghiên cứu
một cách sâu sắc và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ dƣới góc độ thực

3


tiễn xét xử. Vì vậy, việc nghiên cứu “Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” là nhu cầu cấp
thiết hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Học viên nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ từ lý luận đến thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
hiện nay. Nghiên cứu các vụ án, bản án đã xét xử, tìm hiểu sâu sắc, toàn diện về vấn
đề định tội danh và quyết định hình phạt tội này qua các dấu hiệu pháp lý để thấy
đƣợc những điểm khác nhau giữa lý luận và thực tiễn. Quá trình nghiên cứu đề tài
còn dựa và các văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cũng nhƣ các Nghị
quyết, Công văn hƣớng dẫn trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao. Số
liệu từ các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình, kết hợp với các
kiến thức lý luận qua công tác thực tiễn xét xử.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình dƣới

góc độ pháp lý hình sự trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong
BLHS; thực tiễn xét xử loại tội phạm này và những bất cập, vƣớng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành trong quá trình xử lý các hành vi vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên cơ sở đó đề
xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về loại tội phạm này cũng
nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
danh này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Để đạt đƣợc mục đích trên đây học viên đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Trên cơ sở lý luận đƣa ra những phân tích về loại tội phạm vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, các yếu tố thuộc dấu hiệu
pháp lý đặc trƣng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
- Tổng kết, đánh giá thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây; đi
sâu phân tích đánh giá một số vụ án điển hình trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ đó rút
ra những ƣu điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử loại tội này, tìm ra nguyên nhân và
các giải pháp góp phần vào công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân và hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc.
- Đề xuất giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm tăng cƣờng
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và
pháp luật của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
qua thực tiễn công tác xét xử trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể nhƣ phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn để làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về mặt lý luận
Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tội vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn xét xử của hai cấp
Tòa án Tỉnh Ninh Bình ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Học viên đƣa ra những vƣớng
mắc bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế, vƣớng mắc trong
thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện Điều 202 của

5


BLHS cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội phạm này.
* Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với
việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm
này. Qua kết quả nghiên cứu và những đề xuất, bản thân học viên mong muốn góp
một phần nhỏ của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện tội vi phạm quy định
về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ pháp luật hình sự Việt
Nam.
Luận văn khi hoàn thiện cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan
bảo vệ pháp luật, cho những ngƣời nghiên cứu và sinh viên, học viên trong các cơ
sở đào tạo luật.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, phục lục và tài liệu tham khảo, đề
tài đƣợc cấu trúc gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Viêt Nam.
Chƣơng 2: Định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội
vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
1.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự
năm 1985
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành đã công đập tan chế độ phong kiến,
đồng thời thiết lập nên Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc công nông
đầu tiên với hệ thống pháp luật, trong đó có các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tƣ
hƣớng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực hình sự.
Ngay sau khi giành đƣợc chính quyền về tay nhân dân, Nhà nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự quy định các tội gián
điệp, tội âm mƣu lật đổ chính quyền, tội hoạt động phỉ…tại Sắc lệnh số 21 ngày 14
tháng 2 năm 1946. Tuy nhiên, lúc này tội vi phạm quy định về an toàn giao thông
đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định. Nhƣ vậy các tội chống chính quyền nhân dân đƣợc

quy định ngay từ khi Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, còn tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chỉ ra đời khi có các quy
định về an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ, tức là khi có Luật giao thông đƣờng bộ.
Trong suốt 10 năm từ năm 1945 đến năm 1954 thời kỳ thực dân Pháp tái chiếm Hà
Nội thì Nhà nƣớc ta chƣa có hệ thống luật bảo đảm an toàn giao thông vận tải. Vì
vậy, không có cơ sở để hình thành quy phạm pháp luật về tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trong thời kỳ này cả nƣớc vẫn áp dụng
luật của chế độ cũ để xét xử tội về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ.
Sau khi miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng. Ngày 03/10/1955, Luật đi
đƣờng bộ mới đƣợc ra đời kèm theo Nghị định số 348/NĐ của Bộ giao thông Bƣu

7


điện. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa về
an toàn giao thông, tạo cơ sở pháp lý hình thành tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau đó hàng loạt các văn bản pháp lý khác về an
toàn giao thông vận tải ra đời nhƣ: Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956; Nghị
định 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ giao thông Bƣu điện; Nghị định liên bộ giữa Bộ
giao thông Bƣu điện - Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm
thời về vận tải đƣờng bộ; Nghị định số 10/NĐ của Hội đồng Chính phủ ban hành
Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến; Nghị định 36/CP
ngày 29/5/1995 về tăng cƣờng bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ
và trật tự đô thị và đến nay là Nghị định số 36/CP ngày 10/7/2001 về bảo đảm trật
tự an toàn giao thông đƣờng bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Điểm nổi bật và
đáng chú ý nhất là Quốc Hội đã thông qua Luật giao thông đƣờng bộ đầu tiên vào
ngày 29/6/2001 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002.
Ngày 19/01/1955 Thủ tƣớng Chính phủ ra Thông tƣ số 442/TTg là văn bản
đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tội vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ . Tại Điểm 4 của Thông tƣ này

quy định: “Không cẩn thận khi không theo luật đi đường mà làm người khác bị
thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có
thể bị phạt tù đến 10 năm” [6,tr. 135].
Sau hơn một năm thực hiện Thông tƣ này, ngày 29/6/1956, Thủ tƣớng Chính
phủ đã ra Thông tƣ 556/TTg bổ sung điểm 4 Thông tƣ 442/TTg. Điểm 4 của Thông
tƣ 556/TTg quy định: “Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người
khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn chết người
thì có thể bị phạt tù đến 10 năm. Trong trường hợp gây tai nạn lớn làm chết nhiều
người và gây thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân thì có thể bị phạt đến tù chung
thân hay tử hình” [7,Tr. 135].
Trƣớc ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, các tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đều đƣợc điều tra, truy tố và xét xử
theo Thông tƣ 442/TTg và Thông tƣ 556/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ.

8


Đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn thì đƣờng lối xử lý ngƣời
phạm tội là “Trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị
đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận
trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”.
Khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ mới ban hành Sắc luật số
03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm
trật tự công công, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Tại Điều 9 Sắc luật
03 quy đinh về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe
của nhân dân nhƣ sau: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng với
các khung hình phạt từ 3 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng ngân hàng”.
Nhƣ vậy có thể thấy, trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các hành
vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc

quy định là một tội độc lập. Đƣờng lối xử lý vi phạm tội vi phạm luật lệ giao thông
gây tai nạn đƣợc thực hiện theo hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Bản sơ
kết kinh nghiệm về đƣờng lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn. Đến
năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dƣới dạng Sắc luật quy định tội
phạm và hình phạt đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật
hình sự năm 1999
Tháng 9 năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra đời và có hiệu lực hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày
01/01/1986. Trong bộ luật này, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ cũng chƣa có tên riêng, mà đƣợc quy định chung với các hành vi vi
phạm quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186, Chƣơng VIII – Các tội xâm
phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính - BLHS 1985). Điều
luật quy định hành vi phạm tội của ngƣời “điều khiển phương tiện giao thông vận
tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt,
đường thủy, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản …,” [19]

9


So với Sắc luật số 03-SL/76 thì quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 1985
đã có bƣớc tiến bộ rất lớn về cả kỹ thuật lập pháp và nội dung. Cụ thể nhƣ sau:
- Tên của tội đã đƣợc xác định rõ là “Tội vi phạm các quy định về an toàn
giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”
- Sắc luật số 03-SL/76 chỉ nêu tội danh và hình phạt mà không mô tả dấu
hiệu pháp lý đặc trƣng của tội phạm cũng nhƣ quy định các khung hình phạt tƣơng
ứng với các loại trƣờng hợp phạm tội khác nhau nhƣ quy định tại Điều 186 Bộ luật
hình sự năm 1985.
- Đƣờng lối xử lý tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây

hậu quả nghiêm trọng của Bộ luật hình sự năm 1985 có thay đổi mức hình phạt tù
theo hƣớng tăng nặng hơn tối đa từ 15 năm lên 20 năm cho phù hợp với các trƣờng
hợp đặc biệt nghiêm trọng của tội này.
- Các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự
năm 1985 cụ thể, đầy đủ và rõ ràng hơn. Nhiều tình tiết định khung tăng nặng khác
trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bổ sung (4 khung hình phạt khác nhau).
Tuy nhiên quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội vi phạm quy định
về an toàn giao thông vận tải cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là quy định cả 4 loại
hành vi vi phạm trong bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đƣờng bộ, đƣờng
sắt, đƣờng thủy và đƣờng không) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn
rất khác nhau vào cùng một điều luật. Điều này đã hạn chế nhiều đến việc quy định
cụ thể hành vi phạm tội cũng nhƣ việc phân hóa trách nhiệm hình sự của hành vi
phạm tội.
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991,
1992, 1997 nhƣng nội dung của Điều 186 về tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ về cơ bản không thay đồi, mà chỉ có sự thay đổi
về tên tội (đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông vận tải. Bỏ cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” nhằm cho tên tội phù
hợp với tất cả các trƣờng hợp bị coi là phạm tội này theo nội dung điều luật.

10


1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
1.2.1.Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ
Tội phạm là một hiện tƣợng xã hội có tính lịch sử, phát sinh trong điều kiện
kinh tế, xã hội nhất định, đó là hiện tƣợng tiêu cực của xã hội, tội phạm luôn chứa

đựng trong nó tính chống đối lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, đi ngƣợc lại lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp
pháp của con ngƣời.
Tại Điều 8 BLHS năm 1999 hiện hành thì khái niệm tội phạm đƣợc định
nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khá của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. [20]. Khái niệm
tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là sự cụ thể
hóa khái niệm tội phạm, hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau.
Có tác giả cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy định của Nhà nước về an toàn
giao thông đường bộ” [13,tr.434]. Tác giả cho rằng khái niệm này còn khá chung
chung và chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn bình luận khoa học BLHS đã định nghĩa:
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi
phạm quy định về an toàn giao thông trong khi điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khỏe, tài sản của người khác” [18, tr. 6].
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học luật Hà Nội thì định
nghĩa: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là

11


hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại

nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [28, tr. 196].
Cả hai định nghĩa trên đều chƣa đề cập đến vấn đề năng lực TNHS của ngƣời
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ khi tham gia giao thông.
Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lí trong các định nghĩa trên, tác giả
xin đƣa ra định nghĩa về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ nhƣ sau:
"Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện khi điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vi phạm các quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác".
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ
Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng (các yếu tố cấu thành tội phạm) là cơ sở pháp
lý của việc định tội danh. Cũng nhƣ các tội phạm khác, tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS 1999
có 4 yếu tố cấu thành là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể.
* Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc xác định là trật tự an toàn của hoạt động
giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời
tham gia giao thông. [41, tr 417]
* Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ bao gồm: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra,
thời gian, địa điểm, phƣơng tiện phạm tội.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ nhƣ: hành

12



vi vi phạm quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, sử dụng làn đƣờng, vƣợt
xe, chuyển hƣớng xe…[41,418]
Hậu quả do hành vi vi phạm tội này gây ra là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại
nghiêm trọng sức khoẻ, tài sản của Nhà nƣớc và công dân. Thiệt hại đƣợc coi là
nghiêm trọng thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây:
“ a. Làm chết một người;
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của một người đến 4
người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
c. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với
tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
d. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người
này từ 41% trở lên;
e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ
thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
f. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người dưới 21% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn
nhân từ 31% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đến
dưới năm mươi triệu;
g. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đến dưới năm trăm
triệu động”[34]
Giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành
vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ phải là nguyên
nhân phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm
xảy ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của ngƣời khác.
Khoản 4 Điều 202 BLHS đƣợc coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt đối với tội
vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên thực tế rất ít

xảy ra trƣờng hợp này. Đây là trƣờng hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông
đƣờng bộ mà nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời thì hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

13


nhất định xảy ra. Có quan điểm cho rằng, khoản 4 Điều 202 BLHS là cấu thành
hình thức, vì theo quy định của điều luật, không cần có hậu quả xảy ra tội phạm đã
hoàn thành. Nếu chỉ căn cứ vào quy định tại khoản 4 của điều luật này thì dƣờng
nhƣ đây là tội có cấu thành hình thức. Tuy nhiên, ở đây cần lƣu ý hậu quả chƣa xảy
ra là do “đƣợc ngăn chặn kịp thời” chứ không phải do “hành vi phạm tội mới đe dọa
xâm phạm đến các quan hệ xã hội” nhƣ đối với các tội phạm có cấu thành hình
thức. Vì vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của khoản này vẫn là cấu thành tội
phạm vật chất. Hậu quả của hành vi mặc dầu chƣa xảy ra nhƣng hoàn toàn có thể
suy đoán đƣợc dựa trên diễn tiến của hành vi nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của ngƣời phạm tội trong tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
* Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 1999 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”[20]. Tội vi phạm các quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS
là tội phạm nghiêm trọng; quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 202 BLHS là tội
phạm rất nghiêm trọng;quy định tại khoản 4 Điều 202 BLHS là tội phạm ít nghiêm
trọng. Nhƣ vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên có
đủ năng lực TNHS.
BLHS 2015 đã sửa đổi quy định về độ tuổi chịu TNHS, theo đó nhà làm luật
quy định cụ thể những trƣờng hợp ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu

TNHS tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015. Tuy nhiên, theo quy định này thì ngƣời từ
đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi cũng vẫn không phải chịu TNHS đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015).
* Hình phạt đối với tội phạm
Điều 202 BLHS 1999 quy định bốn khung hình phạt với ngƣời phạm tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ: Khoản 1 Điều 202 của

14


BLHS quy định phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không
giam giữ đến ba năm, hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, khoản 2 Điều của 202
BLHS quy định phạt tù từ ba năm đến mƣời năm, khoản 3 Điều 202 của BLHS quy
định phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. Vi phạm quy định an toàn giao thông
đƣờng bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không
đƣợc ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm phải chịu TNHS theo khoản 4 Điều 202 của BLHS.

1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với một số tội danh khác
* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội giết ngƣời.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ với tội giết người
Tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông Tội giết ngƣời

Tiêu chí


đƣờng bộ
Về khách
thể

trực

tiếp

- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt
động giao thông đƣờng bộ và sự an - Xâm phạm đến quyền đƣợc
toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sống của con ngƣời
sản của ngƣời khác
- Hành vi vi phạm các quy định về - Là hành vi tƣớc đoạt trái pháp
đảm bảo trật tự an toàn giao thông luật tính mạng của ngƣời khác,

Hành

vi

khác quan

đƣờng bộ của ngƣời điều khiển là khả năng gây ra cái chết cho
phƣơng tiện tham gia giao thông đã con ngƣời, chấm dứt sự sống
gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã của họ. Hành vi khách quan của
hội (thiệt hại về tính mạng, tài sản tội giết ngƣời có thể là hành
tính thành tiền và làm mất trật tự an động hoặc là không hành động

15



toàn giao thông đƣờng bộ). Hành vi
khách quan của tội này thực hiện
bằng hành động.
- Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi
vô ý, tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà
Mặt

chủ lỗi của ngƣời phạm tội có thể là lỗi

quan

của vô ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì

tội phạm

cẩu thả. Trong cả hai trƣờng hợp lỗi
trên ngƣời phạm tội không mong

- Tội phạm đƣợc thực hiện với
lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là
lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián
tiếp

muốn hậu quả xảy ra.
Điều kiện
truy

cứu - Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc

trách


gây hậu quả nghiêm trọng cho sức - Gây hậu quả chết ngƣời

nhiệm

khỏe và tài sản của ngƣời khác

hình sự
Địa điểm - Trên đƣờng trong khi tham gia
phạm tội

giao thông đƣờng bộ

- Bất kỳ đâu

* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời
khác.
Theo quy định tại Điều 108 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì tội vô ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác là hành vi vô ý gây thƣơng
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mà tỷ lệ thƣơng tật từ 31% trở
lên do ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự thực hiện bởi hình thực lỗi vô ý, do tự tin hoặc cẩu thả mà gây thƣơng tích cho
nạn nhân. Khách thể của tội này là quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
Nhƣ vậy, so sánh với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ cho thấy những điểm giống nhau nhƣ sau:

16



Tội phạm đƣợc thực hiện bởi hình thức lỗi vô ý, bao gồm cả lỗi vô ý do cẩu
thả và lỗi vô ý vì quá tự tin.
- Chủ thể của tội phạm là những ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác
Tội vi phạm quy định về điều khiển

Tiêu chí

phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt

Về khách thể động giao thông đƣờng bộ và sự an
trực tiếp

toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản
của ngƣời khác

Tội vô ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho ngƣời khác
- Xâm phạm đến quyền
đƣợc bảo vệ về sức khỏe
của con ngƣời

- Hành vi vi phạm các quy định về đảm
bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ

của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham
vi gia giao thông đã gây ra hậu quả

Hành
khách quan

nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về
tính mạng, tài sản tính thành tiền và
làm mất trật tự an toàn giao thông

- Hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ các
quy tắc an toàn gây nên
thƣơng tích cho nạn nhân.

đƣờng bộ)
Điều

kiện

truy

cứu

trách nhiệm
hình sự
Địa

- Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây

hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và
tài sản của ngƣời khác

thƣơng tật từ 31% trở lên
cho nạn nhân mới cấu
thành

điểm - Trên đƣờng trong khi tham gia giao

phạm tội

- Gây thƣơng tích với tỷ lệ

thông đƣờng bộ

17

- Bất kỳ đâu


* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội đua xe trái phép.
Tội đua xe trái phép quy định tại Điều 207 là tội phạm mới đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi của tội đua xe trái phép là hành vi đua trái
phép ôtô, xe máy hoặc các loại xe có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản
của ngƣời khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, do ngƣời có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội
đua xe trái phép đều xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và đều đe

dọa, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.3. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và tội đua xe trái phép:
Tội vi phạm quy định về điều khiển

Tiêu chí

phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ

Tội đua xe trái phép
- Xâm phạm đến an toàn
công công, đồng thời tội

- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt này còn đe đọa xâm phạm
Về khách thể động giao thông đƣờng bộ và sự an tính mạng, sức khỏe, tài
trực tiếp

toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản sản của ngƣời khác cũng
của ngƣời khác

nhƣ

gây

ảnh

hƣởng

nghiêm trọng đến trật tự

công cộng.
- Hành vi vi phạm các quy định về đảm - Hành vi đua xe trái phép
Hành
khách quan

vi

bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ ô tô, xe máy hoặc các loại
của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham xe khác có gắn động cơ
gia giao thông đã gây ra hậu quả gây thiệt hại cho sức khỏe,
nghiêm trọng cho xã hội(thiệt hại về tài sản của ngƣời khác,

18


tính mạng, tài sản tính thành tiền và gây ảnh hƣởng nghiêm
làm mất trật tự an toàn giao thông trọng đến an toàn công
đƣờng bộ)

cộng.

- Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi vô ý, - Tội phạm đƣợc thực hiện
Mặt

chủ

quan của tội
phạm

tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà lỗi của với lỗi cố ý trực tiếp. Mục

ngƣời phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá đích phạm tội và động cơ
tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Trong cả phạm tội không phải là
hai trƣờng hợp lỗi trên ngƣời phạm tội dấu hiệu bắt buộc trong
không mong muốn cho hậu quả xảy ra.

mặt chủ quan của tội này.
- Gây thiệt hại cho sức

Điều

kiện

truy

cứu

trách nhiệm
hình sự

khỏe, tài sản của ngƣời
- Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây khác, hoặc đã bị xử phạt
hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và hành chính về hành vi này
tài sản của ngƣời khác

hoặc đã bị kết án về tội
này, chƣa đƣợc xóa án
tích mà còn vi phạm.
- Nơi công cộng nhƣng
chủ yếu trên các tuyến


Địa điểm

- Trên đƣờng trong khi tham gia giao
thông đƣờng bộ

đƣờng giao thông, tuyến
phố lớn, đƣờng quốc lộ,
tỉnh lộ nhân những ngày
lễ lớn hoặc khi có các sự
kiện văn hóa, thể thao…

1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình
sự năm 2015
Thực hiện tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW "Về Chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020" ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, nhằm khắc phục kịp thời
những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử nói chung và

19


các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ nói riêng, BLHS 2015 đã có
những sửa đổi bổ sung một số nội dung cụ thể, khắc phục cơ bản đƣợc những hạn
chế bất cập trong quy định của Điều 202 BLHS 1999, làm cho nó phù hợp hơn với
thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm về trật tự an toàn
giao thông đƣờng bộ. Những thiếu sót tại Điều 202 của BLHS hiện hành, đã đƣợc
bổ sung, sửa đổi trong Bộ luật hình sự 2015 (tại Điều 260 BLHS 2015), cụ thể là:
Một là: Sửa tên gọi của Điều luật. Tên của điều luật đƣợc đổi thành: Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015).
Hai là: Bổ sung nội dung quy định tại khoản 1 của Điều 260 BLHS năm

2015, bằng cách thay cụm từ "điều khiển phƣơng tiện" bằng từ "tham gia" để bao
quát đầy đủ các chủ thể tham gia giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ phù hợp với quy
định tại điểm 21 Điều 3 Luật giao thông đƣờng bộ năm 2008: "người tham gia giao
thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường
bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ"[23]
Ba là: Các quy định có tính định tính trong Điều 202 BLHS 1999 đƣợc
hƣớng dẫn cụ thể để thực hiện tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,đã đƣợc tiếp thu, bổ
sung cho hoàn chỉnh và pháp điển hóa vào trong các quy định của Điều 260 Bộ luật
hình sự năm 2015.
Bốn là: Điều 260 của BLHS sửa đổi năm 2015 về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đƣờng bộ, đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng thành 6 khoản, tăng
01 khoản so với Điều 202 của BLHS 1999. Mức án tại các khoản tƣơng ứng cũng
nhƣ hình phạt bổ sung quy định ở hai điều luật mới và cũ không có sự khác biệt lớn.
Nhƣng tại Điều 260 của BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 01 cấu thành giảm nhẹ ở
khoản 04 của điều luật để xử lý một số hành vi vi phạm quy định về an toàn giao
thông đƣờng bộ, nhƣng ở mức độ nhẹ hơn so với quy định tại khoản 01 điều này.
(Khoản 1 Điều 202 và văn bản hƣớng dẫn của nghị quyết HĐTP quy định là làm
chết 01 ngƣời hoặc gây thƣơng tích cho 01 ngƣời từ 31% trở lên…Còn ở Điều 260
của BLHS năm 2015 đã tách khoản 1 của Điều 202 cũ ra để quy định thành 2
khoản, là khoản 1 và khoản 4. Theo đó: Nếu gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho

20


×