Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thông qua lý thuyết về hàng hóa chỉ ra thực trạng hàng hóa của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.84 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ HÀNG HÓA.......................................2
1.1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa..........................................................................................2
1.1.1. Hàng hóa.....................................................................................................................................2
1.1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa.......................................................................................................3
1.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. ..........................................................................5
1.2.1. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng....................................................................................5
1.2.2. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn (mâu thuẫn giữa chất tư nhân và tính chất
xã hội của lao động hàng hóa)..............................................................................................................6
1.3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa..................................7
1.3.1. Giá trị của hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng.......................................................7
2.1. Thực trạng hàng hóa của Việt Nam.................................................................................................11
2.1.1. Hàng hóa của Việt Nam qua các giai đoạn................................................................................11
2.1.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.....................................................................12
2.1.3. Sự tăng trưởng của các loại hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.....................................................14
2.2. Phương hướng phát triển cho sản xuất hàng hóa nước ta..............................................................14

PHẦN KẾT LUẬN................................................................................15

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta là một nước nông
nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, ở một số
vùng núi còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiên. Lại trải qua nhiều năm chiến
tranh, nền kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng hoá
sản xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa
kinh tế hàng hoá ở nước ta lại có một thời gian dài hoạt động theo cơ chế của nền
kinh tế tập trung chỉ huy. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo điều



kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát
triển là một việc làm tối quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của hàng hóa
trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Đặc biệt,
trong giai đoạn kinh tế thế giới đang ngày càng trở thành một thị trường thông nhất
lôi cuốn tất cả các nước chuyển sang kinh tế thị trường và gia nhập vào thị trường
quốc tế. Do đó, hòa với sự phát triển của kinh tế thị trường trên thế giới thì kinh tế
thị trường ở Việt Nam cũng phát triển với tốc độ không kém cùng với sự phát triển
của nền sản xuất hàng hóa ngày càng phức tạp.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hoá, thị trường.
Nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng chủ nghĩa xã hội xét
về mặt kinh tế cũng phải xây dựng nền sản xuất lớn của xã hội chủ nghĩa. Mà xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không thể không phát triển nền kinh tế
hàng hoá.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta thể hiện quyết tâm phải chuyển
nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, sản xuất phải gắn liền với thị trường. Tuy nhiên, hiện nay hàng hóa
Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh… Vì
sao vậy? Để trả lời cho câu hỏi này, Nhóm 8 đã chọn đề tài: “Thông qua lý thuyết
về hàng hóa chỉ ra thực trạng hàng hóa của Việt Nam”.

CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ HÀNG HÓA
1.1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa.
1.1.1. Hàng hóa.
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán.
- Phân loại: Hàng hóa hữu hình – Hàng hóa vô hình ( dịch vụ )

Hàng hóa thông thường – Hàng hóa đặc biệt
Hàng hóa tư nhân - Hàng hóa công cộng


1.1.2. Hai thuộc tính của hàng hóa.
** Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau sản xuất hàng hóa có bản chất
khác nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì
đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
+ Giá trị sử dụng: là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người.
- Ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, vì vậy nó
có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau…
Ví dụ: gạo có thể dùng để nấu cơm nhưng cũng có thể dùng làm nguyên liệu
trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế,...
- Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải một lúc đã phát hiện ra được hết,
mà nó được phát hiện dần qua quá trình phát triển của khoa học-kĩ thuật. Con người
ở bất kì thời đại nào cũng đều cần đến các giá trị sử dụng khác nhau của vật phẩm
để thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình.
- Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh
viễn .
C.Mác chỉ rõ: “Trong sử dụng hay tiêu dùng, thì giá trị sử dụng mới được thể
hiện”.
- Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa.
Thí dụ: không khí rất cần cho cuộc sống con người, nhưng không phải là hàng hóa...
>> Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật
được sản xuất để bán, trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi…
trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
+ Giá trị: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.



- Muốn hiểu được giá trị hàng hóa thì phải đi từ giá trị trao đổi. Theo C.Mác: “Giá
trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là 1 mối quan hệ về số lượng, là 1 tỷ lệ theo
đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại
khác”.
Ví dụ: 1mét vải = 10kg thóc
- Sở dĩ hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, bởi
vì giữa chúng có một điểm chung, điểm chung đó không phải là vải, là thóc…,
chúng đều là các sản phẩm của lao động.
C.Mác viết: “Nét đặc trưng của quan hệ trao đổi hàng hóa chính lại là việc phải
tạm gạt giá trị sử dụng của hàng hóa sang một bên”
- Để sản xuất ra vải và thóc, người lao động phải hao phí lao động để sản xuất ra
chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa
chúng với nhau.
>> Đến đây ta nhận thức được, thuộc tính tự nhiên của hàng hóa là giá trị sử dụng,
thuộc tính xã hội của hàng hóa là giá trị. Bất kì một vật nào muốn trở thành hàng
hóa đều phải có đủ hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Nếu thiếu một trong hai
thuộc tính đó sản phẩm không phải hàng hóa.
** Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có một mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình
thức biểu hiện của giá trị bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người
sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hóa với nhau.
** Thực chất của quan hệ trao đổi là người trao đổi lượng lao động hao phí của
mình chứa đựng trong hàng hóa. Vì vậy, giá trị là biểu hiện giữa những người sản
xuất hàng hóa . Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa.
** Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là
sự thống nhất của hai mặt đối lập.



* Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm
ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có
chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua
hàng hóa lại chú ý đến giá trị sử dụng, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó
người mua phải trá giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị
thực hiện trước, giá trị sử dụng thực hiện sau.

1.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
1.2.1. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
** Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là các thuật ngữ trong kinh tế chính trị
Mac-Lenin dùng để chỉ về tính chất hai mặt của lao động sản xuất, đó là vừa mang
tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu
tượng). Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
+ Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, là do lao động của
người sản xuất ra hàng hóa có tính hai mặt. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính chất hai mặt đó. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đó là lao
động cụ thể và lao động trừu tượng:
Lao động cụ thể
Khái niệm

Lao động cụ thể là lao động
có ích dưới một hình thức cụ
thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Mỗi
lao động cụ thể có một mục
đích riêng, đối tượng riêng,
phương pháp riêng, phương
tiện riêng và kết quả riêng.

Lao động trừu tượng


Lao động trừu tượng là lao
động của người sản xuất
hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của
nó, hay nói cách khác, đó
chính là sự tiêu hao sức lao
động( tiêu hao sức bắp thịt,
thần kinh) của người sản
xuất hàng hóa nói chung.
Chẳng hạn, lao động của
Lao động của người thợ mộc
người thợ may và lao động
và lao động của người thợ
của người thợ mộc là hai loại
may, nếu xét về mặt cụ thể
lao động cụ thể khác nhau.
thì hoàn toàn khác nhau,
Lao động của người thợ may
nhưng nếu gạt tất cả sự khác
có mục đích là làm ra quần áo
nhau ấy sang một bên thì
chứ không phải bàn ghế; còn
chúng có một cái chung là
phương pháp là may chứ


không phải bào, cưa; công cụ đều phải hao phí sức óc, sức
lao động là kim, chỉ, máy
bắp thịt và sức thần kinh của

may chứ không phải là cái
con người.
cưa, cái bào...; và lao động
của người thợ may thì tạo ra
quần áo để mặc còn lao động
của người thợ mộc tạo ra bàn,
ghế để ngồi.

Đặc trưng

+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra
một loại giá trị sử dụng nhất
định:

- Tạo giá trị hàng hóa, làm
cơ sở cho sự ngang bằng
trong trao đổi

- Lao động cụ thể càng nhiều
loại càng tạo ra nhiều loại giá
trị sử dụng khác nhau. Các
lao động cụ thể hợp thành hệ
thống phân công lao động xã
hội.

- Lao động mang phạm trù
lịch sử.
- Là lao động đồng nhất và
giống nhau về chất.


- Lao động cụ thể phản ánh
trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội.
- Lao động cụ thể là một
phạm trù vĩnh viễn, hình thức
của lao động cụ thể có thể
thay đổi.

1.2.2. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn (mâu thuẫn giữa
chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động hàng hóa).
+ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa vừa là lao động cụ thể vừa là
lao động trừu tượng có quan hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao
động sản xuất hàng hóa.
+ Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, người sản xuất sản xuất cái gì, sản xuất
bao nhiêu là việc của mỗi người, không ai có quyền can thiệp vào. Họ là người sản
xuất độc lập. Lao động sản xuất là của họ, do đó có tính chất tư nhân và lao động
cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân của những người sản xuất ấy. Đồng
thời lao động của người sản xuất hàng hóa lại là lao động xã hội. Sự phân công lao


động tạo ra mối liên hệ gắn bó những người sản xuất hàng hóa với nhau. Người này
sản xuất ra để cho người khác dùng, và ngược lại họ cần sản phẩm của người khác.
Những người sản xuất hàng hóa làm việc cho nhau, thông qua việc trao đổi hàng
hóa nên phải quy lại các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Do đó lao
động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
+ Trong nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu, tính chất xã hội của người lao động,
của người sản xuất hàng hóa có thể được xã hội chấp nhận và cũng có thể không
được xã hội thừa nhận, không bán được hàng hóa thì có nghĩa là không được xã hội
thừa nhận.
>> Tóm lại, một mặt do cá phân công lao động xã hội nên có trao đổi và có lao

động xã hội; lao động xã hội biểu hiện thành lao động trừu tượng và lao động trừu
tượng tạo ra giá trị. Mặt khác, do có chế độ tư hữu nên có lao động tư nhân; lao
động tư nhân biểu hiện thành lao động cụ thể và lao động cụ thể ạo ra giá trị sử
dụng.
* Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn
với nhau. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa giản đơn.
Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi:
+ Sản xuất của người sản xuất hàng hóa nhỏ và nhu cầu của xã hội không ăn
khớp với nhau. Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho xã hội, sản xuất vượt quá khả
năng tiêu thụ của xã hội. Trong trường hợp vượt quá khả năng tiêu thụ của xã hội
thì sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức là không thực hiện được giá trị. Sở
dĩ có tình hình đó là do sản xuất dựa trên chế độ tư hữu làm cho người sản xuất
không biết được xã hội cần những gì và cần bao nhiêu.
+ Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa không phù hợp với
mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức, xã
hội không có khả năng thanh toán, tất nhiên hàng hóa sẽ không bán được.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sẳn
xuất “ thừa” và là mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hóa trong tiến
trình phát triển của lịch sử.

1.3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa.
1.3.1. Giá trị của hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng.
- Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa.


- Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó
quyết định.


1.3.2. Thước đo lượng giá trị của hàng hóa.
- Trong thực tế, một một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản
xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không
giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ là khác
nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà
từng người sản xuất ra.
- Câu hỏi đặt ra là liệu giá trị của hàng hóa càng cao khi lao động cá biệt càng lười
biếng vụng về, phải dùng nhều thời gian không?
- Theo C.Mac viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng
giá trị của giá trị sử dụng ấy”.
>> Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết.
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kĩ thuật trung
bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn
cảnh xã hội nhất định.
- Trong một xã hội mà ở đó có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian
lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội
cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung
cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.

1.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
Có hai nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là năng suất lao động
và cường độ lao động.

Khái niệm

Năng suất lao động
+ Năng suất lao động là năng

lực sản xuất của lao động, nó
được tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm.

Cường độ lao động
+ Cường độ lao động là đại
lượng chỉ mức độ hao phí sức
lao động trong một đơn vị thời
gian. Nó cho thấy mức độ khẩn
trương, nặng nhọc hay căng
thẳng của lao động.
+ Đơn vị: sản phẩm / thời gian


+ Phân loại: năng suất lao động
cá biệt và năng suất lao động xã
hội.
Năng suất lao động có ảnh
hưởng đến giá trị xã hội của
hàng hóa chính là năng suất lao
động xã hội.
+ Lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa tỷ lệ thuận với số
lượng lao động kết tinh.
+ Lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng
suất lao động xã hội.

Như vậy, muốn giảm giá trị của
mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì
ta phải tăng năng suất lao động
xã hội.

hoặc thời gian / sản phẩm

+ Khi cường độ lao động tăng
lên, số lượng hay khối lượng
Ảnh hưởng
hàng hóa sản xuất ra tăng lên;
đến lượng
hao phí sức lao động cũng tăng
giá trị hàng
lên tương ứng, nên tổng giá trị
hóa
của hàng hóa tăng lên, còn giá
trị một đơn vị hàng hóa không
đổi.
+ Tăng cường độ lao động thực
chất cũng như kéo dài thời gian
lao động.
+ Cường độ lao động phụ
thuộc vào: trình độ tổ chức
quản lý; quy mô và hiệu suất
của tư liệu sản xuất; thể chất,
tinh thần của người lao động.
Vấn đề đặt ra ở đây là: có phải lượng giá trị tạo ra của bất cứ ai làm việc gì, nghề gì
trong cùng một đơn vị thời gian lao động đều như nhau?
* Xem xét giữa hai trường hợp của một người thợ kĩ sư với một người rửa bát:

- Bất cứ người lao động bình thường nào, không trải qua đào tạo, không cần sự
phát triển hay sáng tạo đặc biệt đều có thể làm được công việc rửa bát là biểu hiện
cho lao động giản đơn.
- Còn đối với công việc của người thợ kĩ sư lại khác, để có thể làm được những sản
phẩm đòi hỏi sự hiểu biết, tay nghề và óc sáng tạo đặc biệt người thợ này nhất định
phải trải qua quá trình đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề,
đây là biểu hiện cho lao động phức tạp.
Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có quan hệ bình đẳng với các
hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao
động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.


Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo
ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Theo C.Mác viết: “lao động
phức tạp… chỉ là lao động giản đơn được nhân lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn,
là lao động giản đơn được nhân lên…”. Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng
thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

1.3.4. Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa.
* Xét đến công thức sau:
W=c+v+m
Trong đó: - w là giá trị của hàng hóa
- c là giá trị cũ tái hiện, là phương tiện tất yếu để tạo ra
hàng hóa có giá trị mới theo mong muốn.
- v là chi phí phải thanh toán trong quá trình tạo ra hàng
hóa có giá trị mới theo mong muốn.
- m là biểu hiện cho giá trị thặng dư (hay lợi nhuận) mà
người sản xuất thu về.
+ Trong quá trình sản xuất, để có thể sản xuất ra một lượng hàng hóa nhất định
phải cần đến chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư

liệu sản xuất như: máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động sống hao phí
trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới. Sau đó, hàng hóa mới
được tạo ra mang lượng giá trị nhất định bao gồm: giá trị cũ có trong sản phẩm (c),
giá trị mới có trong sản phẩm (k+m).
>> Theo đó, sự hình thành từng bộ phận giá trị được phản ánh như sau:
Lao động sản xuất hàng hóa : + Lao động cụ thể - giá trị cũ (c)
+ Lao động trừu tượng – giá trị mới (v+m)
Tất cả gộp thành tạo nên giá trị của hàng hóa
>> Qua đó khẳng định, cấu thành lượng giá trị của hàng hóa bao gồm hai bộ phận
là: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HÀNG HÓA
CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hàng hóa của Việt Nam.
2.1.1. Hàng hóa của Việt Nam qua các giai đoạn.
Hiện nay nước ta vẫn là một nước đang phát triển, nền kinh tế hàng hóa nước ta
chưa thực sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Thực tế nền kinh tế nước ta khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vẫn kém phát triển, còn mang nặng tính tự
cấp tự túc và chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do hệ thống
công cụ còn lạc hậu, lao động thủ công còn nhiều cho nên chất lượng sản phẩm
của hầu hết các doanh nghiệp còn thấp kém, khả năng của nó trên thị trường quốc
tế và ngay cả thị trường trong nước còn kém.
+ Giai đoạn trước 1986: Nền kinh tế Việt Nam theo mô hình kế hoạch hóa tập
chung, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động theo những chỉ tiêu được giao
và những mệnh lệnh từ cấp trên. Trong giai đoạn này không có sự phân biệt giữa
quản lý nhà nước và quản lý các đơn vị kinh tế. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh
rất ít quyền chủ động. Các nhà máy được cung cấp nguyên vật liệu, vật tư kĩ
thuật và bao tiêu sản phẩm. Việc phân phối, tiêu thụ hàng hóa do các đơn vị
thương nghiệp thực hiện, người tiêu dung tiếp nhận hàng hóa một cách thụ động

và không có quyền lựa chọn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng ta luôn ở
trong tình trạng khan hiếm hàng hóa. Hàng hóa sản xuất ra bất kể xấu tốt thế nào
đều tiêu thụ hết. Hàng hóa suất khẩu thường bị khiếu nại về chất lượng. Chủng
loại, cơ cấu hang hóa ngày càng nghèo nàn, không được đổi mới, cải tiến thấp
kém lạc hậu so với hàng hóa ngoại, tình trạng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kinh tế xã hội.
+ Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi
mới nền kinh tế thực hiện kinh tế mở nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp được trao quyền chủ động
trong các hoạt động, xóa bỏ giai cấp. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh
tranh để tồn tại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ trở thành vấn đề quyết định. Do
đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh không ngừng đưa ra thị trường nhiều loại
hàng hóa với mẫu mã khác nhau, chất lượng ngày càng nâng cao. Vì vậy, khả
năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường sẽ tốt hơn và người tiêu dùng có
nhiều lựa chọn hơn khi mua hàng.


Một số ví dụ so sánh tình hình phát triển hàng hóa thời kì trước và sau đổi
mới:
+ Trước đổi mới.
- Giáo dục: Trước thời kì đổi mới, giáo dục không phải là hàng hóa. Người ta
thường dị ứng khi nghe các loại hình dịch vụ về giáo dục. Nhìn chung, khi đó chỉ
có khối hệ thống trường học của các trường công lập.
- Đất đai: Tư liệu sản xuất đều là của công (ruộng đất, ao hồ, các công trình
thủy lợi...). Đất đai được Nhà nước khoán cho người dân canh tác với từng loại
cây trồng cụ thể dẫn đến năng suất cũng như phẩm chất đều kém. Nguyên nhân là
do Nhà nước chưa nghiên cứu rõ về vấn đề tự giác của con người, đặc biệt là ở
đây người dân nhận công theo giờ chứ không phải sản phẩm làm ra. Điều này đã
nảy sinh ra vấn đề người chăm chỉ và người lười biếng đều có chung giờ làm
nhưng giá trị nhận được lại là ngang nhau. Gây ra tình trạng mất công bằng với

sức lực bỏ ra của từng người.
- Chứng khoán: chưa xuất hiện.
+ Sau đổi mới.
- Giáo dục: Bên cạnh các trường công lập, hiện nay hệ thống các trường dân lập
cũng phát triển không kém về chất lượng giảng dạy, số lượng học sinh. Đã có rất
nhiều dịch vụ giáo dục được mở ra…
- Đất đai: Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nước ta hiện nay thì các
tư liệu sản xuất đó cũng được trao đổi mua bán như một loại hàng hóa. Trước
những tác động của cơ chế thị trường trong việc điều chỉnh phân bố lại tài
nguyên đất đai nông nghiệp.
- Chứng khoán: Tuy còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với hàng
hóa còn nghèo nàn mặc dù chưa phát triển thành phong vũ nhưng nó dự báo một
tương lai rộng mở cho thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nước ta
nói chung.

2.1.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng
sản xuất chưa phát triển lại bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nền sản xuất
hàng hóa của ta không giống với nền sản xuất hàng hóa của các nước khác trên thế
giới với những đặc trưng tiêu biểu.
- Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh
tế hàng hóa kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng
hóa phát triển từ thấp đến cao. Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điểm
của nền kinh tế nước ta: kết cấu hạ tầng, vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật
chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như
không có, đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu
nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân thấp kém khiến dung


lượng hàng hóa trên thị trường có sự thay đổi chậm chạp, khả năng cạnh tranh của

hàng hóa trên thị trường thấp. Từ sự thật không mấy sáng sủa này, buộc ta phải có
chiến lược phát triển để vượt qua thực trạng của nền kinh tế, đưa nền kinh tế hàng
hóa phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế hàng hóa nước ta.
- Thứ hai: Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hóa kém phát triển do nhiều nhân tố, xong
nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nôn
nóng xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xóa bỏ điều kiện tồn tại và
phát triển kinh tế hàng hóa, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của
nền kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều
mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo
hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng
hóa, thu hút một số lượng lớn lao động.
- Thứ ba: Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế mở với nước ta và các nước
trên thế giới. Trước kia với cơ cấu kinh tế khép kín với tình trạng “bế quan tỏa
cảng” luẩn quẩn sau lũy tre làng nên kinh tế nước ta đã lâm vào bế tắc, kém phát
triển có thể nói là lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy, sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa
tư bản chủ nghĩa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị
trường thế giới. Do sự phát triển, phân bố không đồng đều về tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công và hợp tác
lao động quốc tế, đời sống mang tính quốc tế hóa... dẫn đến nhu cầu khách quan là
mở cửa nền kinh tế hàng hóa để đạt được hiệu quả cao và phát triển với tốc độ
nhanh nền kinh tế.
- Thứ tư: Phát triển cơ cấu hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lí kinh tế vi mô của nhà nước. Trong các
thành phần kinh tế, nhà nước giữ vai trò chủ đạo do bản chất vốn có và lại nắm giữ
các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu nên đảm bảo cho các thành phần kinh tế
khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vai trò của nó chỉ
được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp được các thành phần
kinh tế, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lí theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu

quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế. Nền kinh tế hàng hóa bên cạnh mặt tích cực làm thay đổi bộ
mặt của nhà nước không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội... Nhà
nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng
hóa, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường.
>> Nhận xét: Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở trên có quan hệ mật thiết
với nhau, phản ánh kết quả sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại


của quá trình hình thành và phát triển hàng hóa ở nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế hàng hóa bắt
nguồn từ vai trò định hướng của kinh tế nhà nước và vai trò quản lý của nhà nước ở
nước ta. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân quyết định.

2.1.3. Sự tăng trưởng của các loại hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Dựa vào đặc điểm của từng loại hàng hóa và mục đích sử dụng, chúng ta có thể
chia hàng hóa hiện nay ra làm ba loại: hàng công nghiệp, hàng nông–lâm thủy sản
và hàng dịch vụ.
+ Hàng nông sản: Nước ta là một nước nông nghiệp, diện tích đất đai nông
nghiệp dùng để canh tác là rất lớn... Sản phẩm nông nghiệp lại được chia thành hai
nhóm chính là sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi.
+ Hàng thủy sản: Đất nước ta luôn tự hào với đường bờ biển dài với nhiều ngư
trương đánh cá quan trọng cung cấp một lượng lớn thủy hải sản phục vụ cho nhu
cầu xuất khẩu. Trong những năm gần đây, sản lượng thủy sản khai thác và nuôi
trồng cũng có xu hướng tăng nhất định. Tuy nhiên, sản lượng nuôi trồng có xu
hướng tăng mạnh hơn do ngư dân đã tập chung hơn vào việc nuôi trồng để tránh
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên biển.
+ Hàng lâm sản: So với hai ngành còn lại, lâm sản cũng có những bước phát triển
nhất định với chất lượng ngày càng nâng cao hơn.
+ Hàng hóa công nghiệp: Trong bốn tháng đầu năm, một số sản phẩm công

nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kì năm trước: mặt hàng điện thoại
di động, ô tô, tivi, giày dép da, thức ăn cho thủy sản, sơn hóa học, thép cán ,thức ăn
cho gia súc, điện sản xuất…

2.2. Phương hướng phát triển cho sản xuất hàng hóa nước ta
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội đã
được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội được xây dựng ngày
càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, hệ thống pháp luật và bộ máy nhà
nước được củng cố và trong sạch hoá, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh
giỏi thích nghi với cơ chế thị trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng
đã xác định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với các điều kiện tiền đề hiện có:
Trước hết phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa dạng: sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp …
Hai là cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm khâu mặt hàng
trọng yếu chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt đủ sức đứng
vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.


Ba là sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước để phát
huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngoài nước với nhà nước về các mặt
vốn, công nghệ và tài năng quản lý.
Bốn là đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo hướng chuyên
môn hoá kết hợp đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành
sản xuất phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
Năm là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá coi trọng việc ứng
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ của loài người. Dẫn đến đẩy mạnh kinh
tế hàng hoá phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và làm tăng khả năng cạnh
tranh hàng hoá của nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế.
Sáu là xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng phải lấy thị trường

trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh dựa trên
cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi vì người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế
yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất cái mà thị trường
cần chứ không phải cái mà mình có.
Bảy là thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển của kinh tế hàng
hoá. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hoá về hình thức, đa phương hoá về
nguồn và hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và
không phân biệt chế độ chính trị.

PHẦN KẾT LUẬN
Thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là một quá
trình vừa có tính cấp bách lại vừa có tính chiến lược lâu dài. Trong từng bước đi


của quá trình vừa có những khó khăn do sự xuất phát thấp của nền kinh tế nhưng
lại có những thuận lợi nhất định cần được khai thác: đó là nguồn lao động dồi dào,
môi trường và con người việt nam năng động, có khả năng tiếp cận cơ chế thị
trường nhanh, ta lại nằm trong khu vực Châu á - Thái bình dương; vùng trung tâm
của nền văn minh loài người đang được di chuyển đến, vùng kinh tế năng động
nhất hiện nay.
Chính vì thế ngay từ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế ta đã xác định
ngay việc đổi mới phải theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền sản xuất hàng
hoá.Trong mấy thập niên gần đây sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác
động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới, cho nên nền kinh
tế hàng hoá đang có su hướng chuyển sang kinh tế thị trường. Tốc độ phát triển cao
của sản xuất hàng hoá tạo sự hấp dẫn mạnh đối với các nhà hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội hiện nay ở các nước XHCN.




×