Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Luận văn thạc sỹ: Hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.45 KB, 117 trang )

TrƯờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
------------

Nguyễn thái nam

Hoàn thiện giám sát của hội đồng nhân dân
huyện ea kar, tỉnh đắk lắk
Chuyên ngành: QUảN Lý KINH Tế Và CHíNH SáCH

Ngời hớng dẫn khoa học:

pgs.ts. phan kim chiến

Hà nội 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk”. Là công trình nghiên cứu của bản thân tôi và chưa được công bố
trên bất kỳ phương tiện thông tin nào. Mọi sự giúp đỡ để hoàn thành đề tài nghiên
cứu này đã được cảm ơn đầy đủ, các thông tin trích dẫn trong nghiên cứu này đều
đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Nam


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học lớp cao học chuyên ngành Quản lý kinh tế và chính sách
tại Trường Đại học Tây Nguyên do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân liên kết
giảng dạy, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Khoa Khoa học quản


lý, Viện Đào tạo sau đại học của Trường Đại học Kinh tế Quốc và phòng Đào tạo
sau đại học của Trường Đại học Tây Nguyên cùng quý thầy, cô giáo, đồng nghiệp,
bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện về thời gian, kinh phí, hướng dẫn nội dung và
cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết. Mà đặc biệt là sự quan tâm của Thầy
PGS.TS Phan Kim Chiến đã tận tình hướng dẫn để giúp cho tôi hoàn thành được
Luận văn Thạc sĩ kinh tế này.
Cho phép tôi được gửi đến quý Trường, Khoa, Viện, quý Cơ quan, quý Thầy Cô, các đồng nghiệp, bạn bè cùng gia đình lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Nam


MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN

: Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam

TAND


: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

BPC

: Ban Pháp chế

BKTXH

: Ban Kinh tế - Xã hội


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1:

Tổng hợp số lượng đại biểu..............Error: Reference source not found

Bảng 2.2:

Về trình độ đại biểu..........................Error: Reference source not found

Bảng 2.3.

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm của HĐND huyện Ea Kar năm 2014
...........................................................Error: Reference source not found


Bảng 2.5:

Số liệu công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại.............Error:
Reference source not found

Bảng 2.6:

Tổng hợp các cuộc giám sát chuyên đề của Ban Pháp chế và Ban Kinh
tế - Xã hội giai đoạn 2011 - 2014.....Error: Reference source not found

SƠ ĐỒ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................1


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước (BMNN) là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích đặt ra là làm cho
các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định Hiến pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để
đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
HĐND có hai chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám
sát. Trong hai chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng bảo đảm

HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực
hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức
năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng:
"Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các ủy ban
của Quốc hội và của HĐND các cấp; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND với hoạt
động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát...". Trước yêu cầu đó, Luật tổ chức HĐND và Uỷ
ban nhân dân (UBND) được Quốc hội ban hành năm 2003 đã bổ sung thêm một
chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của
HĐND. Điều đó thể hiện yêu cầu bức xúc phải nâng cao vai trò của chính quyền địa
phương trong quản lý nhà nước.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến
rõ rệt. Hàng năm đã xây dựng chương trình kế hoạch giám sát; tổ chức các đoàn


2
giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có những hình thức phối hợp với các
cấp, các ngành... Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu góp phần khắc
phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát
nói riêng.
Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn chế.
Chẳng hạn như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thật sự
khoa học; một số vụ việc tiêu cực của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương
chưa được phát hiện kịp thời; các kết luận sau khi giám sát thường chung chung,
thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám
sát đâu lại vào đấy; kỹ năng giám sát của các đại biểu HĐND còn nhiều bất cập...
Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn thấp. Để khắc
phục tình trạng trên, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải nâng cao hiệu quả

giám sát của HĐND. Như văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "Cần xây
dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát... nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát
của Hội đồng nhân dân...".
Trong các HĐND thì HĐND cấp huyện có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật ở
cấp này, hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, là cầu nối giữa HĐND cấp tỉnh
và HĐND cấp xã. Do đó, nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu hoạt động giám sát của HĐND cấp khác. Vì
không đủ điều kiện thời gian tìm hiểu hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện
trên phạm vi cả tỉnh, nên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả lựa chọn
nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND ở một địa phương cụ thể. Việc nghiên
cứu đó vừa góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của HĐND ở đây,
vừa có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cho việc tăng cường hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND nói chung. Hoạt động giám sát của HĐND trải rộng trên tất cả
các lĩnh vực và liên quan đến hầu hết các cơ quan Nhà nước của chính quyền địa


3
phương, tuy nhiên trên thực tế các hoạt động giám sát của HĐND chủ yêu được
thực hiện đối với các hoạt động của UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân. Vì vậy tác giả sẽ tập trung phân tích sâu về hoạt động giám sát đối với các cơ
quan trên, nhằm làm rõ một số nội dung cụ thể trên thực tế.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc nêu trên, tác giả chọn đề tài "Hoàn thiện
giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk" để nghiên cứu là
cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiển.
2. Tổng quan nghiên cứu
Giám sát và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử
ở nước ta được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học

nhưng chủ yếu mới quan tâm đến chức năng giám sát của Quốc hội, còn về HĐND
các công trình nghiên cứu đang dừng lại ở mức độ rất hạn chế như:
- Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà
nước hiện nay, PGS,TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 12/2003
- Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng giám sát cơ bản, TS
Phạm Ngọc Kỳ, (2001), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định, Đề tài
đó được bảo vệ thành công tháng 02/2009;
- Đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá, Đề tài
đó được bảo vệ thành công tháng 3/2006;
- Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Vũ Mạnh Thông, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh,1998;
- Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương đối với
quản lý hành chính nhà nước về đất đai, Luận văn thạc sỹ Luật học, Phạm Quang
Hưng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007;
Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập một số khía cạnh của hoạt động
giám sát của HĐND. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu về HĐND cấp
huyện nói chung và HĐND huyện Ea Kar nói riêng. Tiếp thu những kết quả trên,


4
luận văn nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn đề hoàn thiện giám sát của
HĐND huyện Ea Kar theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận văn.
- Xây dựng được khung nghiên cứu về giám sát của HĐND huyện Ea Kar.
- Đánh giá được thực trạng giám sát của HĐND huyện Ea Kar, chỉ ra ưu điểm,
khuyết điểm và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiên giám sát của HĐND huyện Ea Kar.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: Giám sát của HĐND huyện Ea Kar.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nghiên cứu hệ thống giám sát của HĐND huyện Ea Kar bao
gồm bộ máy giám sát, hình thức giám sát, công cụ giám sát và quy trình giám sát.
+ Về không gian: HĐND huyện Ea Kar.
+ Về thời gian: Dữ liệu thu thập giai đoạn từ 2011 đến năm 2014 và đề xuất
giải pháp trong thời gian đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Khung lý thuyết
Các nhân tố ảnh
hưởng đến giám sát
của HĐND cấp
huyện:
- Các nhân tố thuộc
môi trường của
HĐND cấp huyện.
- Các nhân tố thuộc
môi trường bên ngoài
của HĐND cấp
huyện

Giám sát của
HĐND cấp huyện:
- Bộ máy giám sát
của HĐND cấp
huyện.
- Hình thức giám sát
của HĐND cấp
huyện.
- Quy trình giám sát

của HĐND cấp
huyện.

Mục tiêu giám sát của
HĐND cấp huyện:
Chức
năng giám
sát của
HĐND
cấp huyện

- HĐND thực hiện quyền giám
sát đối với hoạt động của
thường trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND cùng cấp.
- Giám sát việc nghị quyết của
HĐND được thực hiện ra sao.
- Giám sát việc tuân theo pháp
luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và
của công dân ở địa phương


5
5.2. Quy trình nghiên cứu.
Bước 1: Thu thập tài liệu và nghiên cứu lý thuyết về chức năng giám sát của
HĐND cấp huyện, để xây dựng khung nghiên cứu về giám sát của HĐND cấp
huyện. Phương pháp nghiên cứu để sử dụng trong bước này là phương pháp phân
tích hệ thống, phương pháp tổng hợp và mô hình hóa.

Bước 2: Thu thập thông tin, dữ liệu thứ cấp từ: Các chủ trương, nghị quyết,
chương trình, kế hoạch của Quốc hội, của HĐND tỉnh và HĐND huyện; các báo
cáo giám sát chuyên đề, báo cáo giám sát thường xuyên, báo cáo khảo sát của
HĐND tỉnh và HĐND huyện; các thông tin từ báo điện tử Đại biểu nhân dân và các
tài liệu khác... để phân tích thực trạng giám sát của HĐND huyện Ea Kar trong giai
đoạn 2011 – 2014. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp tổng hợp, quy nạp,
phân tích.
Bước 3: Phân tích các ưu điểm và hạn chế trong giám sát của HĐND huyện
Ea Kar giai đoạn 2011 – 2014, từ đó xác nhận nguyên nhân dẫn đến các hạn chế.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp tổng hợp, quy nạp, phân tích.
Bước 4: Từ các điểm yếu, hạn chế trong giám sát của HĐND huyện Ea Kar,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện giám sát của HĐND huyện Ea Kar. Đồng thời, đề
xuất, kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan nhằm hoàn thiện giám sát của
HĐND cấp huyện.
6. Đóng góp của luận văn.
Với việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giám sát của HĐND
huyện Ea Kar, Luận văn sẽ có những đóng góp mới như sau:
- Luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn về vị trí, chức
năng của Hội đồng nhân dân; khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu của hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân huyện Ea
Kar, trong giai đoạn 2011 - 2014.
- Luận văn đưa ra các quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân huyện Ea Kar.


6
- Đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân huyện Ea Kar.
7. Bố cục của luận văn.

Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện.
Chương 2: Phân tích thực trạng giám sát của hội đồng nhân dân huyện Ea Kar,
tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2011-2014.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện giám sát của hội đồng nhân dân huyện Ea Kar.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Tổng quan về Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.1.1. Vai trò của HĐND cấp huyện trong bộ máy quản lý Nhà nước
Địa vị chính trị - pháp lý của HĐND nói chung và HĐND cấp huyện được xác
định trước hết trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013, Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND có hai tư cách:
Thứ nhất, là cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương, HĐND là một bộ
phận cấu thành thiết chế đại diện của quyền lực Nhà nước, tính đại diện đó thể hiện:
- Về cách thức thành lập, HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương
do cử tri địa phương bầu ra, theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Thông qua bầu cử, cử tri trong đơn vị hành chính đó chuyển giao một
phần quyền lực cảu mình cho HĐND. HĐND thay mặt nhân dân địa phương quyết
định các công việc có liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
- Về cơ cấu, đại biểu HĐND là yếu tố cấu thành cơ bản và quan trọng nhất của
HĐND. Đại biểu HĐND là những người đại biểu của các tầng lớp nhân dân sinh
sống trên địa bàn lãnh thổ, đại diện cho trí tuệ của nhân dân địa phương tại đơn vị
hành chính – lãnh thổ và là hình ảnh thể hiện khối đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND có

nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định cảu Chủ tịch nước và văn
bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, có quyền quyết định các chủ trương và biện
pháp triển khai thực thi pháp luật cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Việc
chấp hành này của HĐND được thể chế hóa thành các nghị quyết của HĐND. Điều
này được thê hiện ở chỗ trên cơ sở quy định của Luật, Pháp lệnh, văn bản của cơ


8
quan Nhà nước cấp trên, HĐND phải thể chế thành các biện pháp bảo đảm việc
thực hiện pháp luật của địa phương. Trong một số trường hợp HĐND phải cụ thể
hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật, nếu trong Luật, pháp lệnh và các văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên thể hiện sự phân cấp, yêu cầu
sự cụ thể hóa này. Trên phương diện này, HĐND cùng với UBND tham gia vào
việc thực hiện quyền hành pháp, thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước ở địa
phương bằng hoạt động ra các Nghị quyết. Cần lưu ý, Quốc hội và HĐND có những
điểm giống nhau về tính chất đại diện và tính chất Nhà nước, nhưng ở quy mô khác
nhau song HĐND không phải là đồng dạng phối cảnh (hình ảnh thu nhỏ) của Quốc
hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, là cơ quan đại diện cao nhất
của nhân dân cả nước, do cử tri cả nước bầu, trực tiếp nhận quyền lực từ nhân dân
qua cơ chế ủy quyền, thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề
trọng đại của đất nước và chức năng giám sát tối cao. Còn HĐND ra các quyết định
chỉ có ý nghĩa ở đại phương, do đó HĐND không phải là “cơ quan lập pháp địa
phương”. HĐND không có thẩm quyền quyết định mọi vấn đề trong đời sống địa
phương mà bị giới hạn bởi Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên, bị kiểm tra bởi cơ quan hành chính cấp trên. Điều đó có nghĩa là
quyền lực của nhân dân một địa phương nào đó ủy quyền cho HĐND chỉ là một bộ
phận của quyền lực nhân dân cả nước, nằm dưới quyền nhân dân cả nước. DO vậy,
HĐND phải chấp hành các quyết định của cấp trên là bắt nguồn từ vấn đề quyền lực
rất cản bản này. HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương và là cơ quan

đại diện của nhân dân địa phương hoạt động của HĐND thực chất là hoạt động chấp
hành bằng việc ra các nghị quyết. HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương nhưng không toàn quyền, không nắm tất cả các quyền, không quyết định
mọi vấn đề ở địa phương, mà điều quan trọng là HĐND phải thực quyền. HĐND
muốn thực quyền thì đại biểu HĐND phải có bản lĩnh chính trị, năng lực thực hiện
nhiệm vụ của người đại biểu HĐND. Từ những phân tích trên có thể kết luận.
- HĐND là thiết chế tiếp nhận quyền lực từ nhân dân địa phương, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương về mọi mặt đời sống trên cộng đồng lãnh thổ.


9
Những quyền lực nhân dân trong một cộng đồng lại lệ thuộc, nằm dưới quyền lực
nhân dân cả nước.
- HĐND là nơi thể hiện, thực hiện dân chủ đại diện. Trong hoạt động của
mình, HĐND phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nói lên tiếng
nói, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân địa phương.
- Hoạt động của HĐND cấp huyện chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động
của HĐND cấp tỉnh, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
hoạt động của HĐND cấp xã chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của HĐND
cấp huyện, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong
việc thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên theo quy định của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Hiệu quả hoạt động của HĐND được bảo đảm bằng hiệu
quả của các kỳ họp HĐND, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND, các tổ đại biểu HĐND, cá nhân các đại biểu HĐND.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của HĐND huyện
Chức năng, nhiệm vụ của HĐND được hiểu là những phương diện, mặt hoạt
động cơ bản của HĐND, phản ánh địa vị pháp lý của HĐND, được quyết định bởi
vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Giữa chức năng và nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND có quan hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND quyết định chức năng của HĐND, các nhiệm vụ, quyền hạn được thực hiện

thông qua các chức năng của HĐND. HĐND có chức năng ra các quyết định dưới
hình thức nghị quyết và chức năng giám sát. Nói cách khác, việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được thể hiện thông quá việc ban hành các nghị
quyết và việc thực hiện hoạt động giám sát.
1.1.2.1. Chức năng của HĐND huyện
HĐND huyện có hai chức năng chính là chức năng ban hành các nghị quyết và
chức năng giám sát
- Về chức năng ban hành các nghị quyết
Điều 1 – Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “HĐND quyết
định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa


10
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng,
an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước”.
Như vậy, HĐND các cấp nói chung ban hành các nghị quyết nhằm quản lý các
mặt đời sống ở địa phương theo sự phân cấp cho chính quyền địa phương, thi hành
Hiến pháp, pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành
chính. Nội dung, phạm vi nghị quyết của HĐND mỗi cấp phụ thuộc vào nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND cấp đó do Luật Tổ chức HĐND và UBND và các văn bản
quy phạm pháp luật khác có quy định về phân cấp cho HĐND các cấp quyết định.
Do đó nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND quyết định nội dung các nghị quyết
của HĐND. Trên cơ sở phân tích các nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND có thể nhận
thấy HĐND huyện có các loại nghị quyết sau:
- Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội;
- Nghị quyết về đất đai;
- Nghị quyết về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, thông tin, thể dục thể thao;
- Nghị quyết về khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường;
- Nghị quyết về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Nghị quyết về các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo;
- Nghị quyết về các biện pháp để thi hành pháp luật;
- Nghị quyết về xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND từng cấp, đồng thời có những quy định về nhiệm vụ quyền hạn của HĐND
và UBND ở đô thị (quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; phường, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh).
Khi ban hành các nghị quyết, HĐND phải lưu ý đến các yêu cầu hợp pháp và
hợp lý:
- Các nghị quyết của HĐND là những văn bản dưới luật, chứa đựng nội dung
các chính sách, nhiệm vụ của quản lý Nhà nước ở địa phương hoặc là những văn
bản quy phạm pháp luật, do đó nội dung các nghị quyết của HĐND phải phù hợp,


11
không được mâu thuẫn trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên.
- Nội dung các nghị quyết của HĐND rất đa dạng phong phú liên quan đến
nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, đời sống nhân dân ở địa phương, vì vậy, chúng phải
phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Khi ban hành
các nghị quyết, cần coi trọng tính khả thi của các nghị quyết, xuất phát từ những
điều kiện hiện thực của địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
Về hình thức, nghị quyết của HĐND phải đảm bảo đúng thể thức, được trình
bày rõ ràng, mạch lạc, đúng văn phạm tiếng Việt, lhoong sử dụng những từ đa
nghĩa, khi cần thiết phải giải thích những thuật ngữ cần thiết trong Nghị quyết.
- Về chức năng giám sát
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực
hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở

địa phương (Điều 1 – Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003) Giám sát là chức
năng quan trọng của HĐND, Trong đó Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
đã dành một chương (Chương III) quy định về hoạt động giám sát của HĐND,
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND. Để thực hiện chức
năng giám sát thì bản thân HĐND và các Ban của HĐND phải có năng lực, khả
năng giám sát, có hình thức, phương pháp giám sát một cách hợp lý, khoa học.
Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND nhân danh Nhà nước để
giám sát việc chấp hành Hiến pháp, Luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên
và nghị quyết của HĐND đối với mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức trực thuộc cấp
trên đóng trên địa phương và đối với mọi cơ quan Nhà nước ở địa phương, Hoạt
động giám sát của HĐND bắt nguồn từ tính quyền lực Nhà nước và tính đại diện
của HĐND. Hoạt động giám sát của HĐND khác với hoạt động giám sát của các tổ
chức xã hội cùng cấp ở tính chất quyền lực Nhà nước và tính chất đại diện trong


12
hoạt động giám sát của HĐND và những hệ quả pháp lý do hoạt động giám sát có
thể dẫn đến. Hoạt động giám sát của các tổ chức xã hội chỉ mang tính tác động về
mặt xã hội để gây dư luận, áp lực về mặt xã hội đối với các đối tượng chịu sự giám
sát mà không mang tính Nhà nước. Theo Điều 57 Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003, giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp; giám sát
của Thường trực HĐND; giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu
HĐND. Chất lượng hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tùy thuộc vào chất
lượng hiệu quả các hoạt động giám sát này.
1.1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND cấp huyện
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này, Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).

+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao (Điều 12).
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường
(Điều 13).
+ Quyết định về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều 15).
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
+ Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17).
Như vậy, nội dung nhiệm vụ, quyền hạn quyết định của HĐND cấp huyện
rất rộng, bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học,
quốc phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là
những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương
khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ với cử tri và cấp
trên giao cho.


13
Ở đây chúng ta cần lưu ý, theo quy định của pháp luật trong chức năng quyết
định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của địa phương. Vì
vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và tính khả thi trên thực
tế, tránh tình trạng mọi vấn đề được quyết định trước, đến kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ
giơ tay biểu quyết, không có sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết
dân chủ là điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các quyết định của Hội đồng.
1.2. Giám sát của HĐND cấp huyện
1.2.1. Khái niệm giám sát của HĐND cấp huyện
Để nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò, nội dung và hình thức thực hiện chức
năng giám sát của HĐND nói chung, chức năng giám sát của HĐND cấp huyện nói
riêng, trước hết cần làm rõ khái niệm “chức năng giám sát của HĐND”.

Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “Giám sát” được hiểu theo nhiều cách,
từ nhiều góc độ khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng, giám sát là: sự theo dõi, xem xét, làm đúng hoặc sai
những điều đã quy định [41, tr.305].
- Quan niệm khác coi giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện
đúng những điều quy định không; là chức quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại
công việc nhất định [48, tr.389].
- Có ý kiến chỉ coi giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi một
việc nào đấy [40, tr.230].
Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, ý kiến khác lại quan niệm: giám sát là sự
theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng
tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu
sự giám sát đi đúng quỹ đạo quy chế nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả xác
định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh [43, tr.174].
- Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm "giám sát" được giải thích:
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi


14
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội [30, tr.8].
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là việc
theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực hiện đúng
hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh
hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục đích hiệu quả xác định
từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ.
Tóm lại, thuật ngữ "giám sát" nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp dụng

của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát bao giờ cũng
gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của Quốc hội, giám sát của
HĐND, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những quy
định của Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp
luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện được hiểu như sau: Giám sát của
HĐND cấp huyện là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các ban
của HĐND và các đại biểu HĐND huyện nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên cũng như nghị quyết của
HĐND cấp huyện; từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục
những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn
hoá- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 tuy không có điều khoản nào giải
thích "giám sát của HĐND", nhưng liên quan đến chức năng giám sát của HĐND,
Luật có riêng một chương (Chương III từ Điều 57 đến Điều 81) để quy định về hoạt
động giám sát của HĐND.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND là một bộ phận cấu thành của cơ chế
giám sát, kiểm tra nhà nước. Điểm đặc biệt HĐND vừa là chủ thể thực hiện hoạt


15
động giám sát nhưng đồng thời cũng là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
1.2.2. Mục tiêu giám sát của HĐND cấp huyện
Hoạt động giám sát của HĐND nhằm đạt được những mục tiêu sau:
- Phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát,
qua đó đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời.
- Kịp thời biểu dương cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt những nhiệm vụ

được giao.
- Bảo đảm Nghị quyết của HĐND huyện được thực hiện tốt trên phạm vi địa
phương. Qua việc tiến hành giám sát, các kết luận, kiến nghị của Thường trực
HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND huyện được UBND, các ban, ngành chức
năng của huyện tiếp thu, chỉ đạo thực hiện theo đó vướng mắc, khó khăn trong quá
trình thực hiện Nghị quyết của HĐND sẽ được khắc phục kịp thời.
- Bảo đảm pháp luật của Nhà nước được thực hiện thống nhất trong cả nươc.
- Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ xã hội. Bởi lẽ giám
sát góp phần làm cho chính quyền các cấp vững mạnh. Phát huy tiềm lực ở địa
phương. Phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng trong quản lý kinh tế, xã hội ở địa phương. Qua đó tạo điều kiện cho
địa phương phát triển về mọi mặt. Thể hiện tính dân chủ trong cơ chế xây dựng
chính quyền Nhà nước, làm cho chính quyền ngày càng vững mạnh.
1.2.3. Nội dung giám sát của HĐND cấp huyện
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp huyện thực hiện tốt chức năng giám sát,
trước hết phải xác định rõ nội dung giám sát của cơ quan này. Theo các quy định
của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND cấp huyện thực hiện quyền
giám sát đối với :
1.2.3.1. Về lĩnh vực kinh tế (Điều 11)
- Giám sát về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm
trên địa bàn huyện;
- Giám sát về kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp về xây dựng và
phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa phương;
- Giám sát về kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình


16
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và biện pháp phát huy mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, nhằm mục đích bảo đảm quyền
tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật;

- Giám sát kết quả thực hiện việc thu và chi ngân sách của huyện đối với chỉ
tiêu được giao trong Nghị quyết về việc phê duyệt phân bổ dự toán ngân sách Nhà
nước, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư phát triển và một số biện pháp, cơ chế điều hành
ngân sách của HĐND huyện ban hành từ đầu năm;
- Giám sát về quy trình và kết quả thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch phát
triển mạng lưới giao thông, thuỷ lợi và biện pháp bảo vệ đê điều, công trình thuỷ
lợi, bảo vệ rừng theo quy định của pháp luật trên địa bàn huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại địa phương.
1.2.3.2. Về lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao
(Điều 12)
- Về giáo dục : Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương và biện pháp
phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo tại địa phương;
+ Giám sát tiến độ thực hiện việc quy hoạch và kế hoạch phát triển mạng lưới
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn huyện;
+ Giám sát việc bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động giáo
dục, đào tạo ở địa phương của các cơ quan Nhà nước.
- Về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao: Giám sát kết quả việc thực hiện các
chủ trương và biện pháp phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
trên địa bàn huyện;
+ Giám sát kết quả việc thực hiện các biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản
văn hóa ở địa phương;
+ Giám sát kết quả việc thực hiện các biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất và
điều kiện cho các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao ở địa phương theo
quy định của pháp luật;
- Về xã hội: Giám sát kết quả việc thực hiện các chủ trương, biện pháp phát
triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện


17

làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động tại địa phương;
+ Giám sát việc thực hiện phân bổ dân cư và cải thiện đời sống nhân dân ở địa phương;
+ Giám sát kết quả việc thực hiện các biện pháp giáo dục, bảo vệ, chăm sóc
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa;
giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc trên
địa bàn huyện;
+ Giám sát việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc truyền bá văn hóa
phẩm phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục và phòng, chống các tệ nạ xã hội,
các biểu hiện không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương;
+ Giám sát việc thực hiện các biện pháp thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi
đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công
với nước;
+ Giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và xóa
đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện.
- Về Y tế: Giám sát kết quả việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
mạng lưới khám, chữa bệnh trên địa bàn huyện;
+ Giám sát kết quả việc thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe nhân dân,
bảo vệ và chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo
vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
phòng, chống dịch bệnh và phát triển y tế địa phương;
1.2.3.3. Về lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường (Điều 13)
- Về khoa học, công nghệ: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật để phát triển sản
xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương;
+ Giám sát kết quả các biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu
chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm trên địa bàn huyện;
+ Giám sát kết quả việc ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng
kém chất lượng tại địa phương, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
- Về tài nguyên và môi trường: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp quản
lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất tại



18
địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường;
phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt ở địa phương;
1.2.3.4. Về thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14)
- Về nghĩa vụ quốc phòng: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp thực hiện
nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng toàn dân nhằm bảo
đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực
hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối
với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương;
+ Giám sát kết quả triển khai các biện pháp kết hợp quốc phòng, an ninh với
kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện;
- Về trật tự an toàn xã hội: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực hiện
nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện;
+ Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp đấu tranh phòng ngừa, chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương.
1.2.3.5. Về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều 15)
- Về chính sách dân tộc: Giám sát kết quả triển khai các biện pháp thực hiện chính
sách dân tộc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các
dân tộc thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn
kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương;
+ Giám sát kết quả thực hiện các nhiệm vụ thực hiện chính sách, chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa và vùng còn nhiều khó khăn trên địa bàn huyện;
- Về chính sách tôn giáo: Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp thực hiện
chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; biện pháp
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào
của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.

1.2.3.6. Về thi hành pháp luật (Điều 16)
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật,


19
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND ở địa phương;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự,
nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn huyện;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà
nước; bảo hộ tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương;
- Giám sát kết quả thực hiện các biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
1.2.3.7. Về xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính (Điều 17)
- Giám sát việc thực hiện bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Uỷ viên thường trực HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác
của UBND, Trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban của HĐND, Hội
thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu HĐND và
chấp nhận việc đại biểu HĐND xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của
pháp luật;
- Giám sát kết quả bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu;
- Giám sát việc ban hành quyết định, chỉ thị của UBND cùng cấp, nghị quyết
của HĐND cấp xã đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật;
- Giám sát hoạt động của HĐND cấp xã nếu phát hiện HĐND đó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân thì ra Quyết định giải tán HĐND cấp xã đó,
trình HĐND cấp tỉnh phê chuẩn trước khi thi hành;
- Giám sát việc thực hiện các đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa
giới hành chính ở địa phương theo quy định pháp luật.
Như vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp huyện rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng, củng cố chính quyền, thực hiện pháp

luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ nhân dân ở địa phương.
1.2.4. Nguyên tắc giám sát của HĐND cấp huyện
Như phân tích ở trên ta thấy giám sát của HĐND là một hoạt động trải rộng
trên mọi lĩnh vực, tuy nhiên để đảm bảo tất cả các hoạt động giám sát được diễn ra


×