Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Từ quan niệm “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” trong văn hóa Trung Hoa đến quan niệm sinh con trai, con gái trong văn hóa Việt Nam? Tác động tiêu cực của nó đến văn hóa Việt Nam ngày nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.09 KB, 19 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI : Từ quan niệm “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”
trong văn hóa Trung Hoa đến quan niệm sinh con trai, con
gái trong văn hóa Việt Nam? Tác động tiêu cực của nó đến
văn hóa Việt Nam ngày nay.
MÔN: ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN : TỐNG THỊ DUYÊN
LỚP : KH16A5

HÀ NỘI - 2016
1


MỤC LỤC
Nội dung
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

Trang

2. Phương pháp nghiên cứu

3
3
3


3. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu

4

4. Mục đích nghiên cứu
Nội dung
I, Quan niệm Nho giáo: “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của văn
hóa Trung Hoa.
1, Nguồn gốc Nho giáo
2, Quan niệm “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của văn hóa
Trung Hoa
II, Quan niệm sinh con trai, con gái trong văn háo Việt Nam
1, Nguồn gốc của quan niệm sinh con trai, con gái trong văn hóa
Việt Nam
2, Sự ảnh hưởng của quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” đến Việt Nam
III, Tác động tiêu cực của quan niệm đến văn hóa Việt Nam ngày nay
1,Trong việc tham gia quản lý, hoạt động xã hội.
2, Trên lĩnh vực kinh tế
3, Trên lĩnh vực đời sống và xã hội
4, Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo
IV, Phương hướng khắc phục quan niệm sinh con trai, con gái ở Việt
Nam hiện nay
Kết luận
Tài liệu tham khảo

4
5
5
5

7
9
9
9
12
12
13
14
15
16
18
19

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tại Trung Quốc, tư tưởng Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư
tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm.
Từ thế kỷ thứ 4, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác
như Nhật Bản, Triều Tiên ,.. trong đó có Việt Nam.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng đầu công nguyên đến thế kỉ XIV.
Nó làm ảnh hưởng đến tất cả các mặt trong đời sống xã hội với nhiều quan niệm,
tư tưởng, trong đó có tư tưởng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” .
Việc phát triển quan niệm này từ Trung Quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến quan
niệm sinh con trai, con gái của văn hóa Việt Nam. Hệ tư tưởng Nho giáo được
quán triệt trong nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước phong kiến, qua đó
thấm vào mọi lĩnh vực văn hóa, đạo đức của xã hội đương thời, làm thay đổi cách
ứng xử, giao tiếp và đưa lại những hình thức nghi lễ chặt chẽ, phức tạp cho các

phong tục như ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, cúng tế,….trong gia đình cũng như
cộng đồng làng xã.
Chính vì nó đã ngấm sâu vào gốc rễ, vào phong tục, truyền thống, vào quan
niệm ,…của nhân dân ta từ xa xưa, cho nên đến ngày nay, việc loại bỏ những hủ
tục, quan niệm lạc hậu ấy là điều rất khó. Nó làm nên những tác động tiêu cực đến
văn hóa Việt Nam hiện đại.
Chính vì những lí do trên, em xin được tìm hiểu về đề tài : “Từ quan niệm “nhất
nam viết hữu thập nữ viết vô” trong văn hóa Trung Hoa đến quan niệm sinh con
trai, con gái trong văn hóa Việt Nam? Tác động tiêu cực của nó đến văn hóa Việt
Nam ngày nay” nhằm thấy rõ được quan niệm này ảnh hưởng đến văn hóa Trung
Quốc cũng như Việt Nam như thế nào?
2. Phương pháp nghiên cứu
Thông qua việc thu thập thông tin, tài liệu, phân tích và tổng hợp nội dung
từ quan niệm : “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” để thấy được tác động của
nó tới văn hóa Trung Hoa cũng như văn hóa Việt Nam từ xưa cho đến ngày
nay.
3


3. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn nên bài viết chỉ nghiên cứu, tìm hiểu quan niệm :
- “Trọng nam khinh nữ” trong văn hóa Trung Hoa
- “Việc sinh con trai, con gái” trong văn hóa Việt Nam
- Tác động tiêu cực của quan niệm trên đến văn hóa Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích nghiên cứu
- Cho thấy tầm ảnh hưởng của quan niệm trên đối với văn hóa hai nước
Trung Hoa và Việt Nam
- Những tác động tiêu cực mà quan niệm này còn để lại đến ngày nay
- Tìm hiểu, bổ sung thêm nhiều kiến thức mới cho môn học Đại cương văn
hóa Việt Nam.


NỘI DUNG
4


I, Quan niệm Nho giáo: “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của văn hóa
Trung Hoa.
1, Nguồn gốc Nho giáo
Nho giáo còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết
học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được
các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho
giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều
của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay nho sinh.
Khổng Tử ( 551- 479 TCN), người sáng lập học phái Nho Gia (Nho giáo) vào
những năm cuối thời Xuân Thu (Trung Quốc). Ông tên Khâu, tự là Trọng Ni,
người ấp Tưu (nay thuộc Khúc Phụ – Sơn Đông – Trung Quốc). Ông là người có
nhiều tài năng và tinh thần ham học. Với sự hiểu biết sâu rộng của mình, Ông đã
biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch,
Xuân Thu.
Vấn đề trung tâm của Nho giáo là con người, tư tưởng về con người. Con
người thiện hay ác :
• Nho học quan niệm tính Thiện của con người gồm năm đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín hay còn gọi là Ngũ thường. Để thực hiện Ngũ thường mỗi người phải thực
hiện Tam cương, Ngũ luân (Tam cương, là ba mối quan hệ cơ bản của xã hội: Vua
– Tôi, Cha – Con, Chồng – Vợ; Ngũ luân là năm mối quan hệ: Vua – Tôi, Cha –
Con, Chồng – Vợ, Anh – Em, Bạn bè). Ngũ thường là bản tính của con người, nó là
phổ biến và hằng thường. Tính là do trời sinh. Trời sinh ra tính thiện, thì trời cũng
là thiện, cũng là tam cương ngũ thường, cho nên tam cương ngũ thường là thường
kinh (quy luật hằng thường) của trời đất, là thông nghị (định lý phổ biến). Thế thì

tại sao trong xã hội có người thiện mà lại có người ác,
• Nho giáo chỉ ra rằng sở dĩ có người ác là do khí bẩm thụ mà thành. Tức là họ đã
nhiễm phải những thói hư, tật xấu từ chính cuộc đời này. Do vậy là con người cần
phải được giáo dục “Hữu giáo vô loại”. Mặt khác Nho giáo rất chú trọng dạy đạo
làm người, hướng vào rèn luyện đạo đức con người, đề cao giáo dục, giáo dục làm
con người ác thành thiện. Đây thực sự là quan điểm hết sức tiến bộ của Nho giáo.
5


Nho giáo ngay từ khi ra đời đã có điểm khác căn bản với tư tưởng của các tôn
giáo, nhất là về vấn đề con người, quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm thú
vui trong cuộc sống. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát. Lão
giáo cũng yếm thế, bi quan, nên cần sự “vô vi tịch mịch”.Chỉ có đạo Nho là trọng
sự sống hơn cả. Con người khi sống trên cuộc đời này hãy lo lấy việc của chính
mình. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết!
Đây có thể nói là điểm khác nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ
chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài
của lịch sử.
Mặt khác, Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người, hướng vào rèn luyện
đạo đức con người, đề cao giáo dục, giáo dục làm cho con người ác thành thiện.
Song tuy vậy, đạo làm người theo quan niệm Nho học là đạo làm người trong xã
hội phong kiến.Những quan niệm đạo đức đó không phải là vĩnh cửu, nhưng có
nhiều phương châm xử thế, tiếp vật giúp con người giữ được tâm hồn cao thượng,
nhân cách trong sáng. Nho giáo là hệ tư tưởng phục vụ quyền lợi của giai cấp
phong kiến, tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo có nhiều điểm tích cực.
Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo
chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong
thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã
tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội, là yếu tố tạo nên
truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ.

Tuy Nho giáo mang nhiều tư tưởng tiến bộ thời bấy giờ nhưng lại mang
nhiều tư tưởng tiêu cực mà còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Trong quan hệ của
con người, Nho giáo có nói đến nghĩa vụ và cách đối xử của hai bên, nhưng thực tế
thì trước sau chỉ lên án những kẻ làm tôi, làm con, làm vợ mà thôi. Thực tế đó là
mối quan hệ độc đoán một chiều cho thấy Nho giáo coi thường người phụ nữ, đã
quy định trói buộc người phụ nữ vào người đàn ông (coi trọng nam khinh
nữ).Trong đó nổi bật lên là quan niệm “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”.

2, Quan niệm “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của văn hóa Trung Hoa
Theo định nghĩa Văn hoá của UNESCO: “ Văn hóa là một phức thể, tổng
thể các đặc trưng – diện mạo tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm … Khắc họa
6


lên bản sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn
hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng …”
Quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” có ý nghĩa là "một con trai
thì là có, nhưng mười con gái vẫn là không có" thể hiện cách đánh giá con là nam
hay nữ trong Nho giáo. Theo đó, các gia đình hay dòng họ từ xưa (và thậm chí cả
ngày nay) vẫn có tư tưởng coi trọng việc sinh con trai ( trọng nam khinh nữ ) . Nếu
không có con cháu trai nối dõi vẫn bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ hoặc ông bà
chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng. Thế nên phần lớn các gia đình hiện nay
vẫn phải cố đẻ cho được con trai.
Vốn từ xưa các thị tộc theo chế độ Mẫu hệ, chế độ này còn kéo dài đến thời
kỳ Chiếm hữu nô lệ, người phụ nữ lúc này rất được coi trọng biểu hiện rõ nét trong
nhiều truyền thuyết như truyền thuyết Nữ oa vá trời của Trung Quốc. Về tư tưởng
thời kỳ này cũng chưa chặt chẽ, tồn tại nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Cho đến
khi Trung Quốc bắt đầu thời kỳ chỉnh đốn quy củ bằng Khổng giáo do Khổng Tử
sáng lập, được hoàn thiện và trở nên độc tôn vào thời Hán, Đường và nhất là thời

Tống (với tên tuổi Trình Di, Trình Hạo). Nho giáo coi đàn ông là trụ cột, là quyền
lực chính trong gia đình cũng như trong quốc gia.
Do ảnh hưởng của Nho giáo, chính vì coi trọng con trai vì con trai mới “nối
dõi tông đường” nên người quân tử sống trong xã hội xưa luôn phải đặt chữ hiếu
lên hàng đầu. Dù có phải xông pha lửa đạn, đối mặt với cái chết thì vẫn phải giữ
trọn chữ hiếu. Trong tác phẩm “Thủy Hử”, nhân vật “Tống Giang” sau khi gia
nhập đội quân 108 anh hùng Lương Sơn Bạc thì hay tin mẹ mất. Nếu Tống Giang
về chịu tang mẹ sẽ bị đội quân triều đình bắt, thậm chí là giết. Nhưng người quân
tử không thể bất hiếu, nên Tống Giang vẫn quyết định về. Chữ hiếu khi đó gồm có
tiểu hiếu (có hiếu với gia đình), trung hiếu (có hiếu với vua) và đại hiếu (có hiếu
với đất nước). Như vậy,người con trai là rất được coi trọng trong xã hội xưa, không
sinh được con trai để nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất, nên dù bằng cách
nào, như thế nào, người ta nhất thiết vẫn phải sinh được con trai. Tư tưởng phụ
quyền trở nên nặng nề và thành một áp lực đè nén người phụ nữ.
Thời xưa tư tưởng "trọng nam khinh nữ" thể hiện rất rõ nét, rất khắc nghiệt
và đau lòng, ngay từ khi chào đời và xác định được giới tính thì sự phân biệt đối xử
với các bé gái đã diễn ra rất gay gắt, qua nhiều thế kỉ, theo Xinran (một nhà văn
7


Trung Quốc) đã kể lại những chi tiết khủng khiếp của một nghi lễ cổ xưa về ngày
sinh với một chiếc chậu tắm sơ sinh đặc biệt:
" Ở trên cùng là chậu nước ấm dành để tắm cho bé trai, được gọi là
‘nước gốc’. Bên dưới là nước sôi, gọi là ‘nước giết người’. Nếu đứa trẻ sinh ra là
bé trai, đứa bé sẽ được tắm ở chậu ‘nước gốc’ và trở thành một thành viên của gia
đình. Nếu là bé gái, chiếc chậu trên cùng sẽ bị lật xuống và đứa bé bị thả vào chậu
‘nước giết người’ ở dưới." Đôi khi, bà đỡ thực hiện hành động khủng khiếp này
nhưng có khi chính những bà mẹ tự mình làm. Nhà văn bổ sung thêm rằng người ta
có thể xác định được số bé gái được cho làm con nuôi nhưng không thể tính được
số bé gái đã bị giết hại.

Còn ngày nay, khi công nghệ siêu âm xuất hiện và trở nên phổ biến, nhiều gia
đình cũng chọn giới tính cho thai nhi, việc nạo phá thai do thai nhi là nữ vẫn
thường xuyên xảy ra, khá phổ biến ở Trung Quốc và có ít nhất 13 triệu ca phá thai
mỗi năm đặc biệt là ở vùng nông thôn cùng với chính sách "một con", làm mất cân
bằng giới tính vì quan niệm "trọng nam khinh nữ”.
Theo số liệu từ năm 2005, tỷ lệ nam-nữ ở Trung Quốc là 119 bé trai/100 bé
gái, đến năm 2014 con số này đã được rút ngắn lại còn 115,9 bé trai/100 bé gái.
Tuy nhiên con số này còn rất cao (tỷ lệ nam-nữ cao nhất thế giới), nó đánh giá
được phần nào vấn đề trọng nam khinh nữ ở Trung Quốc.
Ngày nay tình trạng trọng nam khinh nữ đã được cải thiện hơn xưa nhưng coi
trọng nam giới là tư tưởng nặng nề, đã ăn sâu bám rễ lâu đời trong đời sống nên
nhiều gia đình, dòng họ luôn muốn có con cháu trai nối dõi để khi bố mẹ hoặc ông
bà chết đi sẽ có người và nơi thờ cúng. Thế nên phần lớn các gia đình hiện nay vẫn
phải cố đẻ con trai.

II, Quan niệm sinh con trai, con gái trong văn hóa Việt Nam.
1, Nguồn gốc của quan niệm sinh con trai, con gái trong văn hóa Việt Nam

8


Nho giáo vào Việt Nam trước hết xuất phát từ bản thân của Nho giáo. Với tư
cách là một tư tưởng chính trị xã hội, nó có quá trình phát triển sớm và đã có một
chỗ đứng vững chắc trong xã hội Trung Quốc từ thời cổ đại. Chính sự phát triển
mạnh mẽ đó mà nhu cầu mở rộng truyền bá học thuyết của nó là điều tất yếu. Hơn
nũa Nho giáo còn được các chính quyền phong kiến Phương Bắc sử dụng như một
công cụ đắc lực nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến và quyền lợi của giai cấp
thống trị trong quá trình xâm lược nước ta. Nhiều tư tưởng, quan niệm được truyền
bá nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến tận ngày nay thì phải kể đến quan niệm
“nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” .

Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” tồn tại khá nặng nề trong thời kỳ phong kiến
ở nước ta. Ban đầu nó xuất phát từ ý thức rất tốt, là người nam phải gánh vác các
công việc lớn trong gia đình, là trụ cột của gia đình nên vai trò của người nam phải
được đặt lên hàng cao hơn so với nữ. Hơn nữa, quan điểm coi sinh con trai mới là
con, đẻ nhiều con gái coi như tuyệt tự là vì nhằm xác định rõ ràng huyết thống,
tránh tình trạng hôn nhân cận huyết làm hủy hoại nòi giống. Thời nhà Trần chúng
ta rơi vào tình trạng hôn nhân cận huyết quá nhiều dẫn đến nhiều trẻ sinh ra bị quái
thai, dị tật, mãi đến thời nhà Lê mới khắc phục được tình trạng này. Về sau này, do
ảnh hưởng của Nho giáo, coi trọng phụ quyền nên tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
càng trở nên nặng nề.
Từ thế kỷ XV khi nhà Lê chọn Nho giáo là tôn giáo duy nhất cho đến thời
Nguyễn, quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của nho giáo làm ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống ở Việt Nam lúc bấy giờ trong đó có quan niệm
sinh con trai, con gái.
2, Sự ảnh hưởng của quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đến
Việt Nam

Cũng giống như Trung Quốc, vốn từ xưa các thị tộc theo chế độ Mẫu hệ,
hơn nữa trong bộ “ Luật Hồng Đức” thời Lê sơ có quy định người phụ nữ được
quyền thừa kế, được quyền lấy chồng khác nếu chồng đi biệt xứ không tin tức gì...
chứng tỏ rằng người phụ nữ Việt Nam thời đó được coi trọng..

9




Tính đặc thù của “Luật Hồng Đức” thể hiện rõ trong hai chương “Hộ hôn” và
“Điền sản”. Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân và vai trò
của người phụ nữ - điều mà các bộ luật trước và sau không mấy quan tâm. Có

53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân gia đình ; 30/722 điều luật (4%) bàn về
hương hóa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Những điều luật này ít nhiều đã đề cập
đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình



Người vợ, trên lí thuyết bị đòi hỏi phải lệ thuộc vào chồng và không được làm điều
gì nếu không có sự chỉ đạo hay đồng ý của chồng. Nhưng trên thực tế, địa vị của
người vợ - chồng thay đổi tùy vào vị trí xã hội và kinh tế của họ. Cũng giống như
chồng, người phụ nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và tham gia vào các hoạt động
kinh tế. Đó là điều khác biệt với người phụ nữ Trung Quốc. Trong lao động, người
phụ nữ được trả công ngang bằng với thợ nam, không có sự phân biệt về tiền công
giữa đàn ông và đàn bà. Việc trả công ngang bằng như thế cho thấy vị trí của người
phụ nữ được tôn trọng trong xã hội xưa.

 Hơn thế nữa, những người phụ nữ xưa rất được tôn trọng biểu hiện ở chỗ : họ có
thể đi đánh giặc, làm Vua,… như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân ,…cùng
nhiều nữ tướng tài giỏi khác; nhiều đền
thờ Mẫu được hình thành cùng với đó là
nhiều đồ vật được bắt nguồn từ chữ “ Cái”
như “ cái bàn, cái ghế, cái chổi, đường cái,
…” , cho thấy được vị trí của người phụ
nữ xưa vẫn còn phần nào được tôn trọng
hơn so với Trung Hoa.
Khi chuyển từ chế độ mẫu hệ sang
chế độ phụ hệ, các thế hệ người Việt vẫn
kế thừa và bảo lưu truyền thống tốt đẹp
này. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
Nam đâu cũng có. Đó cũng là những minh
chứng xác đáng để chứng minh cho việc

người Việt Nam rất coi trọng người phụ
nữ dù họ ở cương vị nào.Nhưng sau này
Nho giáo Trung Hoa lan truyền mạnh mẽ

10


với tất cả những tư tưởng triết học, đạo đức của nó do vậy tư tưởng của nhân dân
Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhiều.

Tuy nhiên, khi nho giáo Trung Hoa ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có
quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” thì quan niệm về người phụ nữ dần
bị ảnh hưởng. Người phụ nữ phải “tam tòng tứ đức”, ấy thế nhưng đàn ông thì lại
“năm thê bảy thiếp”. Rồi khi cha mẹ chết đi, chỉ con trai mới được quyền thừa kế.
Trong mỗi gia đình, trưởng nam có vai trò vô cùng quan trọng. Chỉ trưởng nam
mới được quyền thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Các con thứ làm gì cũng phải hỏi ý kiến
trưởng nam.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị biến thành nô lệ cho những luật lệ,
những ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến với những quan niệm cổ hủ, lạc
hậu. Họ không có quyền quyết định cho số phận của mình mà hoàn toàn phụ thuộc
vào bởi quy định “tam tòng” nghiệt ngã : “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử”. Điều ràng buộc ấy dẫn theo bao bất hạnh của người phụ nữ:
“ Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào giếng ngọc, hạt ra ruộng cày ».
Khi cất lên lời than thân, họ so sánh “thân em…” với những hình ảnh
mong manh, yếu đuối như "tấm lụa đào", "hạt mưa sa". Những hình ảnh so sánh ấy
làm nổi bật thân phận bơ vơ, bất trắc và bị động, lệ thuộc của người phụ nữ trong
xã hội xưa.

Bởi những quan niệm cổ hủ, lạc hậu ấy, nên người Việt Nam xưa và thậm
chí cả ngày nay vẫn còn tồn tại, bị chi phối bởi quan niêm sinh con trai, con gái.
Tức là, họ cố đẻ được con trai để “nối dõi tông đường” , con gái được coi là con
của người ta khi họ về nhà chồng chứ không nhờ cậy được gì :


Chẳng đâu xa lạ ngay chính nhà Bác gái em, Bác đã đẻ được 7 người con gái
nhưng vẫn tiếp tục đẻ để có con trai và hiện Bác đã hơn 50 tuổi( con gái út hiện
được 1 tuổi). Có thể nói, quan niệm sinh con trai, con gái, con nào quan trọng hơn
11


đã là vấn đề ăn sâu trong gốc rễ mà khó có thể bỏ được, buộc người phụ nữ phải
cam phận và phụ thuộc vào chồng, cũng như gia đình nhà chồng. Việc những gia
đình, dòng họ không có con, cháu trai nối dõi hiện nay vẫn bị xem là tuyệt tự và
khi bố mẹ hoặc ông bà chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng là một thực tế.
Thế nên phần lớn các gia đình hiện nay vẫn phải cố đẻ cho được con trai.

Bây giờ nước ta không còn bị đế quốc đô hộ và bọn quan lại phong kiến áp
bức nữa nhưng tư tưởng phong kiến vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của nhiều
người, từ nông thôn tới thành thị, từ những người không có học đến những nhà trí
thức. Đặc biệt tại các nông thôn và nhất là miền Trung, nơi mà ảnh hưởng triều đại
Nguyễn cuối cùng còn đè nặng. Thỉnh thoảng vẫn còn đâu đó những câu chuyện
cấm đàn bà đến nhà gian thờ chính, cấm lên thuyền chài, cấm ngồi ăn chung với
đàn ông, nữ không được hưởng di sản cha mẹ…( Ví dụ như ngay chính ông bà
ngoại em vẫn còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm này. Ông ở nhà trên, còn Bà ở nhà
dưới cạnh bếp, lúc ăn cơm thì Bà không được lên nhà trên ăn cùng) cho thấy quan
niệm “trọng nam khinh nữ vẫn rất phổ biến trong thời đại ngày nay.

Mặc dù hiện nay nhiều công tác tuyên truyền được thực hiện về vấn đề không

được trọng nam, khinh nữ nhưng không chuyển biến là mấy, dân số vẫn tăng cao.
Thiết nghĩ cần phải có một cuộc cách mạng để tháo gỡ những vướng mắc mà các
tư tưởng phong kiến vẫn trói buộc chúng ta bấy lâu nay.

III, Tác động tiêu cực của quan niệm đến văn hóa Việt Nam ngày nay
Những yếu tố hình thành nên tư tưởng trọng nam,khinh nữ trên đây, mặc dù
đã được khắc phục rất nhiều kể từ khi đất nước giành được độc lập, nhưng những
dư âm, tàn tích của nó vẫn còn rơi rớt, ẩn sâu trong tâm lý, suy nghĩ của một bộ
phận người dân, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội hiện nay.

1,Trong việc tham gia quản lý, hoạt động xã hội.
12


Nho giáo với tinh thần “Trọng nam khinh nữ”, trói buộc người phụ nữ trong
bếp núc gia đình, gạt bỏ phụ nữ khỏi công việc chung của xã hội. Và thực tế đã
cho thấy hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp uỷ, các cơ quan công quyền và tổ
chức chính trị, xã hội còn khiêm tốn. Chẳng hạn, Ninh Bình được coi là tỉnh đứng
đầu khu vực đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động
chính trị, xã hội, nhưng tỷ lệ phụ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khoá XII của tỉnh
cũng chỉ dừng ở con số 33,3%.
Phụ nữ bị hạn chế hoặc ít được tham gia lãnh đạo, quản lý ở các ngành các
cấp; cơ hội việc làm chưa được mở rộng hay thiệt thòi trong vấn đề xin việc (nhiều
ngành nghề yêu cầu người phụ nữ phải cam kết làm việc 2 năm trở lên mới được
lấy chồng hoặc đẻ con) ; phụ nữ ít được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận các
nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mặc dù nhiều lao động nữ đã có nhiều
đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và có tài năng nhưng vẫn
chưa được tận dụng triệt để, gần phân nửa nhân lực xã hội bị bỏ phí thay vào đó là
những người con trai “nối dõi” bất tài. Đây là một bất công mà ít ai can thiệp.
2, Trên lĩnh vực kinh tế

Ảnh hưởng của quan niệm “trọng nam khinh nữ” khiến người phụ nữ được
mong đợi là làm việc nhà nhiều hơn, còn nam giới là trụ cột kinh tế, người kiếm
sống nuôi các thành viên gia đình. Từ đó đẫn đến những định kiến nghề nghiệp.
Trong đó, một số công việc được coi là của nam giới (làm rừng, đánh bắt hải sản,
đi làm ăn xa nhà, lãnh đạo cộng đồng…); một số việc được coi là của phụ nữ (nội
trợ, chăm sóc gia đình, sản xuất tại nhà, gần nhà, không tham gia lãnh đạo cộng
đồng…).
Chính ảnh hưởng của quan niệm đó mà hiện nay, phụ nữ Việt Nam nói chung
hay những người phụ nữ nông thôn nói riêng, chủ yếu chỉ quen với công việc đồng
áng, nội trợ; những công việc đơn giản, thủ công,… với mức thu nhập thấp.
Tập tục truyền thống không thừa nhận quyền thừa kế tài sản của con gái và
hiện tại, tập tục này vẫn còn tác động đến tâm lý, thói quen và cách suy nghĩ, hành
xử của một bộ phận nhân dân. Nhiều gia đình ở nông thôn, thậm chí có cả thành thị
thường không quan tâm đến hàng thừa kế là con gái, tài sản, đất đai của gia tộc chỉ
13


chia cho con trai, đặc biệt dành phần ưu tiên cho con trai trưởng để lo phần hương
hoả.
Như vậy, các phong tục, tập quán, quan niệm phong kiến, lạc hậu là một tác
nhân quan trọng tạo rào cản đối với người phụ nữ trong việc tiếp cận và hưởng thụ
các quyền về kinh tế; đưa người phụ nữ vào vị thế phụ thuộc vào người chồng về
kinh tế. Từ phụ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến phụ thuộc mọi mặt vào người chồng
trong cuộc sống gia đình.
3, Trên lĩnh vực đời sống và xã hội
Trải qua thời kỳ chi phối lâu dài của học
thuyết Nho giáo, trong đời sống tinh thần của
người Việt Nam là làm sao phải có con trai để
nối dõi dòng tộc, áp lực về con cái, về con nối
dõi cứ truyền từ đời này qua đời khác dần dần

ngấm vào tâm khảm nhiều người và cứ thế tư
tưởng trọng nam, khinh nữ ngày càng có chiều
hướng gia tăng. Có những nơi mà sức ép sinh
con trai hay con gái đã làm tan vỡ hạnh phúc
gia đình hay thậm chí là vấn đề bạo lực gia
đình diễn ra trầm trọng do thói “gia trưởng”
của người đàn ông .
Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa Gia đình ( Bộ y tế ), những năm qua tỷ
số chênh lệch giới tính khi sinh của Việt nam liên tục tăng. Đặc biệt, hiện nay tỷ số
này đã ở mức nghiêm trọng : 112,3 bé trai/100 bé gái. Cá biệt, một sô tỉnh, thành
phố thuộc Đồng bằng song Hồng có tỷ số giới tính khi sinh từ 120-130 bé trai/100
bé gái. Lo ngại hơn, tình trạng này lại đến từ những nơi có đời sống kinh tế phát
triển, gia đình khá giả, trình độ học vấn cao,…
Hệ lụy của việc mất cân bằng giới tính khi sinh đã quá rõ. Các nước như
Trung Quốc, Hàn Quốc... hàng năm phải “nhập khẩu” cô dâu mà vẫn không đáp
ứng đủ nhu cầu kết hôn của nam giới. Tình trạng “khan hiếm” phụ nữ ở các quốc
gia trên thế giới nói chung và Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai nói
riêng cũng dẫn đến việc gia tăng các tệ nạn xã hội như tệ nạn bắt cóc, buôn bán
phụ nữ, buôn bán trẻ em gái, tệ nạn mại dâm...
14


Sự bất bình đẳng của phụ nữ về mặt nhân thân trong tục lệ làng xã còn thể
hiện rõ nét trong việc làm gia phả. Tuyệt đại đa số gia phả của các dòng họ được
viết bằng chữ Hán trước đây và ngay cả gia phả hiện nay đều thể hiện sự phân biệt
đối xử đối với phụ nữ với nguyên tắc “nữ nhi ngoại tộc” (con gái đi lấy chồng là
thuộc về dòng họ khác), nên trong gia phả không ghi tên con gái, còn các con trai
được ghi chép khá đầy đủ các thông số liên quan đến nhân thân.
4, Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo
Với quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, con trai có quyền và

được ưu tiên quyền được đi học, còn con gái phải ở nhà học mẹ công việc nội trợ,
bếp núc để quán xuyến gia đình khi lập gia thất. Hậu quả của quan niệm này là gây
bất bình đẳng giới trên lĩnh vực văn hoá, xã hội. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng
này là phụ nữ gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận quyền và hưởng thụ các quyền về văn
hoá, xã hội.
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều tiến bộ, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố
gắng trong việc chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật thúc đẩy bình đẳng giới,
nhưng do nhiều yếu tố, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới trên lĩnh
vực giáo dục đào tạo.
Trong gia đình, nếu phải lựa chọn việc cho con trai hay con gái tiếp tục theo
học các bậc hệ cao hơn thì con trai bao giờ cũng được ưu tiên hơn. Đó là một trong
những nguyên nhân lý giải vì sao ở nông thôn, đa số phụ nữ chỉ học hết cấp I và
cấp II. Tỷ lệ phụ nữ mù chữ, trẻ em gái bỏ
học giữa chừng luôn nhiều hơn nam giới.
Một trong những hạn chế về giáo dục
đối với phụ nữ phải kể đến các định kiến về
việc thường xuyên xây dựng hình ảnh nam
giới và phụ nữ với vai trò, nghề nghiệp theo
quan điểm truyền thống như phụ nữ thường
là giáo viên, bác sỹ, nội trợ…; nam giới
thường là giám đốc, kỹ sư, phi công…. Cách
xây dựng hình ảnh như vậy rất ảnh hưởng
15


đến định hướng lựa chọn ngành nghề trong tương lai, và, sự tách biệt giới trên thị
trường lao động là tất yếu.
Trong các ngành đào tạo, đại đa số phụ nữ theo học ở các ngành sư phạm và
khoa học xã hội, trong khi đó, nam giới lại chiếm số đông trong các ngành kỹ
thuật. Sự cách biệt này là nguyên nhân làm hạn chế khả năng và cơ hội của phụ nữ

tham gia vào thị trường lao động đang thay đổi trong điều kiện đất nước hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu và tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Áp lực của định kiến xã hội còn cản trở phụ nữ cầu tiến bộ. Vì hầu như những
người phụ nữ có chí tiến thủ, phấn đấu vươn lên trong công tác, học tập, khẳng
định được vị thế bình đẳng, đôi khi vượt trội trong gia đình về thu nhập kinh tế và
địa vị xã hội thường bị đánh giá là người phụ nữ có nhiều “tham vọng, hãnh tiến”,
và gia đình đó bị coi là “âm thịnh, dương suy”!
IV, Phương hướng khắc phục quan niệm sinh con trai, con gái ở Việt Nam
hiện nay.
Để từng bước đẩy lùi tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trong gia đình hiện nay,
thiết nghĩ cần thực hiện những giải pháp như sau:
Một là: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục các vấn đề giới, bình
đẳng giới trong gia đình được quy định trong các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước như Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình; đưa
việc thực hiện bình đẳng giới thành một trong những tiêu chí để đánh giá, công
nhận gia đình văn hóa, làng, bản, khu dân cư văn hóa.
Xem việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu dài và cần sự phối
hợp đồng bộ của toàn xã hội. Từ đó mỗi người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng giới
trong gia đình. Trách nhiệm bình đẳng giới không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá
nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình và toàn xã hội; là cơ sở quan trọng để
xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
Hai là: Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi phụ nữ ý thức và tự phấn đấu vươn
lên, tự giải phóng mình; không ngừng cố gắng học tập nâng cao kiến thức để khẳng
định vai trò, ví trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
Ba là: Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường (đặc biệt là
các trường THPT), giúp cho thanh, thiếu niên nhận thức được những vấn đề giới
16


và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống; giúp các em ý thức được trách

nhiệm trong việc xây dựng gia đình sau này.
Bốn là: Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò gia đình và bình đẳng
giới. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý về bình đẳng giới. Kiên quyết đấu tranh
loại bỏ các hành vi bạo lực gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi thành viên
trong gia đình được bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau thì xã hội sẽ công bằng và văn
minh.
Năm là: Nghiêm cấm các cơ sở y tế siêu âm chẩn đoán giới tính và không được
phá thai với lý do lựa chọn giới tính...
Để có được bình đẳng giới bền vững trong xã hội phải bắt đầu từ trong mỗi gia
đình. Thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình là biện pháp hữu hiệu để xây
dựng một xã hội no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.

17


KẾT LUẬN
Sự ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo Trung Hoa tồn tại suốt hơn hai
nghìn năm lịch sử đã ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Việt Nam về mọi mặt của đời
sống xã hội. Chúng ta không thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia góp phần
vào sự đúc nặn nên diện mạo tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc Việt. Dù có
những điểm chưa tích cực nhưng trải qua năm tháng sàng lọc những tư tưởng triết
học của Nho giáo đã thấm nhuần trong lòng con người Việt Nam. Tuy nhiên,
những tác động tiêu cực mà nó mang lại vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay, trong đó
có quan niệm sinh con trai, con gái ở Việt Nam . Những định kiến xã hội xưa đã
làm giảm đi vai trò của người phụ nữ trong gia đình, đồng thời cũng chà đạp lên
thân phận nhân phẩm của họ. Những hình ảnh người phụ nữ trong tục ngữ ca dao
mang đến một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống của những người phụ nữ xưa , đó là
sự cam chịu, tần tảo, thức khuya dậy sớm, thầm lặng hi sinh, đáng lẽ họ phải được
nâng niu, tôn trọng, nhưng ngược lại họ lại bị xã hội xưa coi thường ,chà đạp.
Định kiến giới sẽ làm xã hội đi xuống , chính vì vậy mà tư tưởng sinh con

trai, con gái là tư tưởng phong kiến tồn tại suốt hàng nghìn năm qua cần phải thay
đổi. Tuy nhiên ngày nay tư tưởng này vẫn còn tồn tại, đặc biệt là ở nông thôn, tư
tưởng này đã ăn sâu vào suy nghĩ của người dân nên khó có thể thay đổi. Xã hội đã
thay đổi, không chỉ Viêt Nam hay Trung Quốc mà tất cả các quốc gia trên thế giới
cũng cần phải thực hiện tư tưởng tiến bộ, bình đẳng nam nữ. Vai trò của người phụ
nữ ngày càng nâng cao và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của xã
hội, chính vì vậy cần phải thay đổi những tư tưởng để phụ nữ có cơ hội tỏa sáng và
góp phần làm xã hội ngày càng đi lên.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, vấn đề kết hợp giữa truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế đang đặt ra cấp thiết. Trải qua những bước thăng
trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam vẫn khẳng định sự độc đáo của mình, đồng
thời mở rộng giao lưu tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm
18


truyền thống văn hóa dân tộc. Vì vậy, vấn đề xây dựng một xã hội văn hóa mới, gia
đình văn hóa mới, nếp sống văn hóa mới cũng phải được quan tâm đúng mức để
tránh các tư tưởng lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam do Trần
Quốc Vượng ( chủ biên )
/> /> /> />
19



×