Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bài tiểu luận sách lược ngoại giao của việt nam sau cách mạng tháng tám 1945 – 19121946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.18 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

GVHD: Lại Thị Hương

1

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


TÓM TẮT
Sau khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời. Từ đó cho đến 19/12/1946 là một giai đoạn lịch sử đặc
biệt của dân tộc ta. Đất nước vừa giành độc lập, chính quyền cách mạng vừa
mới thành lập còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm ngay lập tức đã phải đối phó
với nhiều thử thách nghiêm trọng, đặc biệt là giặc ngoại xâm.
Để bảo vệ chính quyền trong điều kiện có nhiều kẻ thù cùng một lúc như kì
1946-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có một đường lối đối ngoại
đúng đắn, đánh giá từng loại kẻ thù trong từng thời điểm để có thể đưa ra
những đối sách thích hợp, loại dần từng kẻ thù một, cuối cùng tập trung mũi
nhọn vào kẻ thù chủ yếu tránh không để bị rơi vào tình trạng phải đối phó với
nhiều kẻ thù cùng một lúc.

GVHD: Lại Thị Hương

2

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


MỞ ĐẦU
Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hòa


bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về
kinh tế, chính trị, xã hội .Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền vững,
mỗi quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới.
Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị,
xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách
thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động
hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin
cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển.” Những phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với
sự hình thành của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến nay, những chính
sách đó vẫn là những công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, phát triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội .
Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt
động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu
để vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những kiến thức
mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động ngoại giao
cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày.
Trong hơn 70 năm lịch sử ngoại giao cách mạng thì giai đoạn 2/9/1945 đến
ngày 19/12/1946 là giai đoạn ngành ngoại giao mới thành lập. Ngành ngoại giao
cách mạng còn non trẻ này phải gánh vác một sứ mạnh lịch sử hết sức to lớn và
nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng
sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực hiện những
sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt: lúc hoà với
Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với Pháp với
việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 để đuổi Tưởng về nước, góp phần giữ
vững Nhà nước độc lập non trẻ. Ngoại giao Việt Nam 1945-1946 lúc này phải
GVHD: Lại Thị Hương


3

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


phát huy hết khả năng để giữ vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên.
Đây là thời kì mà ngoại giao Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục
tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Vì những lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài:
“Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 –
19/12/1946” làm vấn đề nghiên cứu của mình.

GVHD: Lại Thị Hương

4

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM 1945
1.1 Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự ra đời của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
a. Nguyên nhân bùng nổ Tổng khởi nghĩa tháng Tám
Từ giữa năm 1944, tình hình thế giới và trong nước phát triển gấp rút có lợi
cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết thúc,
quân đội Liên Xô phản công quân Đức trên nhiều mặt trận và đẩy lùi chúng ra
khỏi biên giới. Quân Nhật thua đậm ở mặt trận Châu Á Thái Bình Dương
Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi
nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”.

Vào đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới bước vào giao đoạn kết thúc.
Trên chiến trường Châu Âu, phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Liên Xô,
thủ đô Béc lin sắp thất thủ. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng
khốn đốn. Thực dân Pháp ở Đông Dương đang nhân cơ hội đó để ngóc đầu dậy,
chúng ráo riết hoạt động, đợi khi quân đồng minh kéo vào Đông Dương đánh
Nhật sẽ nổi dậy hưởng ứng để giành lại địa vị thống trị cũ. Mâu thuẫn đối kháng
giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương trở nên gay gắt.
Vào ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp,
Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh).
Vào ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”.
b.Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công
Trước sự chuyển biến mau lẹ, ngay khi nghe tin chính phủ Nhật đầu hàng
từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương
họp tại Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước
Khởi nghĩa đã nổ ra ở nhiều xã huyện thuộc các tỉnh châu thổ sông Hồng,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa... Ngày 18/8 nhân
dân Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành chính quyền ở tỉnh lị.
GVHD: Lại Thị Hương

5

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Ở Hà Nội, Ủy ban đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày
19/8. Ngày 18/8 cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện trên các đường phố ở Hà Nội. Tối
ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà nội giành thắng lợi.
Ở Huế, ngày 20/8 Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ủy ban quyết
định giành chính quyền vào ngày 23/8. Hàng vạn nhân dân nổi dậy kéo nhau

biểu tình thị uy chiếm các công sở. Chính quyền thuộc về nhân dân.
Ở Sài Gòn, xứ ủy Nam kì quyết định khởi nghĩa vào ngày 25/8. Sáng 25/8
các công nhân nông dân các tỉnh Gia Định, Biên hòa, Thủ Dầu Một…kéo nhau
về thành phố. Quần chúng chiếm Sở mật thám, sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện…
giành chính quyền ở Sài Gòn.
Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác dụng
vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám trong phạm vi cả nước.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc Bản Tuyên nguyên độc lập, tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các
quốc gia trên thế giới biết rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, có
chủ quyền như các quốc gia dân tộc khác.
c. Ý nghĩa thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám
Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai
cấp công nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất giải phóng dân tộc, đó là
cuộc cách mạng biểu hiện tinh thần chủ động sáng tạo biết tranh thủ thời cơ, tự
mình đứng lên giải phóng cho mình
Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ
đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp
và lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hơn một ngàn năm trên đất nước ta khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cách mạng tháng Tám đã phát huy truyền thống kiên cường bất khuất, anh
dũng sáng tạo và đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

GVHD: Lại Thị Hương

6

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang



Ngoài ra, cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa quốc tế vô cùng to lớn, là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin trong một nước thuộc địa nữa phong kiến,
làm phong phú thêm kho tàng lí luận của phong trào cách mạng vô sản thế giới,
cỗ vũ tinh thần các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành lại chính quyền
độc lập tự do.
1.2 Những thuận lợi và khó khăn của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa sau cách mạng tháng Tám 1945
1.2.1. Thuận lợi
Sau cách mạng tháng Tám 1945, ta đã có chính quyền trong tay, Đảng
Cộng Sản lãnh đạo công khai, nhân dân có sự đổi mới từ than phân nô lệ lên làm
chủ đất nước. Đó bước chuyển để giúp ta có cơ sở xây dựng và củng cố chính
quyền vững mạnh, là động lực cho Đảng và nhân dân quyết tâm hơn trong việc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải
phóng dân tộc đang dâng cao ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào
đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
1.2.2. Khó khăn
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc đóng ở
Hà nội và hầu hết các tỉnh. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện
cho thực dân Pháp trởi lại xâm lược nước ta.
Đất nước ta vừa thoát ra khỏi cuộc sống nô lệ, sự thống trị, bóc lột của thực
dân Pháp và phát xít Nhật vẫn còn để lại hậu quả nặng nề, hậu quả của chính
sách vơ vét, bóc lột của Nhật-Pháp cùng với thiên tai làm cho nền kinh tế nông
nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá trở nên kiệt quệ. Nhiều
xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn…
Về tài chính: ngân sách nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng
chưa nắm được ngân hàng Đông Dương. Quân Tưởng tung ra thị trường các loại
tiền mất giá làm cho tình hình tài chính của nước ta càng thêm rối loạn.

GVHD: Lại Thị Hương

7

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Về mặt xã hội: Hơn 90% dân ta không biết chữ, các tệ nạn mê tín dị
đoan… phổ biến ở nông thôn.
Chính quyền cách mạng non trẻ, chưa được củng cố, thiếu kinh nghiệm
lãnh đạo việc củng cố chính quyền, lực lượng vũ trang còn non trẻ, trang bị thô
sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu.

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM
SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 19/12/1946
2.1 Ngoại giao hòa hoãn với Tưởng
2.1.1 Nguyên nhân:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong điều kiện quốc tế rất thuận
lợi. Trên thế giới phe Đồng minh đã giành thắng lợi hoàn toàn, ba nước Trục thất
bại thảm hại. Tại Đông Dương, Pháp đã bị Nhật Bản hạ bệ, Nhật đầu hàng quân
Đồng minh. Phong trào dân tộc phát triển mạng mẽ, ở Châu Á nhân dân
Indonesia đã nổi lên giành chính quyền.
Tình hình Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, những nhân tố trái ngược
nhau. Niềm vui độc lập làm cho người ta hầu như quên cả khó khăn trong cuộc
sống, những khó khăn trong lòng các nhà lãnh đạo về tất cả mọi mặt: kinh tế, tài
chính,…


Kinh tế: nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản đã gây ra làm chết 2
triệt người chưa chấm dứt. Nạn lụt giữa năm 1945 nước lũ lên to, đê sông Hồng

bị vỡ, làm ngập lụt nhiều cánh đồng. Sau vụ chiêm 1946, có thóc mới đời sống
nhân dân khá hơn nhưng đến giữa năm, bọn nhà buôn Pháp và quân đội Tưởng



tung tiền ra vơ vét gạo gây khó khăn trong chính quyền nhân dân.
Tài chính: trong tình trạng nguy ngập
Trong bối cảnh đó, một Chính phủ bình thường cũng không đứng vững
được, nhưng khó khăn chính trị còn ghê gớm hơn nhiều, chính quyền cách mạng
chưa có chỗ đứng vững chắc đã phải chống lại sức ép từ mọi phía.
Từ 1944 sau khi Tổng thống Roosevelt qua đời, Phó tổng thống Truman lên
thay, và ông tuyên bố: “Dù thế nào, về vấn đề Đông Dương, Chính phủ tôi
GVHD: Lại Thị Hương

8

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


không phản đối uy quyền và quân đội Pháp trở lại xứ này”, đối với Pháp đó là sự
thừa nhận rõ ràng chủ quyền của họ đối với Đông Dương.
Lực lượng 20 vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy bọn tay sai Việt
Nam Cách mệnh Đồng minh hội Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh là công cụ của chính phủ Trùng
khánh và lực lượng quân phiệt Vân Nam, Quảng Tây, chúng đang thực hiện kế
hoạch “Hoa quân nhập Việt” nhằm dựng lên một chính phủ Trùng khánh. Lư
Hán và Tiêu Vân đến Hà nội nhằm âm mưu lật đổ Chính quyền Việt Minh.
Nhưng trước phong trào toàn dân ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, chúng không
thể làm được, chúng ép ta lập chính quyền ba phái có Việt Cách, Việt Quốc tham
gia. Họ xúi giục và giúp đỡ bọn Việt Cách, Việt Quốc gây tình hình không ổn

định ở Hà Nội và cách tỉnh khác.
Ở miền Nam vấn đề đã rõ: Anh đồng ý cho pháp trở lại Đông Dương và tạo
điều kiện cho Pháp tái chiếm miền Nam thì ta không có con đường nào khác là
chống lại quân Pháp. Nhưng trên miền Bắc có quân Tưởng và bọn tay sai Việt
Cách, Việt Quốc và trong một tương lai không xa sẽ có quân Pháp trở lại
Dù đang có nhiều kẻ thù, có thù trong giặc ngoài, bao giờ cũng phải nhằm
kẻ thù chính là thực dân Pháp. Đối với Trung Quốc, chủ trương của ta là hòa
hoãn, làm cho họ rút quân càng nhanh càng tốt ra khỏi miền Bắc nước ta. Quyết
định hòa hoãn với Tưởng, phía ta đã chủ trương trong lúc chấp nhận một số
nhượng bộ về kinh tế, chính trị cần phải tuân thủ nguyên tắc giữ vững chủ quyền
quốc gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện khẩu hiện “HoaViệt thân thiện” ưu đãi Hoa kiều.
2.1.2 Nội dung
Nội dung chính của chính sách “Hoa- Việt thân thiện" là tạm thời hoà hoãn
với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược ở miền
Nam (9-1945 đến 3-1946). Với những nội dung sau:


Biện pháp biểu dương lực lượng: Biện pháp đầu tiên mà chủ tịch Hồ chí Minh
và chính phủ VNDCCH thực hiện là tổ chức biểu dương lực lượng bao gồm 30
GVHD: Lại Thị Hương

9

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


vạn nhân dân thủ đô Hà Nội trong buổi chào đón Hà Ứng Khâm, Tổng tư lệnh
quân đội Tưởng và phái bộ đồng minh đến Hà Nội ngày 2/10/1945. Việc biểu
dương lực lượng là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi nước ta đang
ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” bởi: Thứ nhất nó biểu thị ý chí và sức

mạnh của nhân dân ta đoàn kết xung quanh chính phủ Hồ Chí Minh, điều này
chứng tỏ rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã và đang được sự ủng
hộ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là điều không dễ gì có được cũng
như không dễ gì thay đổi. Thứ hai hành động đó đồng thời thể hiện thiện chí, sự
hoan nghênh và mong muốn hoà với quân Tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lợi dụng mâu thuẫn, tránh xung đột Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và
linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin về vần đề lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ thù. Phép ứng xử ngoại giao khéo léo kết hợp với hiểu thấu nội bộ địch đã
khẳng định vai trò quan trọng của vị lãnh thiên tài Hồ Chí Minh, không chỉ vậy
người phần nào lấy được thiện cảm của Lư Hán bằng chứng là y gọi người là
“Hồ Chủ tịch” lời gọi ấy không chỉ minh chứng cho sự tôn trọng của Lư Hán đối
với Bác mà còn với cả bộ máy chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đối với trung tướng Tiêu Văn, Bác nắm rõ lý lịch cũng như ý định của y khi
sang Việt Nam nhìn thấu những bất đồng trong nội bộ của hắn, từ đó có những
đối sách phù hợp. Với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chính trị của Việt Nam,
tới Hà Nội thấy chính quyền ta đã thành lập y rất bực bội với sự đã rồi và tuyên
bố “Hồ Chí Minh thập đại tội” ngay lập tức Bác chủ động đến thăm y, giải thích
rõ tình hình hiện tại và đề nghị hợp tác với ta giải quyết mọi vấn đề trong quan
hệ Hoa – Việt, việc làm này ít nhiều xoa dịu tâm lý căng thẳng và giải quyết một
số hiểu lầm giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc dân đảng. Bằng tài trí
thông minh và ngoại giao nhạy bén, qua tiếp xúc nhiều Bác dần lấy được cảm
tình từ Tiêu Văn, nhờ thế phản ứng của y với chính phủ lâm thời bớt căng thẳng
hơn. Hành động ngoại giao Bác mời vợ chồng Tiêu Văn ăn cơm, tặng vợ y một
vài đồ trang sức quý giá, cho phép buôn vài tấn gạo và một số loại hàng hóa,
tưởng chừng như đơn giản, sáo rỗng nhưng lại có ý nghĩa sâu xa bởi nhận lời
GVHD: Lại Thị Hương

10


SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


“mời” của Hồ chủ tịch đại diện cao nhất của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là gián tiếp khẳng định vị thế cũng như tính hợp pháp của Chính phủ lâm
thời, hành động ấy còn thiêu cháy ý định không giao thiệp với Chính phủ ta của
Tiêu Văn, hơn nữa nó góp phần răn đe bọn tay sai của Tưởng rằng chớ có lộng
hành quá đáng. Có rất nhiều học giả đánh giá cao hành động ngoại giao này của
Bác như Philip-Đờ-Vilê viết về cuộc gặp này “Hồ chủ tịch gặp Tiêu Văn ngay
và được sự hòa hoãn của quân Tàu chặn cú đầu tiên của quân Tàu định lật đổ
Chính phủ lâm thời, điều này làm cho bọn Việt Cách hoang mang chập chừng” .
Phát hiện thấy trong hàng ngũ quân Tưởng cũng có những sỹ quan binh lính bày
tỏ đồng tình với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, Hồ chủ tịch kịp
thời ứng xử thiện chí để khuyến khích, động viên họ ngả về phe ta. Đấy là sự
sáng suốt, tài tình của Hồ Chí Minh bởi sự nhận biết nhanh chóng, bóc tách
những mâu thuẫn của từng đối tượng kẻ thù để tìm ra điểm thuận lợi cho cách
mạng nước nhà.
Bên cạnh đó, để cho quân đội Quốc dân Đảng và tay sai không kiếm cớ
xung đột, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương chập nhận một số nhượng
bộ có nguyên tắc về kinh tế, chính trị quân sự…


Kinh tế: Chính phủ Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "Quan Kim",
“Quốc tệ” đã mất giá trên thị trường, mặc dù điều đó làm cho tài chính và
thương mại của ta càng thêm nguy ngập Chính phủ và nhân dân ta nhận cung
cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra



khỏi nạn đói.

Về quân sự: Khi sang Việt Nam, quân đội Tưởng Giới Thạch là một quân đội ô
hợp. Chúng đi đến đâu là gây gổ, khiêu khích đối phó. Vì thế Đảng ta chủ
trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi vào âm mưu và
hành động khiêu khích lật đổ của chúng. Vì lợi ích của cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tỏ thái độ rất nghiêm khắc đối với những việc làm sai trái trong khi
thực hiện sách lược của Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cách cấp chính
quyền:” Phải hết sức tránh khiêu khích, không để xảy ra xung đột với quân

GVHD: Lại Thị Hương

11

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Tưởng. Nếu xảy ra xung đột thì phải biến xung đột lớn thành xung đột nhỏ,biến


xung đột nhỏ thành không có xung đột”.
Về chính trị: Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ
liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của
Tưởng) tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946
thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc
hội cho bọn Việt Quốc, Việt Cách và để họ nắm gần một nửa số Bộ trong Chính
phủ liên hiệp chính thức. Trong hoàn cảnh có nhiều Đảng phái đối lập công khai
dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá chính quyền cách mạng, Đảng ta rút
vào bí mật, Đảng ta tuyên bố tự giản tán song thực chất Đảng rút vào hoạt động
bí mật để tự bảo vệ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ diễn ra cuộc
đấu tranh một mất một còn với địch, đồng thời làm thất bại thủ đoạn vu cáo của
bọn phản động, không cho chúng kiếm cớ xung đột. Chấp nhận cho các Đảng

phái đối lập hoạt động, thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có
tính chất bắt buộc. Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân
hoá nội bộ của chúng.
Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với Tưởng và các thế lực tay sai
của chúng, Đảng và nhân dân đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu khích
lật đổ của quân Tưởng
Đến tháng 9-1946, tên lính Quốc Dân Đảng cuối cùng rút khỏi miền Bắc
Việt Nam
2.2 Ngoại giao hòa hoãn với Pháp. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
2.2.1 Tình thế mới
Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945, thực dân Pháp mất quyền cai
trị Liên Bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng khối Đồng
Minh, Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền từ tay Đế Quốc Việt
Minh được Đế Quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất nước, và
thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945

GVHD: Lại Thị Hương

12

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Theo thỏa thuận của các nước Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân
Đảng tiến vào miền Bắc Việt Nam để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc
Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam, quân Anh tiến vào với nhiệm vụ tương tự.
Rạng ngày 23/9/1945, người Pháp, dưới sự giúp đỡ của quân đội Anh, đã
dùng vũ lực buộc Lâm Ủy Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho người
Pháp. Tuy nhiên, chính quyền người Việt đã thực hiện cuộc chiến tranh du
kích để chống lại.

Ở miền Bắc, quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng vẫn công nhận chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho mưu đồ chính trị của họ. Tuy nhiên, người
Pháp cũng đã thương lượng với chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng để đưa
quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam.
Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, với 2 điểm chính:


Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và nhượng
cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như cho họ khai thác
một đặc khu tại hải cảng Hải Phòng, miễn thuế cho hàng hóa của Trung Hoa



vận chuyển sang miền Bắc Việt Nam.
Ngược lại chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng đồng ý cho Pháp thay thế quân
Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam.
Về cơ bản, hiệp ước này cho phép quân đội Pháp trở lại Bắc Việt Nam thay
thế cho quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
Đổi lại, Pháp cũng đã trả lại các tô giới của mình trên đất Trung Quốc cho chính
phủ Trung Hoa Quốc dân Đảng. Ngay sau khi “Hiệp ước Hoa-Pháp” được ký
kết, Pháp ra sức tuyên truyền rộng rãi ở Đông Dương với ý đồ gây ra áp lực đối
với chính phủ Hồ Chí Minh
Trong tình hình cấp bách này, để chuẩn bị đi đến một giải pháp hòa hoãn
với Pháp, ngày 3/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cũng với Ban thường vụ TW
thảo luận và đưa ra chỉ thị về “Tình hình và chủ trương”. Đảng nhận định, đâu
không phải là chuyện riêng giữa Hoa-Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh,
Trung Hoa với Pháp về vấn đề Đông Dương. Và Đảng ta quyết định về lập
trường giảng hòa với Pháp là độc lập nhưng lien minh với Pháp.
GVHD: Lại Thị Hương


13

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


2.2.2 Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Hòa để tiến
Trong thời gian đầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm nhiều
thành phần kiên quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương.
Nhưng sau đó những thành viên Chính phủ là Đảng viên Đảng cộng sản Đông
Dương thay đổi ý kiến muốn ký kết Hiệp định với Pháp. Theo quan điểm của
Ban Thường vụ TW 3 Đảng cộng sản Đông Dương (đã lui vào hoạt động bí
mật), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố ngày 24
tháng 3 năm 1945 thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì
hòa để phá tan âm mưu của "bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn
phát xít Nhật còn lại".
Ngày 6/3/1946 , Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt được ký kết với nội dung sau
đây:


Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia
tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, có chính



phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền
Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải
giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút




3.000 quân.
Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất với Việt



Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm
phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của
Pháp ở Việt Nam.
Về phía người Pháp, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt giúp họ đưa quân đội ra
miền Bắc Việt Nam mà không gặp sự kháng cự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
như ở Nam Kỳ, đồng thời Hiệp ước Hoa-Pháp giúp họ tránh khỏi sự cản trở của
các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc.
Về phía Việt Minh tránh được tình thế bất lợi "phải cô lập chiến đấu cùng
một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản
GVHD: Lại Thị Hương

14

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


cách mạng trong nước)", tập trung đối phó với người Pháp và "các đảng phái
phản động". Đồng thời, tranh thủ được thời gian hòa hoãn quý báu để "Bảo toàn
thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được,
chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong
trào". Một số thành viên trong Chính phủ Liên hiệp thuộc lực lượng Việt Quốc,
Việt Cách không tán thành việc này lên tiếng phản đối gây ra bất đồng sâu sắc,

dân chúng cũng có người băn khoăn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh
giải thích và động viên đồng bào để đồng bào hiểu rõ "cần phải biết chịu đựng
hy sinh để mưu sự nghiệp lớn".Về mặt chính trị, cuộc điều đình với nước Pháp
sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Nó sẽ dẫn ta đến một vị trí
ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế. Đó là một thắng lợi về mặt chính trị.
Trong chỉ thị Hòa để tiến, Ban Thường vụ Trung Ương Đảng nêu rõ tại sao
lại cầu hòa với Pháp: “Chúng ta hòa với Pháp để:



Tránh tình thế bất lợi
Bảo toàn thực lực, giành lấy giây phút nghĩ ngơi và cũng cố vị trí đã chiếm
được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và cũng cố
phong trào, tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhân cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách
mạng mới”
Một tuần sau quân Tưởng tuyên bố sẽ bắt đầu rút từ ngày 15/3/1946 và kết
thúc ngày 31/3/1946, thật ra ngày 18/9/1946 mới rút hết. Lúc này sự quan tâm
của Trùng Khánh là tiến công Quân giải phóng Trung Quốc vào tháng 7/1946,
bất chấp điều ước Song Thập và đơn phương hủy bỏ ngừng bắn đã thỏa thuận
với Đảng cộng sản Trung Quốc, quân Tưởng đã mở chiến dịch Tổng công kích
Quân giải phóng khắp nơi.
Về phía Pháp, đã xuất hiện hai xu hướng thi hành hiệp định sơ bộ. Một là
thi hành nhưng dùng sức ép quân sự buộc ta nhân nhượng về chính trị, kinh tế,
văn hóa, giữ Nam Bộ tìm cách đưa người Pháp vào Chính phủ ta đông thời duy
trì hợp tác với ta trên cơ sở trao cho ta một nền độc lập tương đối. Xu hướng thứ
hai là từ chỗ đóng quân lấn chiếm ra xung quanh, thi hành những biện pháp
nhằm thay đổi dần dần và biến kịch bản của một cuộc hành quân thuần túy quân
GVHD: Lại Thị Hương

15


SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


sự thành một kịch bản đảo chính. Sau ngày 6/3/1946, thực dân Pháp không thực
hiện ngừng bắn mà còn tăng cường càn quét, hòng lập lại chính quyền.
Về phía Việt Nam, ta thi hành nghiêm chỉnh hiệp định. Ta cử người cùng sĩ
quan Pháp thành lập Ban liên kiểm Việt - Pháp. Nhờ sự dàn xếp của ta với quân
Lư Hán và tinh thần kỷ luật của nhân dân và bộ đội ta, này 18/3 quân của tướng
LerLerc đã tới Hà Nội an toàn.
Như vậy với việc quyết đoán ký nhanh với Pháp Bản Hiệp định sơ bộ thì ta
đã nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra khỏi
miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút hết về
nước). Với việc ký kết này, ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định
song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành thỏa thuận 3 bên.
Hiệp định thể hiện chủ quyền của Việt Nam khi quy định rõ Pháp chỉ được
đưa vào miền Bắc 15.000 quân và số quân này phải rút hết trong 5 năm.
Hiệp định sơ bộ cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự của Pháp đối với
lực lượng kháng chiến Nam bộ khi đó.
Nhìn tổng thể, Hiệp định 6/3/1946 đã mở ra thời kỳ hòa hoãn tạm thời giữa
ta và Pháp, vô hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung lực lượng
bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề (“không đồng minh,
không tiền và hầu như không vũ khí” – lời của Leon Pignon, cố vấn chính trị
của Cao ủy Pháp ở Đông Dương). Từ thời điểm này đến ngày toàn quốc kháng
chiến (19/12/1946), ta có điều kiện tuyên truyền về chính nghĩa của ta và có
thêm thời gian quý báu để xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến dài lâu.
Trong bối cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công nhận, thì
việc thương lượng với Pháp rồi ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ tịch
nhận định, đã “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta đến một
vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”. Thực tế đã chứng minh việc ký

kết Hiệp định sơ bộ này là một thắng lợi lớn của Đảng ta và ngành ngoại giao
Việt Nam. Bài học rút ra từ Hiệp định này không chỉ là sự mềm dẻo, nhân
nhượng có nguyên tắc mà còn là nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ
GVHD: Lại Thị Hương

16

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


kẻ thù (cụ thể là trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội bộ quân Tưởng Giới
Thạch, và giữa Pháp và Tưởng), cũng như nghệ thuật đón lòng và tận dụng đúng
thời cơ.
Hội nghị trù bị ở Đà Lạt:
Còn gọi là Hội nghị trù bị Đà Lạt họp từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 12
tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, là một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt
và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Phông ten nơ blô chính thức vào tháng 7 năm ấy.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, Hồ Chí Minh muốn có một hội
nghị giữa Việt và Pháp tại Paris để bàn định tương lai của nước Việt Nam và làm
rõ những điểm đã nêu trong Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, với địa vị hai nước
và 2 sứ bộ ngang nhau, nhưng Toàn quyền Đông Dương không chấp thuận, mà
muốn một hội nghị tại Việt Nam để đặt những sự điều đình vào nội bộ địa
phương mà thôi .
Theo ông Hoàng Xuân Hãn, trong khi chọn lọc ủy viên tham dự hội nghị,
chính phủ Việt Nam lúc đó đã chú ý chọn mời những nhân vật có tiếng ở Nam
Bộ, Nam Trung Bộ và sự có mặt của những nhân vật không đảng phái càng tỏ sự
đoàn kết của người Việt trong thời bắt đầu độc lập . Tuy đây chỉ là một Hội nghị
dự bị nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt vào thời điểm ấy, vì là lần đầu tiên có
một hội nghị điều đình có tầm vóc quốc gia của Chính phủ Việt Nam độc lập
(khi đó mang tên Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến). Chính phủ Việt Nam cũng

đã đề nghị, và Pháp đã chấp thuận, một phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang thăm
nước Pháp do Phạm Văn Đồng dẫn đầu .
Hội nghị Phông ten nơ blô
Phái đoàn Chính phủ Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái
đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6-7, cuộc đàm phán khai
mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội nghị
trù bị Đà Lạt đối với những vấn đề cơ bản (chế độ chính trị, quan hệ ngoại giao
của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam…) quyết định quan hệ giữa hai
nước Việt – Pháp.
GVHD: Lại Thị Hương

17

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Phái đoàn Chính phủ Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái
đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6-7, cuộc đàm phán khai
mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội nghị
trù bị Đà Lạt đối với những vấn đề cơ bản (chế độ chính trị, quan hệ ngoại giao
của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam…) quyết định quan hệ giữa hai
nước Việt – Pháp. Mặc khác, Chính phủ Pháp dung túng cho bọn thực dân hiếu
chiến ở Đông Dương thực hiện từng bước chính sách lấn dần, trắng trợn phá
hoại Hiệp định sơ bộ. Vì thế, cuộc đàm phán phải đình chỉ vào ngày 10-9. Trước
khi lên đường về nước, phái đoàn Chính phủ Việt Nam ra một bản tuyên bố.
Đoàn về đến Hải Phòng ngày 3-10.
Thực hiện chủ trương hòa hoãn, việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3, Tạm ước
14/9 của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. Hòa với Pháp chúng
ta tránh được tình trạng một lúc phải đối đầu giữa hai lược lược quân sự hung
mạnh là Tưởng và Pháp, có them thời gian hòa bình để củng cố và phát triển lực

lượng, tích lũy kinh nghiệm sẵn sang đối phó với Pháp.
Việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 và những hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp có ý nghĩa vô cũng quan trọng to lớn đối với
việc khẳng định và nâng cao vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoa trên trường
quốc tế

GVHD: Lại Thị Hương

18

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


C. KẾT LUẬN
Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kí 1945-1946 rất linh hoạt,
khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kì này là đối sách và
ứng xử tài tình cũng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước
ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa các nước
lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi họ cần sẵn sang
thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam, tìm
cách áp đặt với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã khéo léo lợi dụng mâu
thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp với từng đối tượng giữ
Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột của Tưởng, kiên quyết kháng
chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi
Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp ra Bắc.
Đánh giá thời kỳ này, cố Tổng bí thư Lê Duẫn cho rằng:”lúc thì tạm hòa
với Tưởng để rãnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn với Pháp để
đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời
gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện

pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong lịch sử nước ta như một mẫu
mực tuyệt vời của sách lược Lê nin về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”.
Như vậy thực tế đã chứng minh rằng thời kỳ ngoại giao 1945-1946 đó mãi
đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc như những năm tháng không thể nào quên.
Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã góp phần xuất sắc bảo vệ chủ quyền và nền độc
lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo điều kiện tranh thủ
thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất
để phát triển đất nước, nâng cao vị thế mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Chung quy lại, chính sách ngoại giao Việt Nam thời kì này là ngoại giao đa
phương, linh hoạt dựa trên nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhân nhượng
nhưng có nguyên tắc và lợi dụng tranh thủ mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
GVHD: Lại Thị Hương

19

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang


Những chính sách ngoại giao này hình thành từ những ngày đầu đất nước
Việt Nam được thành lập, đã đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nma cách mạng
và hiện đại. Những chính sách này xuyên suốt trong quá trình phát triển của
ngoại giao Việt Nam cũng như quá trình phát triển đất nước và đã để lại khá
nhiều thành tựu to lớn cho sau này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Vũ, Nguyễn Thái Anh, (2008), Hồ Chí Minh về nghệ thuật
ngoại giao, Nxb Thanh niên
[2] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb

Công an nhân dân Hà Nội-1996
[3] Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hân, (2000), Đại cương
lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục
[4] Http:/google.com.vn/ Lịch sử ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1946
[5] Sách Lịc sử Việt Nam lớp 12 nâng cao, Nxb Giáo dục

GVHD: Lại Thị Hương

20

SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang



×