Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Bài tiểu luận nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn hoc nước ngoài trong nhà trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.63 KB, 55 trang )

Bài tiểu luận
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TÁC PHẢM VĂN HOC
NƯỚC NGOÀI TRONG NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát
triển đồng bộ, của tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau trong
đó có giáo dục. Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện,
không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân
cách của con người- những con người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết
cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình. Môn Ngữ văn
trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng cách cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước
ngoài. Đặc biệt với bộ môn Ngữ Văn đang có những thay đổi quan trọng về cách
dạy, cách học, cũng như chương trình nội dung sách giáo khoa, để phù hợp với
xu thế chung của thời đại.
Vị trí của văn học nước ngoài trong chương trình văn học nhà trường rất
quan trọng. Văn học nước ngoài được lựa chọn giảng dạy ở trường THPT chiếm
một thời lượng không nhỏ trong chương trình và là sự kết tinh tinh hoa của văn
học thế giới, đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của không gian và của
thời gian. Ta bắt gặp ở đó những đỉnh cao như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Ba sô, Sêchxpia, Sêkhôp, Puskin, Lỗ Tấn, Sô-lô-khôp.với những tác phẩm nổi tiếng. Nhìn
chung đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, tinh thần dân tộc có tác
dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách. Không chỉ thế
việc tiếp nhận các giá trị văn hóa lớn sẽ tạo điểm tựa tốt cho chúng ta xây dựng
con người Việt Nam hiện đại, là cơ sở cho vấn đề hội nhập văn hóa thế giớimột vấn đề mang tính tất yếu hiện nay.

Sinh viên: Hà Thị Hồng

1

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55



Bài tiểu luận
B. NỘI DUNG
1. Thống kê, khảo sát chương trình văn hoạc nước ngoài trong nhà trường
THPT
Lớp 6 (1 tác phẩm)

TT

Tác phẩm

Tác giả

Tên nước

Thể loại

1

Buổi học cuối cùng

Đô-đê

Pháp

Truyện ngắn

Lớp 7 (4 tác phẩm)
TT
1


Tác phẩm
Xa ngắm thác núi

Tác giả

Tên nước

Thể loại
Thơ trữ tình- thất



Lý Bạch

Trung Quốc

ngôn tứ tuyệt Đường
luật.

Cảm nghĩ trong
2

đêm thanh tĩnh

Trung Quốc

Lý Bạch
Ngẫu nhiên viết


3

4

nhân buổi mới về
quê
Bài ca nhà tranh
bị gió thu phá

Sinh viên: Hà Thị Hồng

Thơ trữ tình-thất ngôn
tứ tuyệt Đường luật.
Thơ trữ tình- thất

Lý Bạch

Trung Quốc

Đỗ Phủ

Trung Quốc

2

ngôn tứ tuyệt Đường
luật.
Thơ trữ tình- thất
ngôn trường thiên.


Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
Lớp 8 (6 tác phẩm)
TT

Tác phẩm

Tác giả

Tên nước

1

Cô bé bán diêm

An-đéc-xen

Đan Mạch

Xéc-van-téc

Tây Ban Nha

Tiểu thuyết

O-hen-ri
Ai-ma-tốp
Ru-xô


Mĩ
Cư-rơ-gư-xtan
Pháp

Truyện ngắn
Truyện ngắn
Tiểu thuyết

Mô-li-e

Pháp

Hài kịch

2
3
4
5
6

Đánh nhau với cối
xay gió
Chiếc lá cuối cùng
Hai cây phong
Đi bộ ngao du
Ông Giuốc-đanh
mặc lễ phục

Thể loại

Truyện ngắn-cổ
tích

Lớp 9 (6 tác phẩm)
TT
1
2
3
4
5
6

Tác phẩm
Cố hương
Những đứa tre
Mây và sóng
Rô-bin-xơn
ngoài đảo hoang
Bố của Xi-mông
Con chó Bấc

Tác giả
Lỗ Tấn
M.Gor-ki
Ta-go

Tên nước
Trung Quốc
Nga
Ấn Độ


Đi phô

Anh

Mô-pa-xăng
Giắc lân-đơn

Pháp
Mĩ

Thể loại
Truyện ngắn
Tiểu thuyết
Thơ trữ tình-tự do
Tiểu thuyết phiêu
lưu
Truyện ngắn
Tiểu thuyết

Lớp 10 (10 tác phẩm)
TT
1
2

3

4
5
6

7

Tác phẩm
Uy lít xơ trở về
Ra ma buộc tội
Tại lần Hoàng
Hạc tiễn Mạnh
Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng
Cảm xúc mua
thu
Thơ Hai-cư của
Ba sô
Lầu Hoàng Hạc
Nỗi oán của

Sinh viên: Hà Thị Hồng

Tác giả
Home-rơ

Tên nước
Hi Lạp
Ấn độ

Thể loại
Sử thi
Sử thi

Lý Bạch


Trung Quốc

Thơ trữ tình

Đỗ Phủ

Trung Quốc

Thơ trữ tình

Ba-sô

Nhật Bản

Thơ

Thôi Hiệu
Vương

Trung Quốc
Trung Quốc

Thơ trữ tình
Thơ trữ tình

3

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55



Bài tiểu luận
người phòng
8
9

10

khuê
Khe chim kêu
Hồi trống cổ

Xương Linh

thành
Tào tháo uống
rượu luận anh
hùng

Sinh viên: Hà Thị Hồng

Vương Duy
La Quán
Trung
La Quán
Trung

4

Trung Quốc


Thơ trữ tình

Trung Quốc

Tiếu thuyết

Trung Quốc

Tiểu thuyết

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
Lớp 11 (5 tác phẩm)
TT
1

Tác phẩm
Tình yêu và thù

2
3
4

hận
Tôi yêu em
Bài thơ tình số 28
Người trong bao

Người cầm

5

quyền khôi phục

Tác giả

Tên nước

Thể loại

Sếch-xpia

Anh

Kịch

Pu-skin
Ta-go
Sê-khốp

Nga
Ấn độ
Nga

Thơ trữ tình
Thơ trữ tình
Truyện ngắn


Victo-Huy gô

Pháp

Tiểu thuyết

uy quyền
Lớp 12 (3 tác phẩm)
TT
1
2
3

Tác phẩm
Thuốc
Số phận con
người
Ông già và biển
cả

Tác giả
Lỗ Tấn

Tên nước
Trung Quốc

Thể loại
Truyện ngắn

Sô-lô-khốp


Nga

Tiểu thuyết

Hê-min-uê

Mĩ

Tiểu thuyết

→ Các tác giả, tác phẩm được chọn giảng dạy trong chương trình đều có
tính tiêu biểu cho giai đoạn, trường phái, trào lưu văn học mà nó thể hiện. Văn
học của nhiều quốc gia được đưa vào chương trình một cách đáng trân trọng và
yêu quý. Đó là những tinh hoa văn hoá nhân loại mà Việt Nam hay bất kỳ một
quốc gia nào cũng cần phải nghiên cứu tìm hiểu, học tập để làm giàu thêm tri
thức văn học cho bản thân công chúng văn học nước mình.
2. Những khó khăn và thuận lợi khi dạy văn học nước ngoài:
Vị trí của văn học nước ngoài nhà trường Trung học phổ thông là rất quan
trọng, nó là sự kết tinh những tinh hoa văn hoá nhân loại. Ai đó đã từng nói rằng
“Trên con đường thành công không có dấu chân ke lười biếng” . Và muốn đi sâu
tìm hiểu một tác phẩm nào đó đặc biệt là tác phẩm văn học nước ngoài chúng ta
phải tìm hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn còn gặp phải trong quá trình học
tập để từ đó rút ra được những biện pháp nhằm khắc phục yếu tố tích cực và

Sinh viên: Hà Thị Hồng

5

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55



Bài tiểu luận
phát huy những thuận lợi để có hiệu quả tối ưu nhất trong công tác dạy và học ở
nhà trường.
Thuận lợi:
- Khi học văn học nước ngoài cung cấp cho học sinh những giá trị tư
tưởng, và có cơ hội cho các em tiếp xúc với những nét nghệ thuật đặc sắc, hoành
tráng đồ sộ. Điển hình ở lớp 10 THPT học các tác phẩm của văn học Hi Lạp, đối
tượng học sinh lớp 10 đã lớn , bắt đầu mở rộng cách nhìn, cách đánh giá giá trị
nhân văn của nhân loại, sức tưởng tượng phong phú. Ví dụ:
Ở đoạn trích Uy Lít Xơ trở về bằng đoạn Uy Lít Xơ đấu trí đấu lực với Pô
Li Phe. Trên con đường đi đến hoà bình cũng có những nguy hiểm chết người,
mất mạng và mất tính người mà con người luôn đấu tranh để giữ lấy nó. Đức
tính gan dạ, mưu trí vượt qua khó khăn qua hình tượng chàng dũng sĩ điều đó
góp phần không nhỏ đến tác dụng giáo dục niềm tin ý chí cho học sinh phổ
thông trong hoàn cảnh hiện tại và tương lai.
Hay học các tác phẩm Ấn Độ Cổ đại trong sử thi Ramayanna khi tìm hiểu
đoạn trích Rama buộc tội cũng là điều kiện để cho người dạy và người học nắm
bắt được những nét tinh hoa độc đáo cả về tư tưởng lẫn thể loại, các giá trị nhân
văn lẫn giá trị dân tộc.
- Và qua đọc một số tác phẩm thơ Đường, văn học Trung Quốc là nền văn
học phong phú và lâu đời có mối liên hệ gần gữi với Việt Nam về nhiều mặt.
Thơ Đường thoải mái chan hoà vào đời sống tinh thần văn hoá của người Việt
Nam.
- Đến với văn học Nhật Bản tác giả đã đưa vào một đơn vị bài thơ Haiku
của Basho, thơ Haiku giản dị, cô đúc tinh luyện đến tối thiểu tiết kiệm lời văn
mà dồi dào ý nghĩa đem lại cho người dạy cũng như người học cái nhìn mới me
để từ đó tạo hứng thú mạnh mẽ.
- Vì đây là những tác phẩm nước ngoài, và vì đặc điểm của người Việt

Nam ưa tìm tòi khám phá nên đã kích thích được sự chủ động mở mang hiểu
biết của học snh, mở mang thêm những vùng đất mới, phong tục tập quán, cách

Sinh viên: Hà Thị Hồng

6

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
hành xử mới để từ đó người dạy và người học lấy làm kinh nghiệm cho bản
thân.
- Đến với chương trình Ngữ văn 11 với một số tác phẩm và đáng chú ý là
vở Roomeo và Juliet, chuyện tìn ngang trái có thật xảy ra ở Iliast thời trung cổ, ở
độ tuổi lớp 11 đề tài tình yêu sẽ được các em hứng thú và sẽ tìm ra nhiều ý kiến
mới me về tình yêu giúp chủ động hơn trong quá trình dạy học.
Hay với truyện ngắn “Người trong bao” tư tưởng truyện ngắn có phần phù
hợp với những vấn đề được đặt ra cho thời đại chúng ta, trong cơ chế thị trường
con người chịu sự tác động khắc nghiệt làm cho chúng ta luôn phải đấu tranh
giữa cái tốt và cái xấu, cái cao cả và cái thấp hèn, cá nhân và cộng đồng
- Các tác phẩm được đưa vào chương trình đó là những đỉnh cao kết tinh
tất cả những giá trị nhân văn cao cả.
Đọc đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” tầm vóc của
Hugo không chỉ được thấy qua thơ mà còn ở cả tiểu thuyết. Qua đó đem đến cho
học sinh những hiểu biết cảm nhận chính xác hơn cụ thể hơn.
- Vấn đề chiến tranh và hậu quả của chiến tranh vốn là đề tài quen thuộc
của văn học Việt Nam khi học văn học nước ngoài cùng chung đề tài này thì là
một điều kiện vô cùng thuận lợi, lúc này học sinh có những rung cảm và cảm
xúc thẩm mĩ riêng. Các em sẽ ý thức sâu sắc răng để có được cuộc sống hoà

bình như ngày hôm nay thì ngoài kia có biết bao nhiêu người đã ngả xuống.
- Điều đáng nói ở đây là môn văn học nước ngoài được sắp xếp theo thể
loại, theo lịch sử từ cổ đai đến hiện đại giúp cho người dạy cũng như người học
tìm hiểu một cách có hệ thống nền văn học thế giới.
- Tư tưởng trong một số tác phảm phù hợp với một số tư tưởng văn hoá
dân tộc ta.
- Tài năng thanh lọc nội dung tác phẩm của giáo viên.
Khó khăn:
Thực tế chương trình sách giáo khoa có sự thay đổi, vì vậy không có lí gì
mà người dạy và người học văn chỉ “dậm chân tại chỗ”. Đặc biệt chúng ta không
chỉ quan tâm và hứng thú với những tác phẩm văn học nước nhà, mà còn cần
Sinh viên: Hà Thị Hồng

7

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
chú ý tìm tòi, cảm nhận sâu sắc nữa với những tác phẩm văn học nước ngoài.
Thế nhưng, nó dường như vẫn chưa được quan tâm đúng mức, dường như vẫn
còn là một mảnh đất thiêng với cả giáo viên và học sinh do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan khác nhau.Giáo viên thì thụ động, ngại nghiên cứu nên
cũng không có được những phương pháp dạy học sáng tạo để cuốn hút học sinh.
Học sinh thì cũng ngại học nên đã có những suy nghĩ mơ hồ hoặc là sai lệch về
các tác phẩm văn học đích thực đó. Phải chăng sự cách biệt về văn hóa, về ngôn
ngữ là một rào cản quan trọng khiến văn học nước ngoài ít được chủ động đón
nhận ở trường phổ thông?
Bên cạnh những thuận lợi thì việc học văn học nước ngoài trong nhà
trường trung học phổ thông có những khó khăn nhất định.

- Do nền văn hoá khác nhau nên khó khăn trong việc tiếp nhận các tác
phẩm. Ví dụ: đọc đoạn trchs “Đánh nhau với cối xay gió” là người Việt Nam và
đặc biệt thé hệ tre chưa một lần nhàn thấy cối xay gió thì sẽ khó khăn trong việc
tiếp nhận nội dung tác phẩm.
- Do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội khác nhau, các em đang sống ở
thời đại hoà bình không biết gì về chiến tranh nên khi đọc và phân tích “Thuốc”
của Lỗ Tấn học sinh sẽ không nhận thức và thấu hiểu được một đất nước trung
hoa đang cần một phương thuốc tinh thần để chữa bệnh cho chính họ. - - Người
dạy cũng không đủ vốn kiến thức để mở rộng, dẫn dắt học sinh nắm bài nhanh
hơn. Trước sự phát triển rầm rộ của văn học phương Tây thì bên này đại dương
nhân dân họ sống hư vô, tin vào dị đoan, háo danh vô bổ.
- Vấn đề tiếp nhận các văn bản thường qua bản dịch hay còn gọi là “Hàng
rào ngôn ngữ” nên học văn học nước ngoài cả người dạy và người học gặp khó
khăn trong việc phân tích đánh giá tác phẩm.
- Mặt khác những tác phẩm đưa vào giảng dạy là những đỉnh cao của
nghệ thuật.Moolie đỉnh cao của hài kịch… học sinh rất khó tiếp nhận mắc dù có
hứng thú. Ta có thể dễ dàng nhìn thấy rằng với trình độ học sinh bậc THCS và
THPT không đủ khả năng để nhìn nhận đánh giá đún nội dung mà tác giả đề
cập.
Sinh viên: Hà Thị Hồng

8

Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
- Do hạn chế về mặt không gian và thời gian, một tác phẩm văn học nước
ngoài đã khó hiểu nhưng lượng thời gian quá ngắn thì sẽ không đi sâu mổ xe
được vấn đề

- Sự khác biệt về văn hoá, dân tộc, phong tục tập quán, hiểu biết về văn
hoá – xã hội của học sinh quá yếu. thực chất tư duy của học sinh thực tế đến
mức thực dụng, đi theo hướng tiêu cực, học sinh không chịu đọc trước tác phẩm,
có những em còn hiểu ngô nghê sai lệch về nội dung tác phẩm. Ví dụ: khi hỏi
“Cảm nhận của em về Puskin khi đọc Tôi yêu em ? thì học sinh trả lời rằng “Đó
là một người hèn nhát không đấu tranh vì tình yêu”.
- Một thực tế mà người dạy văn nào cũng không thể không biết đó là từ
lâu nay bộ phận văn học nước ngoài ít nằm trong chương trình kiểm tra đánh
giá, thi cử chính điều đó khiến học sinh và giáo viên coi nhẹ học phần này.
Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là sự tác động
của thực tế xã hội. Do nền kinh tế phát triển nhanh nên hiện nay học sinh đều
hướng đến khoa học tự nhiên mà xem nhẹ Khoa học xã hội không chỉ thể hiện
rõ ở quá trình học và ở xu hướng chọn nghành nghề. Điều này dẫn đến thực
trạng đáng buồn khi các em đến với văn học một cách hời hợt.
- Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho bài dạy, chưa nắm bắt đúng tinh thần
của việc tiếp nhận. Giáo viên không chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tiếp
nhận một tác phẩm văn học mà chỉ chú tâm đến việc mình chỉ truyền đạt được
bao nhiêu kiến thức mà không chú ý đến việc cung cấp chìa khoá cho học sinh
để mở ra cánh của mới. Rất nhiều giáo viên đã không chú ý đến đổi mới phương
pháp giảng dạy. Phương pháp chủ yếu của giáo viên chủ yếu vẫn là thuyết
giảng- giáo viên làm thay công việc của học sinh.Điều này hoàn toàn đi ngược
lại mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay.Cũng bởi thực tế đó
nên các tiết học chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi tiếp cận, cắt nghĩa tác
phẩm. Điều này đã tạo ra sự bị động cho học sinh và không thực hiện các tính
chất của quá trình tiếp nhận văn chương. Thông thường trong các tiết dạy, giáo
viên chỉ chú trọng chuyển tải về mặt nội dung mà ít hướng dẫn cho học sinh tạo
ra một chìa khóa để có thể mở bất cứ tác phẩm nào cùng thể loại. Đây cũng là
Sinh viên: Hà Thị Hồng

9


Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
tồn tại chung hiện nay. Do tiếp cận theo hướng này mà chúng ta đôi khi tìm hiểu
tác phẩm chỉ ở góc độ xã hội học chứ chưa đi theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Không chỉ thể, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm, rất nhiều giáo viên
không chú ý đến tính tích hợp. Chẳng hạn, không tìm ra mối liên hệ giữa các tác
phẩm, các nền văn học. Chẳng hạn, trong chương trình lớp 10, có thể liên hệ khi
dạy 3 tác phẩm sử thi (Ô-đi-xê của Hy Lạp, Ra-ma-y-a-na của Ấn Độ, Đam San
của Việt Nam) để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt nhưng nhiều
giáo viên đã không để ý đến điều đó. Một thực tế nữa cũng dễ nhận thấy là rất ít
GV sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học tích cực. Dường như xuất phát từ
quan điểm không thi, không nằm trong phạm vi kiểm tra đánh giá nhiều lắm nên
GV cũng chỉ dạy qua loa, chiếu lệ
- Giáo viên không đặt tác phẩm vào vào bầu không khí văn hóa, lịch sử
của dân tộc sản sinh ra nó Văn học là sản phẩm tinh thần của một nhà văn nhưng
nhà văn lại kí thác trong đó nhưng ước mơ, khát vọng của mình, của dân tộc
mình và thời đại mình đúng như O.Banzac từng nói "Nhà văn là người thư kí
trung thành của thời đại". Bởi lẽ đó một tác phẩm văn học bao giờ cũng được
sản sinh trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và chính hoàn cảnh đó sẽ chi phối
nhiều đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Nhưng nhiều giáo viên đã lãng quên
đi mất điều này. Không phải là chúng ta sa đà vào khám phá tác phẩm theo
hướng xã hội học nhưng đó vẫn là yếu tố cần thiết. Hơn nữa, mỗi một dân tộc,
mỗi một vùng miền có một có cái những nét văn hóa khác nhau, giáo viên phải
nắm vững điều này để tạo điểm tựa vững chắc khi tiếp cận tác phẩm. Chẳng hạn,
về phương thức sống, nếu phương Tây hướng ngoại thì phương Đông lại hướng
nội.Nhưng một số giáo viên do ngại đọc, ngại vận động nên kiến thức nền ở vấn
đề này vẫn còn hạn hế. Và một lẽ tất nhiện, khi những vấn thuộc về kiến thức

nền tảng mà giáo viên không vững thì chắc chắn khả năng giúp học sinh chiếm
lĩnh tri thức sẽ giảm đi rất nhiều
- Chúng ta mỗi giáo viên là kĩ sư tâm hồn nhưng chưa phải là người nghệ
sĩ thực thụ, chúng ta chưa nghĩ đến đổi mới phương pháp, không đưa văn học về
với cuộc sống. chỉ cần thay đổi một tí trong phương pháp. Ví dụ: dạy “Tôi yêu
Sinh viên: Hà Thị Hồng

10 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
em” của Puskin nếu giáo viên cho học sinh trình bày quan điểm riêng của mình
về tình yêu thì lú đó giáo viên chỉ cần đúc rút lại thì học sinh sẽ hứng thú hơn.

Sinh viên: Hà Thị Hồng

11 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
3. Đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng giờ dạy văn học nước ngoài
GIẢI PHÁP CHUNG
Thực trạng day và học tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông
có nhiều kết quả khả quan. Song để kết quả này không ngừng được nâng cao thì
việc đổi mới phương pháp dạy học vẫn luôn đặt ra những yêu cầu cấp thiết. Đặc
biệt lý thuyết tiếp nhận hiện nay được xem là cơ sở lý luận có nhiều ưu thế khi
áp dụng để đổi mới phương pháp dạy học văn theo hướng phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh.. Thể hiện ước muốn góp phần vào công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học của ngành giáo dục hiện nay, tôi mạnh dạn đưa ra những
giải pháp về việc ứng dụng lí thuyết tiếp nhận của trường phái Konstan vào

giảng dạy những tác phẩm văn học nước ngoài để không ngừng nâng cao chất
lượng học tập của học sinh phổ thông .
Phần khảo sát thực trạng trên, tôi đã cơ bản nêu lên những nguyên nhân
còn hạn chế trong công việc giảng dạy của giáo viên cũng như học tập của học
sinh. Từ đó cho thấy rằng, muốn nâng cao được chất lượng dạy học tác phẩm
văn học nước ngoài không phải là việc làm từ một phía mà là sự tương tác qua
lại nhiều chiều trong mối quan hệ Giáo viên – Tác phẩm – Học sinh.
3.1. Yêu cầu đối với học sinh
- Hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài đòi hỏi học sinh phát
huy tối đa tính tích cực sáng tạo trong khi học. Theo lí thuyết tiếp nhận, vị trí
người học là vô cùng quan trọng. Tác phẩm văn học không những có giá trị tự
thân mà tư tưởng của nó phải được gia cố thêm ở mỗi người. Vì lẽ đó trong giờ
học, mối quan hệ học sinh – tác phẩm là chủ yếu. Học sinh phải là chủ thể trong
hoạt động tiếp nhận đầy sáng tạo ấy. Mối quan hệ Giáo viên – Tác phẩm , Giáo
viên – Học sinh là quan hệ phụ. Giáo viên không phải là người cảm nhận thay
cho học sinh mà chỉ có thể là nhân tố tác động vào hoạt động tiếp nhận của các
em để hoạt động này diễn ra thuận lợi, không gò bó. Muốn tránh được những
“phản ngộ” đáng tiếc, học sinh phải thực sự là người đối thoại với tác giả, tìm
cách giải tỏa nổi ấm ức của mình. Có học sinh nói rằng: “bài của mấy ổng khó
học quá”. Đây là một nỗi bức xúc trong lòng các em mà chỉ có những dịp trao
Sinh viên: Hà Thị Hồng

12 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
đổi với giáo viên thực tập như chúng tôi các em mới có dịp thổ lộ. Suy cho
cùng, học sinh phải tự vận động tìm ra được những vấn đề mà nhà văn gởi gắm
trong tác phẩm thì mới “hiểu” được họ. Tiến xa hơn, đồng cảm hay ký thác vào
tác phẩm những “chuyện hôm nay”, những vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc

sống mà các em quan tâm như tình bạn, tình yêu, hạnh phúc… Lúc đó các em
không còn cảm thấy xa lạ với những tác phẩm, tác giả văn học nước ngoài. Tình
bạn trong “Hoàng Hạc Lâu tống Manh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, tình yêu
quê hương trong “thu hứng”, tình yêu trong thơ Tagore, Puskin, ý chí kiên
cường bấc khuất chinh phục thiên nhiên, lao động hết mình trong “Ông già và
biển cả”, đấu tranh chống cái ác cái xấu bảo vệ danh dự, uy quyền trong Hamlet,
giá trị tố cáo trong “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”, bí ẩn mà gần gũi
trong “Liêu trai chí dị”, hạnh phúc, ca ngợi con người trong “ Một con người ra
đời” Gorki …và còn vô số giá trị khác nữa tiềm ẩn như những mạch nước ngầm
chờ đợi người đọc khơi nguồn thì bật trào ra tươi mát.
- Để làm được điều đó, học sinh phải là người năng động ham học hỏi và
mạnh dạn phát biểu, suy nghĩ tìm tòi, thể hiện và giữ vững ý kiến của mình về
những vấn đề trong khi tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc khuyến khích các em thắc mắc, bức xúc khi phát hiện
những điều mà các em chưa chấp nhận trong quá trình giáo viên phân tích, giảng
dạy.
- Ngoài ra, tự thân học sinh phải biết vận động tích lũy, đọc, tự nghiên
cứu sách tham khảo …để ngày càng nâng cao tầm đón nhận của mình, đuổi kịp
nhịp độ học tập của bạn bè. Học sinh không được lười đọc, không nên ỷ lại vào
bài giảng và phân tích của giáo viên, và đặc biệt nên cố gắng khắc phục tính thụ
động trong tiếp nhận tác phẩm văn học. Bởi vì cố gắng đến đâu giáo viên cũng
không làm gì được nếu bản thân các em không có chút hứng thú về vấn đề, về
tác phẩm trước mắt, không chịu đối thoại và tìm hiểu tư tưởng tác giả, thờ ơ với
bài học.
3.2. Đối với giáo viên
- Giáo viên phải có kinh nghiệm thẩm mỹ
Sinh viên: Hà Thị Hồng

13 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55



Bài tiểu luận
- Giáo viên phải nắm vững trọng tâm bài học và hướng khai thác tác phẩm
đó. Chẳng hạn khi phân tích thơ Đường thông thường theo bố cục đề – thực –
luận – kết, nhưng cũng có bài giáo viên linh hoạt phân tích theo cấu trúc 4/4 như
“Thu hứng”. Bốn câu đầu là cảnh rừng thu, khí thu, sông thu, trời thu. 4 câu sau
là con người. Có như vậy giáo viên mới là người chỉ điểm cho học sinh nhanh
chóng khai thác tác phẩm không chỉ đúng mà còn trúng. Có được những gợi ý
thích đáng để học sinh không chỉ thấy được câu chuyện “Một con người ra đời”
không đơn thuần là chuyện sanh nở mà là sự xuất hiện của con người – thành
quả của tạo hóa. Có được những liên hệ phong phú về xã hội đời Đường, về
cuộc đời của quan Giang Châu tư mã, mới có thể cho học sinh thấy được rằng
lời than “Cùng một lứa bên trời lận đận” của Bạch Cư Dị là có lý do…
Tóm lại:
- Yêu cầu cao nhất trước nhất là giáo viên phải có vốn am hiểu nhất định
về tác phẩm văn học nước ngoài mà mình phụ trách giảng dạy.
- Giáo viên phải nắm được tầm đón nhận của học học sinh PTTH. Giáo
viên là người am hiểu và dự kiến được trình độ thực tế của học sinh, để có kế
hoạch cụ thể phù hợp, làm sao có thể đảm bảo cho học sinh toàn lớp có cơ hội
phát huy sáng tạo đồng đều, không có em nào theo không kịp; nhưng cũng đảm
bảo các em khá giỏi có được phát huy hết năng lực học tập của mình. Việc làm
này không dễ, nó đòi hỏi giáo viên có sự khéo léo trong tổ chức giảng dạy.
Ngoài ra, giáo viên còn phải nắm được sở thích của các em. Một điều khá lý thú
khi khảo sát là học sinh cho rằng tác phẩm không gần gũi, chỉ nói đến chiến
tranh… Đó là cơ sở để biết được nguyện vọng của các em. Giáo viên nắm được
nguyện vọng này sẽ dễ dàng hơn trong những bước lên lớp cũng như chuẩn bị.
Chẳng những thế mà còn là cơ sở để giáo viên tổ chức ngoại khoá, hay chuyên
đề, chuyên san cho học sinh tự do thoải mái phát huy sáng tạo. Không phải dạy
để học sinh có cảm nhận giống mình mà giáo viên phải phấn đấu để học sinh
nhờ vào những gợi ý để bày tỏ ý kiến chủ quan, những cảm nhận thật sự từ

chính tâm tư tình cảm của các em, không chút gì gò bó.

Sinh viên: Hà Thị Hồng

14 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
- Giáo viên còn phải có trách nhiệm mở rộng tầm đón nhận của học sinh
để không đơn thuần là việc học mà còn ở những lĩnh vực nghệ thuật khác có liên
quan đến việc học.
- Giáo viên biết lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh: ý kiến này có liên
quan đến yêu cầu 2 nhưng mở rộng hơn. Học là cho học sinh vì thế không lý nào
những ý kiến của các em lại không được tôn trọng. Học sinh là chủ thể tiếp nhận
tác phẩm văn học. Trong những hoạt động đó, những suy luận, những thắc mắc
được nêu ra thôi thúc các em tìm câu trả lời. Lúc này vai trò của giáo viên được
phát huy, giáo viên lắng nghe ý kiến đó để giải đáp cũng để bổ sung cho bài
giảng và điều chỉnh nếu thấy cần thiết, học sinh phổ thông rất chú trọng điểm số
do vậy khi phát biểu hay nêu yêu cầu gì các em rất ngại liên quan đến điểm học
tập của các em sợ sẽ sai bị trừ điểm. Vì vậy, giáo viên nên tránh tạo tính uy
quyền tuyệt đối trong dạy học, tránh nhồi nhét truyền thụ một chiều làm hạn chế
khả năng sáng tạo hết sức dồi dào của học sinh.
- Giáo viên có thái độ trân trọng đối với những ý kiến hay, sáng tạo của
học sinh và kịp thời uốn nắn những phát hiện lệch lạc hay xa đà vào tiểu tiết của
học sinh để điều chỉnh cho phù hợp với ý đồ của tác giả.
Qua quá trình này giáo viên cũng phần nào bổ sung thêm kiến thức thẩm
mỹ của mình và hoàn thiện hơn thiết kế bài giảng sau này hoàn chỉnh hơn.
- Giáo viên rèn luyện cho học sinh có nhu cầu bộc lộ suy nghĩ, tình cảm
về tác phẩm qua hoạt động trao đổi, thảo luận. Thầy cô phải có biện pháp thu
hút các em tham gia thảo luận, thậm chí tranh luận về những vấn đề bài học.

Được như vậy, sau khi giải quyết xong vấn đề các em cảm thấy thoả mãn và
“chính ngộ” được, thậm chí “bừng tỉnh”. Muốn vậy, trước hết giáo viên phải
hướng dẫn các em thử đặt vấn đề, thử hỏi “vì sao?” “vì sao thơ Đường lại có
nhiều hình ảnh ước lệ?”, “vì sao Hamet lại băn khoăn “sống hay không sống”
mà không phải là “sống hay chết?, Vì sao lão Gôriô đối xử tốt với con mà lại bị
đối xử tệ hại như vậy? Tại sao thơ Targo lại đượm chất triết học? Hàng loạt câu
hỏi tại sao được đặt ra. Trả lời cho câu hỏi này sẽ đem đến cho các em những
thu hoạch lớn lao, mỹ mãn. Trả lời được câu hỏi này học sinh sẽ cảm thấy nhẹ
Sinh viên: Hà Thị Hồng

15 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
nhõm hẳn đi và không thắc mắc “thơ của mấy ổng sao mà xa lạ thế? Văn của họ
sao mà khó hiểu thế?”.
- Giáo viên phải có khả năng sư phạm nhằm vận dụng linh hoạt các biện
pháp tích cực, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh đạt kết quả cao. Trên
tinh thần của lí thuyết tiếp nhận, giáo viên phát huy tối đa sự linh hoạt của mình,
vận dụng phương pháp dạy học sao cho hiệu quả giờ dạy cao nhất. Giáo viên có
được năng lực nghề nghiệp vững vàng thể hiện qua việc hoạch định cụ thể, khoa
học những việc làm trong quá trình dạy học. Dự kiến những hình thức hoạt
động, thao tác tiến hành và yêu cầu cần đạt qua các việc làm ấy để có những
định hướng xác thực cho hoạt động tiếp nhận của học sinh.
- Bản thân giáo viên phải có thiết kế quá trình tiếp nhận chung cho toàn
lớp, đồng thời cũng phải có những định hướng trong việc tiếp nhận ở mỗi cá
nhân. Cũng như yêu cầu thứ hai, giáo viên phải có những câu hỏi hay dự kiến
hình thức hoạt động như thế nào để tạo điều kiện phát huy toàn diện cho học
sinh. Trong lớp học, trình độ nhận thức của các em không đều nhau, khả năng
nhạy bén cũng chỉ tập trung ở một vài em cá biệt. Do vậy, trong bảng thiết kế

bài học của mình ngoài những định hướng chung cho toàn lớp thì giáo viên cũng
phải chú ý những định hướng phát triển riêng cho từng đối tượng khác nhau.
Câu khó hỏi học sinh giỏi, câu dễ hỏi học sinh trung bình. Công việc này tuy vất
vả nhưng đem lại hiệu quả toàn diện cho nhiều người. Nó còn thể hiện tinh thần
làm việc nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm của giáo viên.
- Giáo viên phải rèn luyện cho học sinh thói quen phân tích tác phẩm
trong tổng hợp nội dung và hình thức. Câu hỏi phỏng vấn học sinh cho thấy yếu
tố hấp dẫn các em là các vấn đề về xã hội, con người, hình thức mới lạ… Quan
điểm đổi mới phương pháp dạy học dưới ánh sáng lí thuyết tiếp nhận. Phân tích
tác phẩm văn học không nên quá tách bạch nội dung và hình thức ngôn từ. Bởi
lẽ tác phẩm văn học được cấu thành thống nhất trong nội dung và hình thức.
Không có tác phẩm nào nội dung hay lại không thể hiện bằng một hình thức độc
đáo và ngược lại cũng không có hình thức vụng về lại chuyển tải được nội dung
hay.
Sinh viên: Hà Thị Hồng

16 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
- Nội dung và hình thức của tác phẩm luôn gắn bó mật thiết nhau, thống
nhất thể hiện hình tượng tác phẩm nghệ thuật do vậy không nên tìm hiểu nội
dung một nơi, nghệ thuật một nơi mà phải chỉ ra được nội dung đó được thể hiện
như thế nào qua hình thức nghệ thuật như thế nào?
Tóm lại, để thực hiện giờ dạy tác phẩm văn học nước ngoài dưới ánh sáng
của lí thuyết tiếp nhận, giáo viên phải vất vả hơn, chủ động hơn nhiều trong hoạt
động thiết kế và dạy học. Nhưng đây cũng là một nhiệm vụ vinh quang, cao cả.
Giáo viên giúp cho học sinh đến được những chân trời nghệ thuật đặc sắc thông
qua những giờ học tác phẩm văn học nước ngoài, đồng thời cũng là dịp để nhìn
lại mình, xem xét khả năng thẩm mĩ và nhân cách mình. Muốn làm được như

vậy người giáo viên dạy văn phải hết sức tâm huyết với nghề và không ngừng
trao dồi để tự nâng cao mình trong hoạt động nghệ thuật giảng dạy.

Sinh viên: Hà Thị Hồng

17 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
4. Thiết kế giáo án giảng dạy các tác phẩm cụ thể và đúc rút kinh nghiệm
qua bài dạy
4.1. Sử thi
UY-LIT-XƠ TRỞ VỀ
(Trích “Ôđixê”-Sử thi Hi Lạp)
- HomerơA. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Về kiến thức:
- Cảm nhận được ve đẹp trí tuệ và tình yêu của Uy-lit-xơ và Pênêlôp, biểu tượng
của những phẩm chất cao đẹp mà người cổ đại Hi Lạp khát khao vươn tới.
- Đặc sắc của nghệ thuật sử thi Homerơ: miêu tả tâm lí, lối so sánh, sử dụng
ngôn từ, giọng điệu kể chuyện.
2. Về kĩ năng:
- Kĩ năng nhập vai nhân vật kể chuyện.
- Phân tích nhân vật qua đối thoại.
3. Về thái độ:
- Nhận thức được sức mạnh của tình cảm vợ chồng, tình cảm gia đình cao đẹp là
động lực giúp con người vượt qua khó khăn.
- Tự nhận thức, xác định giá trị chân chính và sâu sắc nhất trong cuộc sống
chính là quê hương, gia đình, tình yêu và lòng chung thuỷ.
- Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
B.CHUẨN BỊ BÀI HỌC:

1. Giáo viên:
- Tổ chức học sinh đọc diễn cảm văn bản.
- Hướng dẫn học sinh đọc sáng tạo, tái hiện, gợi tìm và đặt câu hỏi.
- Nêu vấn đề cho học sinh phát hiện và phân tích.
- Giao tiếp: học sinh trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân về ý nghĩa, mục
tiêu cuộc sống thể hiện qua hành động và ngôn ngữ của các nhân vật qua tác
phẩm.
+ SGK, sách chuẩn kiến thức ngữ văn 10.
Sinh viên: Hà Thị Hồng

18 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
+ Sách tham khảo.
2. Học sinh:
- Chủ động tìm hiểu về tác phẩm từ các nguồn thông tin khác nhau. Sưu tầm tư
liệu về tác phẩm.
- Đọc kĩ tác phẩm.Xác định đặc điểm thể loại để lựa chọn con đường phân
tích,tìm hiểu tác phẩm.Phân tích tác phẩm theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài.
C.HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ
Gáo viên kiểm tra BT1/46 (về nhà) của Học sinh lấy điểm.
3. Bài mới:
Hoạt động của GV và HS
* Họat động 1: GV yêu cầu HS đọc

Yêu cầu cần đạt

I/ Tìm hiểu chung:

phần tiểu dẫn và nêu những nét

1. Tác giả và xuất xứ đoạn trích:

chính về tác giả tác phẩm.

a) Tác giả:

(GV: Có luồng ý kiến cho rằng

- Hômerơ, người được coi là tác giả của

Hơmerơ chỉ do người đời sau tưởng

hai sử thi nổi tiếng Iliat và Ôđixê là một

tượng.Tác giả là tập thể nhân dân Hi

ca sĩ hát rong, nhà thơ mù, sinh trưởng

Lạp).

trong một gia đình nghèo bên dòng sông
Mêlet vào khoảng TK IX-VIII (trước
CN).
b) Xuất xứ đoạn trích:

- Tác phẩm thuộc thể loại gì? Vị trí


- Trích khúc ca 23 của bộ sử thi Ôđixê

của đoạn trích?
- Tóm tắt ngắn gọn nội dung tác

- Tóm tắt nội dung: SGK

phẩm?
(GV cho HS gạch chân những điểm
cần lưu ý trong SGK)

2.Bố cục: gồm hai đoạn:

HS đọc văn bản (chú ý nhịp đọc

+ Đoạn 1: Từ đầu.... “kém gan dạ” Tâm

Sinh viên: Hà Thị Hồng

19 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
chậm rãi,trang trọng trừ mấy câu nói

trạng của Pênêlốp khi nghe tin chồng trở

của Têlêmác)


về, và khi gặp chồng.

- Nêu bố cục của đoạn trích?

+ Đoạn 2: Phần còn lại Thử thách và
sum họp của hai người.
3. Đại ý: Thể hiện tâm trạng của Pê-Nê-

- Trình bày đại ý văn bản?

Lốp trước tác động của nhũ mẫu,
Têlêmac và trong cuộc đấu trí với Uy-

* Họat động 2: Tìm hiểu văn bản.

Lit-Xơ. Cảnh gia đình đoàn tụ sau 20
năm xa cách.

- Trước lời tác động của nhủ mẫu

II. Đọc- hiểu văn bản

Ơriclê, Pênêlốp (P) có diễn biến tâm

1. Tâm trạng Pênêlôp :

trạng như thế nào?

a. Trước tác động của nhũ mẫu:


- Tại sao rất nhớ chồng, mong chồng

- Không tin vì:

mà nghe tin Uylitxơ trở về nàng lại

+ Cho rằng có thần linh giúp đỡ.

không tin?

+ Cuộc đối dầu quá chênh lệch, một
mình Uylitxơ không thể giết 108 tên
vương tôn công tử.
+ Thời gian xa cách quá lâu (20 năm),

- Khi nhũ mẫu đưa ra bằng chứng và

hết hi vọng về sự sống của Uylitxơ.

đem tính mạng mình ra đánh cược thì => thần bí hóa câu chuyện,hoài nghi và
phản ứng của Pênêlôp như thế nào?

tự trấn an mình

(Pênêlốp không phải là người có trái
tim sắt đá mà nàng tự gìn những tình
cảm của mình để trấn an mình và nhũ
mẫu…)
- Nếu dùng từ ngữ để chỉ về phẩm


suy tư, thận trọng, tỉnh táo, không vội

chất nhân vật Pênêlôp, em sẽ dùng từ

vàng hấp tấp

gì?

b. Trước tác động của con trai:

- Tâm trạng pênêlôp như thế nào khi

- Kinh ngạc quá đỗi, đến mức không nói

nghe con mình trách cứ?

nên lời.

Sinh viên: Hà Thị Hồng

20 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
- Qua đó, em có nhận xét gì về con
người Pênêlốp? Phải chăng đúng như
Têlêmac nhận xét “bao giờ lòng dạ
mẹ cũng rắn như đá”?
(GV nhắc lại: Trước khi vào đoạn
trích, nghe nhũ mẫu báo tin Uylitxơ

trở về, Pênêlốp đột ngột “ mừng rỡ
cuống cuồng nhảy ra khỏi giường ôm
lấy bà nước mắt chan hòa”
→ Biểu thị lòng chung thủy, hạnh

- Tin chắc cha mẹ sẽ nhận ra nhau dễ

phúc tột độ, niềm vui khôn cùng)

dàng vì cha mẹ có những dấu hiệu
riêng .
Thông minh, khôn ngoan.

- Qua câu trả lời của Pênêlốp khi con
trai trách cứ ta thấy thêm điều gì
trong tính cách của nàng? (khôn
ngoan, thận trọng của một người đã
trải qua nhiều thử thách)
- Khi đối diện với Uylitxơ (U),
Pênêlốp có cử chỉ, dáng điệu như thế
nào?

- Trước tình thế Têlêmac trách mẹ
gay gắt làm nổi bật phẩm chất gì của

2. Cuộc đấu trí giữa P và Uylitxơ:
Pênêlôp
- phân vân, lúng

túng trong ứng xử đất đợi xem vợ

→ tình cảm >< lí

mình nói gì.

trí.

- Nhẫn nại mỉm

- Sáng suốt đưa ra cười:
ý định thử thách

biệt? Thái độ của U lúc ấy như thế
Sinh viên: Hà Thị Hồng

+ Hiểu ý định của

với chồng qua đối vợ
thoại với con trai

+Chấp nhận thử

con người thận

thách.

trọng, biết kìm

+ Tin vào trí tuệ

nén tình cảm.


của mình.
- Gợi ý chiếc

Uylitxơ? (nhẫn nại)
- Lời lẽ của P đối với con có gì đặc

Uylitxơ
- Mắt nhìn xuống

-Sai nhũ mẫu

giường bí mật.

khiêng chiếc

- Giật mình và

21 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
nào? Ý nghĩa của thái độ ấy?.

giường bí mật ra

miêu tả lại tỉ mỉ

- Khi U tắm ra, đẹp như một vị thần,


khỏi giường .

đặc điểm, quá

P vẫn không nhận ra chồng? Em nghĩ

trình hình thành

gì về điều này? (nhận ra nhưng vẫn

→ Thử phản ứng

chiếc giường

thử thách)

của Uylitxơ

→ Dụng ý để vợ

- Sau khi trách cứ về trái tim sắt đá

nhận ra mình.

của P, U nói với nhũ mẫu “Già…..lâu
nay”, em có nhận xét gì về lời lẽ ấy?

Khôn khéo,

(gợi ý cho vợ)


thông minh, nặng

Cao quí và nhẫn

- P thử thách như thế nào? Tại sao P

về lí trí, rất kiên

nại, tài trí thâm

lại thử thách chồng bằng hình ảnh

định.

trầm.

chiếc giường?
- Trước lời nói của Pênlốp, Uylitxơ
phản ứng như thế nào?
- Bộc lộ phẩm chất gì của Pênêlốp và
Uylitxơ?.

3. Gia đình đoàn tụ:
- Pênêlốp: Nước mắt chan hòa, ôm lấy
chồng, hôn lên trên chồng.
- Uylitxơ: Ôm vợ khóc dầm dề.
- Hình ảnh so sánh: “Mặt đất” và “
Người đi biển bị đắm tàu mà được gặp


- Khi nhận ra nhau, tâm trạng của
Pênêlốp và Uylitxơ như thế nào?
Tình cảm ấy được khắc họa tập trung

đất liền”.
Thể hiện cao độ nỗi niềm, khát khao,
sung sướng của P và U khi gặp nhau.

nhất trong hình ảnh nào? Tác giả đã
sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ở
đoạn cuối?
(so sánh, mở ra nhiều tầng bậc)
- Phát biểu ý kiến về ve đẹp tình yêu
và lòng chung thuỷ của Pênêlốp và
Uylitxơ ?
- Nêu cảm nhận của em về khát vọng
Sinh viên: Hà Thị Hồng

III/ Ghi nhớ: SGK
22 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
mãnh liệt được trở về quê hương xứ
sở của Uylitxơ?

1. Nội dung:

* Họat động 3: Tổng kết


Đề cao, khẳng định sức mạnh của tâm
hồn trí tuệ của con người Hi Lạp. Đồng

- Ý nghĩa của đoạn trích là gì?.

thời làm rõ giá trị hạnh phúc gia đình
khi người Hi Lạp chuyển từ chế độ thị
tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ.
2. Nghệ thuật:
- Miêu tả tâm lí nhân vật bằng thái độ,
cử chỉ, dáng điệu.

- Qua phân tích, em có nhật xét gì về

- Nhân vật mang đậm tâm lí sử thi: ngây

nghệ thuật của đoạn trích.?

thơ, chất phát nhuốm màu huyền bí,
nặng về lí trí.
- Giàu kịch tính.
- So sánh dài đuôi, mở ra nhiều tầng bậc.

D. Củng cố, dặn dò:
- Qua câu chuyện này, tác giả muốn nêu lên điều gì?
(Đề cao khẳng định sức mạnh của tâm hồn và trí tuệ con người HyLạp và
làm rõ giá trị hạnh phúc gia đình khi người Hy Lạp chuyển đổi từ chế độ thị tộc
sang chế độ chiếm hữu nô lệ.)
- Theo em trong xã hội hiện nay, đoạn trích trên có ý nghĩa giáo dục đối
với chúng ta không? Ý nghĩa đó là gì?

(giáo dục con người lòng thủy chung, sự thận trọng, bài học về trí tuệ.
Hạnh phúc thực sự chỉ đến sau thử thách)
- Học bài cũ :Tìm trong bài chi tiết mà em thích nhất, giải thích vì sao?
- Lập lại dàn ý cho bài làm văn số 1.
E. Rút kinh nghiệm:
- Sử thi là loại hình văn học dân gian ra đời khi xã hội đã thoát thai bầy
đàn nguyên thủy, nó có cách tư duy và xây dựng lại hình tượng nhân vật khác
Sinh viên: Hà Thị Hồng

23 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
với các loại hình văn học dân gian ra đời sau này. Vì vậy khi giảng sử thi, chúng
ta phải xuất phát từ đặc trưng tư duy của nó. Giảng sử thi không chỉ giảng về
văn hóa dân gian mà còn phải giảng cả những vấn đề nghệ thuật có trong tác
phẩm. Muốn làm được điều này chúng ta phải cố gắng sưu tầm tài liệu để có sự
so sánh đối chiếu giữa các loại tư duy với nhau để rút ra cái chung trong sử thi
nhưng cũng biết cái riêng trong từng sử thi của mỗi nước. “Mọi vấn đề chỉ bộc
lộ trong so sánh và chỉ trong so sánh nó mới bộc lộ hết bản chất của nó là gì”.
- Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: Tác phẩm
văn chương bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời lịch sử nhất định.
Vì vậy việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác bao giờ cũng là một
yêu cầu có tính nguyên tắc.
- Tóm tắt toàn bộ tác phẩm, đi sâu phân tích đặc điểm của từng nhân vật
trong tác phẩm.
- Nhấn mạnh đặc điểm của sử thi. Trong quá trình giảng dạy có thể cho
học sinh hiểu thêm về sử thi và đặc điểm của sử thi:
- Thể hiện những bức tranh xã hội rộng lớn cùng với những sự kiện lịch
sử trọng đại của dân tộc.

- Biểu dương chiến tích của những anh hùng dũng cảm, có phẩm chất tốt
đẹp, đại diện cho lợi ích cộng đồng.
- Có ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca, gọi chung là phong cách cao cả.
Trên cơ sở các đặc điểm của thể loại sử thi trên, giáo viên tiếp tục giúp
học sinh soi vào các tác phẩm văn học.Phân tích khuynh hướng sử thi trong một
nền văn học hay một tác phẩm văn học. Trong quá trình giảng dạy giáo viên có
thể kết hợp phân tích cho học sinh khuynh hướng sử thi trong tác phẩm
- Đặc biệt trong tác phẩm này giáo viên phải giải thích được các thuật
ngữ, điển tích để học sinh hiểu rõ hơn và đi sâu vào phân tích mổ xe tác phầm
dễ dàng hơn.
Có thể so sánh giữa cách miêu tả tâm lí nhân vật giữa sử thi Đam Săn của Việt
Nam và sử thi cổ điển Ô-đi-xê của Hi Lạp qua hai đoạn trích Chiến thắng Mtao
Mxây và đoạn trích Uy-lít-xơ trở về để thấy được sự giống nhau và khác nhau
Sinh viên: Hà Thị Hồng

24 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


Bài tiểu luận
về bút pháp sử thi giữa hai tác phẩm, hai truyền thống văn học, qua đó nắm
được những đặc điểm tiêu biểu của bút pháp sử thi
4.2. Kịch
TÌNH YÊU VÀ THÙ HẬN
(Trích Rô-mê-ô và Giu-li-et)
_ U. Sêch-xpia_
A/. MỤC TIÊU:
1/. Kiến thức:
- Tình yêu chân chính và mãnh liệt của tuổi tre vượt lên thù hận của dòng tộc.
- Đặc sắc của thiên tài nghệ thuật Sêch-xpia: miêu tả tâm trạng qua ngôn ngữ
độc thoại, đối thoại.

2/. Kĩ năng:
- Đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại.
- Nhận biết được một vài đặc điểm cơ bản của thể loại kịch: ngôn ngữ, hành
động, bố cục và xung đột kịch.
- KNS: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tư duy sáng tạo.
3/. Thái độ:
- Trân trọng tình yêu chân chính và cảm thương cho tấn bị kịch tình yêu vượt lên
mọi ngăn cách của về thù hận của họ.
B. CHUẨN BỊ:
GV: SGK, SGV, thiết kế bài giảng, ảnh tác giả.
HS: SGK; Đọc hiểu bài “Tình yêu và thù hận ”; tập soạn, tập học.
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Ổn định tổ chức: Kiểm diện học sinh
2. Kiểm tra miệng: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
3. Bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV
VÀ HS
* Hoạt động 1:
Sinh viên: Hà Thị Hồng

NỘI DUNG BÀI HỌC
I. Tìm hiểu chung:
25 Lớp: Đại học Sư phạm Ngữ Văn K55


×