Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

khóa luận tốt nghiệp CHUỐI CUNG SẢN PHẨM CHUỐI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HƯỚNG HÓA TỈNH QUẢNG TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
-----------

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUỐI CUNG SẢN PHẨM CHUỐI TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN HƯỚNG HÓA TỈNH
QUẢNG TRỊ

NGUYẾN THỊ THÙY PHƯƠNG

1


ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
-----------

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUỐI CUNG SẢN PHẨM CHUỐI TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN HƯỚNG HÓA TỈNH
QUẢNG TRỊ

Sinh viên thực hiện:



Giáo viên hướng dẫn:

Nguyễn Thị Thùy Phương

PGS.TS. Bùi Đức Tính

Lớp: K46A – Kinh Tế Nông Nghiệp
Niên khóa: 2012 – 2016

2


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành là kết quả của chặng đường bốn năm cố
gắng phấn đấu dưới sự dạy dỗ tận tình của thầy cô giáo trường Đại Học Kinh Tế
Huế. Để hoàn thành khóa luận này ngoài sự cố gắng của bản thân, còn có sự giúp đỡ
dìu dắt nhiệt tình của các thầy cô giáo cùng ban lãnh đạo địa phương huyện Hướng
Hóa và các bác, các cô, chác chú trên địa bàn 2 xã Tân Thành và Tân Long.
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Bùi Đức Tính đã trực
tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này với tất cả tinh thần trách
nhiệm và lòng nhiệt tình.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, phòng giáo vụ - công tác sinh viên, cùng
quý thầy cô hết lòng dạy dỗ, truyền thụ những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong
suốt thời gian học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Huế.
Xin cảm ơn cán bộ, Ủy Ban Nhân Dân và bà con nông dân trên địa bàn huyện Hướng
Hóa và 2 xã Tân Thành, Tân Long đã nhiệt tình giúp đỡ cung cấp thông tin để tôi
hoàn thành tốt đề tài này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ động viên của người thân gia đình, bạn bè về
mọi mặt trong suốt thời gian qua.

Do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không tránh
khỏi những sai sót. Vì vậy tôi kinh mong quý thầy cô giáo và bạn đọc đóng góp ý
kiến để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5, năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy Phương

3


TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Chuối là một loại cây ăn quả, cây chuối vốn là cây trồng rất quen thuộc với người
dân Việt Nam, dễ trồng, vốn đầu tư ít. So với nhiều cây trồng khác, thì cây chuối là
một trong những loại cây tốn ít chi phí và thời gian chăm sóc hơn cả, lại đem lại
hiểu quả kinh tế ca, phù hợp với khả năng kinh tế và trình độ của hầu hết người dân
Việt Nam, đặc biệt trong thời gian qua chuối trở thành một mặt hàng nông sản xuất
khẩu mang về nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, cũng như là một trong những
loại cây trồng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập của người nông
dân, nhiều người dân đứng lên thoát nghèo nhờ loại cây này. Mặc dù có nhiều thành
công trong sản xuất và xuất khẩu nhưng ngành chuối của nước ta nói chung, Quảng
Trị nói riêng cũng không tránh khỏi những khó khăn thách thức như diện tích chuối
không được quy hoạch, nhiều vườn cây già cỗi không được trồng mới, sản phẩm
chuối từ khâu sản xuất đến người tiêu dùng còn phải trai qua nhiều khâu trung
gian rất phức tạp, quan hệ hợp tác giữa các hộ nông dân với những nhà thu gom,
doanh nghiệp, công ty chế biến xuất khẩu còn nhiều vấn đề bất cập, dẫn đến hiệu
quả sản xuất chuối của bà con nông dân đnag còn thấp và chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có. Đề tài đã chọn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị để nghiên cứu,
đặc biệt là hai xã Tân Thành và Tân Long, đây là những địa phương có số hộ trồng chuối
nhiều nhất và sản lượng chuối thu hoạch chiếm 65% tổng sản lượng của toàn huyện, giá trị


xuất khẩu chuối cao, tuy nhiên trong thời gian qua đã gặp không ít khó khăn trong
việc tiêu thụ cũng như hiệu quả sản xuất. Để thấy được thực trạng sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm chuối trên địa bàn, tôi đã chọn đề tài “Chuỗi cung sản phẩm chuối trên
địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
 Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về chuỗi cung
- Phân tích các hoạt động , các tác nhân tham gia trong chuỗi cung sản phẩm
-

cây chuối trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm cây chuối
trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.

 Dữ liệu phục vụ
4


-

Số liệu thứ cấp: Thu thập từ các báo cáo, tài liệu của ban ngành tỉnh Quảng
Trị, huyện Hướng Hóa, xã Tân Thành và Tân Long, thông tin từ các đề tài, bài

-

báo cáo được công bố trên sách báo, tạp chí, internet…
Số liệu sơ cấp: Thông qua phỏng vấn hộ nông dân trồng chuối, các hộ thu
gom nhỏ, đại lý thu mua chuối trên địa bàn huyện và hai xã Tân Thành, Tân

long để biết được tình hình tiêu thụ sản phẩm này.

 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp thống kê kinh tế
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
 Kêt quả đạt được
- Phân tích các tác nhân tham gia trong chuỗi cung sản phẩm chuối trên địa
-

bàn huyện Hướng Hóa.
Phân tích các hoạt động của chuối cung sản phẩm chuối trên địa bàn huyện

-

Hướng Hóa
Phân tích những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chuỗi cung
sản phẩm trên địa bàn nghiên cứu: giải pháp về nguồn lực, tăng cường mối
quan hệ hợp tác trực tiếp, nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư xây dựng
cơ sở chế biến, giải pháp thị trường, tăng cường công tác thông tin…

MỤC LỤC

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
HTX:

Hợp Tác Xã
6



TCN:

Trước công nguyên

 L:

Âm lịch

CHDCND:

Cộng hòa dân chủ nhân dân

KTTM:

Kinh tế thương mại

ĐVT:

Đơn vị tính

BQC:

Bình quân chung

KT – XH:

Kinh tế - xã hội


CN – TTCN: Công nghiệp – tiêu thủ công nghiệp
ĐB SCL:

Đồng bằng Sông Cửu Long

BVTV:

Bảo vệ thực vật

EWEC:

Hành lang kinh tế đông tây

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ

Tên

Trang
7


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng

Tên

Trang
8



PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.

Lý do chọn đề tài

9


Phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản là một chủ
trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nó không những góp phần quan trọng trong việc đảm
bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động mà còn góp phần đáng kể vào tăng
nguồn thu ngoại tệ, tích lũy vốn cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, đó là việc
tập trung hỗ trợ mọi nguồn lực để phát triển các cây trồng chủ lực ở các huyện
vùng cao, nơi có điều kiện khí hậu, đất đai không thuận lợi, nhằm nâng cao đời
sống cho nhóm dân tộc thiểu số, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của họ.
Chuối là một loại cây ăn quả, cây chuối vốn là cây trồng rất quen thuộc với
người dân, dễ trồng, vốn đầu tư ít, chỉ cần có đất là có thể triển khai trồng chuối,
sau một năm đã cho thu hoạch. So với nhiều cây trồng khác, thì cây chuối là một
trong những loại cây tốn ít chi phí và thời gian chăm sóc hơn cả, lại đem lại hiểu
quả kinh tế cao, phù hợp với khả năng và trình độ của hầu hết người dân Việt
Nam, đặc biệt trong thời gian qua chuối trở thành một mặt hàng nông sản xuất
khẩu mang về nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, cũng như là một trong
những loại cây trồng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập của
người nông dân, nhiều người dân đứng lên thoát nghèo nhờ loại cây này.
Huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị là nơi tập trung đa số đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khí hậu khô nóng vào mùa

hè lại lạnh về mùa đông cộng thêm trình độ dân trí, trình độ kỹ thuật trong nông
nghiệp của người dân còn thấp, vì vậy việc tìm ra một loại cây trồng chủ lực để
phát triển kinh tế xã hội là việc luôn được chính quyền địa phương quan tâm.
Với thế mạnh về đất đai, huyện Hướng Hóa,tỉnh Quảng Trị không chỉ có điều
kiện phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su mà còn canh
tác thêm một số cây trồng khác như sắn, chuối. Đây là những loại cây đem lại
hiệu quả kinh tế cao cho nhiều địa phương ở các xã vùng biên giới như Tân
Long, Tân Thành, Tân Phước, Hướng Tân, thị trấn Lao Bảo và các xã vùng Lìa.
Trong đó cây chuối đã trở thành cây xóa đói giảm nghèo và làm giàu của không
10


ít hộ gia đình ở Hướng Hóa. Vì thế, trong định hướng phát triển kinh tế -xã hội
trước mắt cũng như lâu dài, huyện Hướng Hóa luôn xác định chuối là cây chủ
lực để xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu. Thực tế đã cho thấy ở Huyện
Hướng Hóa hiện nay có nhiều hộ gia đình như Ngô Dương Phước, Đoàn Văn
Trang, Võ Hoành, Đoàn Cao Thắng, Nguyễn Trị mỗi năm thu nhập từ 700- 900
triệu đồng từ chuối.
Mặc dù có nhiều thành công trong sản xuất và xuất khẩu, nhưng trong thời
gian vừa qua, sản phẩm chuối ở Hướng Hóa không tránh khỏi những khó khăn
và thách thức như: Đầu năm 2015, giá chuối giảm mạnh chỉ còn 2 – 3 nghìn
đồng/kg, có lúc không có ai thu mua. Nguyên nhân là do giá cả tiêu thụ phụ
thuộc hoàn toàn vào thương lái, sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu
dùng phải trải qua nhiều khâu trung gian rất phức tạp, một kiểu thị trường
“phập phù” giá rẻ, thiếu thông tin và không có các cam kết hợp đồng thương
mại, dẫn đến tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro, bất ổn thị trường. Địa hình không
thuận lợi cho việc thu mua và thu hoạch nên người dân thường bị tư thương ép
giá, quan hệ hợp tác giữa các hộ nông dân với những nhà thu gom, doanh
nghiệp, nhà xuất khẩu và nhiều thủ tục hải quan còn nhiều vấn đề bất cập, cộng
với tình hình biến động kinh tế - chính trị trong thời gian qua, làm Trung Quốc

(chiếm khoảng 80% tổng sản lượng chuối thu hoạch) đột nhiên ngừng thu mua,
gây nhiều khó khăn cho người trồng chuối, có nguy cơ dẫn đến phá vỡ ngành
chuối trên địa bàn.
Vì vậy nhu cầu tất yếu đặt ra là làm thế nào để giải quyết được thị trường
đầu ra cho sản phẩm chuối, hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm nhằm nâng cao
hiệu quả sản suất và tiêu thụ chuối, từ đó cải thiện đời sống của người dân, đặc
biệt là đồng dân tộc ít người trên địa bàn huyện. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã
chọn đề tài

“ Chuỗi cung sản phẩm Chuối trên địa bàn huyện Hướng

Hóa, tỉnh Quảng Trị” làm luận văn tốt nghiệp.

2.

Mục tiêu nghiên cứu
11


Mục tiêu tổng quát

2.1.

Trên cơ sở phân tích chuỗi cung sản phẩm cây chuối, đề xuất các giáp hoàn
thiện chuỗi cung sản phẩm cây chuối của các hộ gia đình trên địa bàn huyện Hướng
Hóa, tỉnh Quảng Trị
2.2.

Mục tiêu cụ thể


-

Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về chuỗi cung
Phân tích các hoạt động , các tác nhân tham gia trong chuỗi cung sản phẩm cây

-

chuối trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm cây chuối trên
địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
3.


Phương pháp nghiên cứu

3.1.
Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu từ các báo cáo, niên giám thống kê của các

ban ngành huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, thu thập thông tin từ các bài
báo, luận văn, đề tài, các nghiên cứu trước đó, các tài liệu trong sách,


internet…
Số liệu sơ cấp: Thông qua mẫu điều tra phỏng vấn trực tiếp, khảo sát tình hình
thực tế qua các đối tượng: Hộ trồng chuối, thương lái, đại lý thu gom sản

phẩm chuối.
• Phương pháp chọn mẫu: Mẫu điều tra tập trung vào những nông dân trồng
chuối và những thương lái thu mua chuối. Điểm điều tra, khảo sát hộ nông dân

trồng chuối được lựa chọn là 2 xã Tân Long và Tân Thành của huyện Hướng
Hóa. Đây là những địa phương có số hộ trồng chuối nhiều nhất và sản lượng
chuối thu hoạch chiếm 65% tổng sản lượng của toàn huyện.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên được sử dụng để tiến hành điều tra
khảo sát những tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị chuối. Đối với nông dân
trồng chuối, tổng số hộ trồng chuối ở trên địa bàn xã Tân Long và Tân Thành
là 1008 hộ, do đó N = 1008, sai số kỳ vọng 10%, vậy quy mô mẫu cần điều tra
là 91(1) hộ. Để phòng ngừa sai sót trong quá trình điều tra, nên ta chọn thêm số
mẫu điều tra với tỷ lệ 20% tổng số mẫu (0,2 x 91 = 18 mẫu), do đó quy mô mẫu
điều tra cho 2 xã là 109 hộ. Dựa trên danh sách nông hộ trồng chuối của 2 xã,
bắt đầu từ hộ đầu tiên sẽ được chọn để điều tra, và hộ thứ 2 được chọn là hộ
12


thứ 10 trong danh sách

(2)

.Các thành phần khác tham gia trong chuỗi cung

chuối cũng được lựa chọn điều tra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Số
lượng mẫu điều tra được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Quy mô mẫu điều tra các thành phần tham gia chuỗi giá trị chuối ở
huyện Hướng Hóa
Thành phần chuỗi giá trị
Nông dân trồng chuối
Thu gom nhỏ
Điểm cân
Đầu mối thu gom


3.2.

Tổng số lượng
1008
148
32
5

Cỡ mẫu
109
60
24
4

Phương pháp thống kê kinh tế
- Thống kê mô tả: Sử dụng phần mềm SPSS, Exel nhập các thông tin từ

bảng hỏi điều tra, nhằm mô tả diện tích, tình hình sản xuất chuối và sản
lượng chuối của các hộ trồng chuối.
- Phương pháp so sánh: dùng phương pháp này để so sánh kết quả các
trị số của các chỉ tiêu như: diên tích, sản lượng, giá trị sản lượng….của các
đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích kênh tiêu thụ: Lựa chọn kênh tiêu thụ nào
mang lại lợi nhuận cao nhất trong chuối cung sản phẩm chuối trên địa bàn
huyện Hướng Hóa.
- Phương pháp phân tích chuỗi cung: Sử dụng phương pháp này để
phân tích mạng lưới các tác nhân trong chuỗi, phản ánh mối quan hệ giữa
các tác nhân trong chuỗi và quá trình tạo giá trị của các tác nhân trong
chuỗi cung.
Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo


3.3.

Đây là phương pháp điều tra học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, các chuyên
gia với tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn, cán bộ kỹ thuật, cán bộ
khuyến nông, cán bộ quản lý.

4.
4.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

13


- Đề tài tập trung nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm chuối trên địa bàn
huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vị không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn huyện

Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, chủ yếu là 2 xã có sản lượng chuối nhiều đó là
Tân Thành và Tân Long.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp từ năm 2012 – 2015, số liệu sơ cấp
năm 2016.

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG
1.1.1.

Khái niệm về chuỗi cung
Thuật ngữ chuỗi được sử dụng khá phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển

từ những năm 50 của thế kỷ XX. Khởi đầu của việc sử dụng khái niệm chuỗi và
phương pháp phân tích chuỗi để phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang
14


phát triển. Khái niệm chuỗi chỉ đơn giản bao hàm các mỗi quan hệ vật chất và kỹ
thuật , được sử dụng lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa, xác định những tác
nhân tham gia và hoạt động của họ. Tùy theo góc độ nghiên cứu mà người ta sử
dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và tổ chức. Khi nhấn mạnh
đến hoạt động sản xuất, người ta xem như các quy trình sản xuất; khi nhấn mạnh
đến hoạt động marketing, họ gọi chúng là kênh phân phối; khi nhìn ở góc độ tạo ra
giá trị, người ta gọi chúng là chuỗi giá trị; khi nhìn nhận về cách thức thỏa mãn nhu
cầu khách hàng, chúng ta gọi là chuỗi cung. Hiện này có nhiều định nghĩa về chuỗi
cung:
“Chuỗi cung là sự liên kết giữa các công ty chịu trách nhiệm mang sản phẩm ra
thị trường”
“Chuỗi cung bao gồm tất cả các giai đoạn liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
việc thõa mãn yêu cầu của khách hàng. Chuỗi cung không chỉ bao gồm nhà sản xuất
và người phân phối mà còn cả người vận chuyển, nhà xưởng, người bán lẻ và bản
thân khách hàng…”
“Chuỗi cung là mạng lưới các nhà xưởng và những lựa chọn phân phối nhằm
thực hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu, chuyển vật liệu này thành bán thành
phẩm và thành phẩm, phân phối những thành phẩm này đến các khách hàng”.
Nguồn: https:wikipedia.org

Theo Christoper(2005), “Chuỗi cung là một mạng lưới của các tổ chức có liên
quan, thông qua các mối liên kết phía trên và phía dưới, trong các quá trình và hoạt
động khác nhau nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng.
Từ điển Wikipedia khái niệm chuỗi cung là “Hệ thống của các hình thức tổ chức,
con người, công nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc
đưa sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động
của chuỗi cung chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành
phần thành những sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu
dùng cuối cùng”.
15


Như vậy, có thể thấy rằng chuỗi cung thực chất là sự liên kết chuỗi các hoạt
động của những quá trình cung cấp hàng hóa từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng.
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm của khái niệm về chuỗi
cung gồm 4 nội dung:
-

Thành phần của chuỗi cung bao gồm hệ thống các tổ chức, con người tham gia trực
tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cấu của khách hàng, là các mắt xích đóng
vai trò làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các tổ chức ở đây chính
là các nhà cung cấp, các doanh nghiệp sản xuất, các nhà phân phối, bán lẻ và khách

-

hàng.
Mỗi quan hệ đồng thời của các dòng chảy bên trong chuỗi cung gồm dòng thông tin,
dòng sản phẩm hay dịch vụ, dòng tài chính, dòng thanh toán và chuyển quyền sở

-


hữu giữa các tác nhân.
Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm hay dịch vụ
gì, giá bao nhiêu mà còn quan tâm đến việc sản phẩm hay dịch vụ được đưa ra thị

-

trường bằng các nào.
Mục tiêu của chuỗi cung là tối ưu hóa giá trị cho khách hàng hay nói cách khác là
tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn hệ thống.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng là “Hệ thống các tổ chức, con người, công
nghệ, hoạt động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay
dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Các hoạt động của chuỗi cung
chuyển nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những
sản phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng với
mục đích tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn chuỗi”.
1.1.2.

Cấu trúc và các tác nhân tham gia chuỗi cung
Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung bao gồm công ty, các nhà

cung cấp và khách hàng của công ty đó. Một công ty sản xuất nằm trong “mô hình
đơn giản”, khi họ chỉ mua nguyên vật liệu từ một nhà cung cấp, sau đó tự làm ra
sản phẩm của mình rồi bán hàng trực tiếp cho người sử dụng. Ở đây, chỉ phải xử lý
việc mua nguyên vật liệu rồi sản xuất ra sản phẩm bằng một hoạt động và tại một
địa điểm duy nhất.
16


Nhà cung cấp


Công ty

Khách hàng

Sơ đồ 1: Chuỗi cung đơn giản
Nguồn: Micheal Hugos, Tinh Hoa Quản Trị Chuỗi Cung Ứng, 2003.
Với chuỗi cung mở rộng, ngoài 3 thành viên trên còn có thêm 3 thành viên
khác đó là nhà cung cấp của các nhà cung cấp, khách hàng của các khách hàng, và
toàn bộ các công ty cung cấp dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ cho các công ty trong
chuỗi cung. Các công ty cung cấp dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ hậu cần, tài
chính, tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm và công nghệ thông tin cho các công
ty khác nhau trong chuỗi cung.
Các chuỗi cung theo sơ đồ 2, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các doanh
nghiệp thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong chuỗi cung. Các doanh nghiệp
này chính là nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà bán buôn, bán lẻ hàng hóa và
các công ty hoặc các nhân đóng vai trò là khách hàng - những người tiêu dùng
thực sự. Các doanh nghiệp này được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu.
Nhà sản xuất là những đơn vị trực tiếp làm ra sản phẩm, nó có thể chuyên
sản xuất nguyên vật liệu thô cũng như sản xuất những sản phẩm hoàn chỉnh. Nhà
sản xuất nguyên liệu thô là công ty khai khoáng, khai thác dầu và khí đốt, các nông
trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.

Nhà cung
cấp cuối
cùng

Nhà cung
cấp


Công ty

Khách
hàng

Khách
hàng
cuối
cùng

Nhà cung cấp dịch
vụ

Sơ đồ 2: Chuỗi cung mở rộng
Nguồn: Th.S. Nguyễn Công Bình, Giáo trình Quản Lý Chuối Cung Ứng, 2008.
17


Nhà phân phối là các doanh nghiệp mua một khối lượng lớn hàng hóa lưu kho
từ nhà sản xuất và phân phối sỉ các dòng sản phẩm cho đến khách hàng. Nhà phân
phối còn được gọi là nhà bán sỉ hay bán buôn, đặc điểm nổi bật của họ là bán sản
phẩm cho các doanh nghiệp khác với số lượng lớn hơn một người tiêu dùng thường
mua. Nhà phân phối thực hiện chức năng “Thời gian và địa điểm” cho khách hàng
mọi lúc và mọi nơi mà khách hàng yêu cầu về sản phẩm. Cùng với việc mua sản
phẩm, thúc đẩy công tác bán hàng và tăng doanh thu, nhà phân phối còn đảm nhận
một chức năng khác là quản lý hệ thống hàng hóa lưu kho, điều hành kho hàng, vận
chuyển hàng hóa cũng như đảm nhận thêm công tác hỗ trợ khách hàng và cung cấp
dịch vụ hậu mãi. Nhà phân phối có thể chỉ thực hiện một việc duy nhất là môi giới
sản phẩm của nhà sản xuất với khách hàng mà họ không bao giờ sở hữu nó. Chức
năng chủ yếu của nhà phân phối kiểu này là xúc tiến và bán hàng. Trong cả hai

trường hợp này, do sự thay đổi không ngừng trong nhu cầu của khách hàng và cả
sự thay đổi về chủng loại hàng hóa, nhà phân phối đóng vai trò là một đại lý liên tục
nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của khách hàng rồi đáp ứng họ với những sản phẩm sẵn
có.
Nhà bán lẻ trữ hàng hóa trong kho và bán với số lượng nhỏ cho khách hàng nói
chung, nhà bán lẻ cũng nắm bắt đầy đủ những thông tin về sở thích và nhu cầu của
khách hàng mà mình phục vụ, thực hiện việc quảng cáo sản phẩm cho khách hàng ,
trên cơ sở kết hợp giá cả hợp lý, sản phẩm đa dạng, phong phú, dịch vụ tận tình chu
đáo với sự thuận tiện nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng đến với sản phẩm của
mình.
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào thực
hiện hành vi mua và sử dụng hàng hóa. Một khách hàng có thể một sản phẩm và sau
đó bán chúng cho những khách hàng khác. Hay khách hàng có thể là người sử dụng
cuối cùng của một sản phẩm, mua hàng với mục đích chỉ để sử dụng, chứ không bán
lại
Nhà cung cấp dịch vụ là những là những cá nhân hay tổ chức cung cấp dịch vụ
cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ
18


chỉ tập trung vào một công việc đặc thù mà các tác nhân trong chuỗi cung đòi hỏi và
chuyên sâu vào những kỹ năng đặc biệt để phục vụ cho công việc đó. Nhờ vậy, họ
thực hiện dịch vụ này hiệu quả hơn nhiều so với nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà
phân phối, nhà bán lẻ hay cả người tiêu dùng tự đảm nhận với mức giá phải chăng.
Đó là những công ty vận tải, dịch vụ lưu kho hàng hóa, dịch vụ tài chính, công nghệ
thông tin…
Chuỗi cung bao gồm nhiều đối tượng tham gia và những đối tượng này được
chia ra thành một hay nhiều nhóm. Điều cần thiết của chuỗi cung là duy trì tính
tương đối ổn định theo thời gian. Những gì thay đổi chính là sự tác động vào vai trò
của các đối tượng tham gia trong chuỗi cung. Một sản phẩm có nhiều chuỗi cung,

mỗi chuỗi cung đều nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất và
giữa các chuỗi cung có sự cạnh tranh với nhau.
Trong thực tế, đa số các doanh nghiệp được cung cấp nguyên, vật liệu từ nhiều
nhà cung cấp khác nhau và phân phối sản phẩm thông qua một hay nhiều khách
hàng khác nhau tạo nên cấu trúc mạng lưới mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác
nhau, chiều dài và độ rộng của chuỗi cung phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố như yêu cầu của khách hàng, xu hướng chung của nền kinh tế, sự sẵn sàng
của dịch vụ hậu cần, yếu tố văn hóa, tốc độ đổi mới, sự cạnh tranh, thị trường và sự
sắp xếp về tài chính. Như đã đề cập ở trên chuỗi cung hiếm khi tồn tại mà không là
một phần của mạng lưới chuỗi cung tổng thể.

Nhà bán lẻ
Nhà cung
cấp

Nhà sản
xuất

Người
tiêu dùng

Nhà sản
xuất

Nhà cung
cấp

Người tiêu

Nhà sản

xuất

Nhà bán lẻ

19

dùng


Nhà sản
xuất

Nhà cung
cấp

Nhà cung
cấp

Người
tiêu dùng

Nhà bán lẻ

Sơ đồ 3: Mạng lưới chuỗi cung tổng thể
Nguồn: FAO(6), 2007
Sơ đồ 3 mô tả mạng lưới chuỗi cung tổng thể hoàn chỉnh, mỗi doanh nghiệp
đặt trong một lớp mạng và thuộc về ít nhất một chuỗi cung. Các tác nhân khác
trong mạng ảnh hưởng đến hiệu suất của chuỗi, do đó những gì xảy ra trong giao
dịch giữa hai doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào hai đối tác liên quan mà còn
trên các kết quả của các mối quan hệ khác trong chuỗi và mạng lưới chuỗi cung

tổng thể. Các tổ chức có thể đóng vai trò khác nhau trong các thiết lập chuỗi khác
nhau, có thể là hợp tác hoặc là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Tóm lại, chuỗi cung là những quá trình mà nó cung cấp hàng hóa từ người này
sang người khác. Một chuỗi cung là mạng lưới của những sự lựa chọn từ việc sản
xuất đến phân phối. Chúng bao gồm những chức năng như: mua sắm vật tư, vận
chuyển những vật tư này đến các sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng, phân
phối những sản phẩm cuối cùng đến tận tay người tiêu dùng.

1.1.3.
1.1.3.1.

Nội dung phân tích chuỗi cung
Xác định các tác nhân tham gia chuỗi cung sản phẩm

Xác định các tác nhân tham gia chuỗi cung sản phẩm, bao gồm các tác nhân
tham gia cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu như: cơ sở sản xuất cây giống, phân
bón, dịch vụ đầu vào; các tác nhân tham gia sản phẩm cây chuối như: hộ trồng
chuối, hộ thu gom, đại lý thu gom, nhà sản xuất sản phẩm chuối, người bán lẻ chuối
ở chợ. Mỗi tác nhân là một mắt xích, thực hiện các hoạt động trong từng công đoạn
20


tương ứng nhằm tạo giá trị cho sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng hàng
cuối cùng. Cũng có thể có những tác nhân tham gia chuỗi cung chỉ để thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ như hậu cần, tài chính, kỹ thuật.
1.1.3.2.

Quá trình tạo giá trị

Trong khi bị điều khiển bởi người khách hàng cuối cùng, các chuỗi cung được

hình thành bởi nhiều khách hàng trung gian, mỗi khách hàng trong chuỗi phải đáp
ứng nhu cầu của khách hàng phía trên họ. Bởi thế, khi làm những điều này họ đã
tạo ra giá trị cho chuỗi. Như vậy, một quá trình tạo giá trị xảy ra trong toàn bộ
chuỗi với mục tiêu là đáp ứng nhu cầu của khách hàng cuối cùng.

NHU CẦU CỦA NGƯỜI
TIÊU DÙNG

NGƯỜI TIÊU DÙNG

KHÁCH HÀNG TRUNG GIAN VÀ CÁC
NHÀ CUNG CẤP

TẠO GIÁ TRỊ

NHÀ CUNG CẤP

TẠO GIÁ TRỊ

Sơ đồ 4: Quá trình tạo giá trị trong chuỗi cung
Nguồn: ThS. Nguyễn Công Bình, Giáo trình Quản Lý Chuỗi Cung Ứng, 2008.
Các hộ sản xuất hay doanh nghiệp có thể hoạt động tại bất cứ vị trí nào trong
chuỗi như: đầu vào, sản xuất, chế biến, phân phối hay bán lẽ. Ở bất cứ vị trí nào
trong chuỗi, các nguyên tắc tạo giá trị vẫn tương tự nhau. Trước hết doanh nghiệp
sẽ phải có một hệ thống nguồn lực có thể sử dụng để tạo giá trị. Các nguồn lực này
có thể là vật chất hay tự nhiên, vốn và nhân lực. Doanh nghiệp sử dụng các nguồn
lực tài nguyên và khả năng sáng tạo của mình để tạo ra giá trị cho khách hàng
trung gian và từ đó sẽ tạo ra lợi nhuận. Giá trị được tạo ra chủ yếu thông qua hoạt
21



động của doanh nghiệp nhưng giá trị có thể nâng cao bằng với khách hàng và nhà
cung cấp đầu vào. Doanh nghiệp tạo giá trị thông qua chế biến hay nâng cao, hoàn
thiện sản phẩm. Các mối liên kết này đối với nhà cung cấp đầu vào có liên quan đến
hoạt động mua bán và công tác hậu cần đầu vào. Việc bảo trì sản phẩm cuối cùng
để đảm bảo chất lượng cũng phải liên hệ với công tác hậu cần đầu ra.
1.1.3.3.

Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất

Quá trình chuyển hóa của dòng sản phẩm vật chất hình thành dòng sản phẩm
vật chất. Sản phẩm vật chất chuyển động từ các nhà cung cấp đầu vào như chuối
giống, phân bón đến hộ trồng chuối, đến người thu gom và đến khách hàng cuối
cùng hoặc đến các công ty thu mua xuất khẩu. Đây là dòng không thể thiếu được
trong chuỗi cung sản phẩm. Dòng nguyên liệu (giống, phân bón…) đi từ nhà cung
cấp đầu tiên được xử lý qua các trung gian (các đại lý) và được chuyển đến hộ
nông dân trồng chuối (đơn vị trung tâm) để sản xuất ra sản phẩm chuối và chuyển
sản phẩm chuối đến tay khách hàng thông qua các luồng sản phẩm trong dòng hạ
nguồn.
1.1.3.4.

Quá trình chuyển hóa của dòng tài chính

Theo các chuyên gia của Ngân hàng thế giới (2010), chuỗi cung thực phẩm
trong nông nghiệp là các mạng lưới có ba dòng chảy cơ bản xuyên suốt chiều dài
của chuỗi là sản phẩm vật chất, dòng thông tin và dòng tài chính.
Dòng tài chính: dòng này lưu thông theo hướng ngược lại với dòng sản phẩm
vật chất. Đó là quá trình chi trả, các khoản tín dụng phải thu và phải trả, các khoản
cho vay, lịch thanh toán trả nợ….Việc tối ưu hóa dòng tài chính được thực hiện
mang tính riêng biệt trong mối liên kết của chuỗi cung sản phẩm, hiếm khi một cách

tổng thể. Việc tối ưu hóa dòng tài chính này sẽ làm cho nó cải thiện được lợi ích của
mỗi tác nhân, nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi bộ phận và của toàn bộ chuỗi
cung sản phẩm. Dòng tài chính được đưa vào chuỗi bởi duy nhất người tiêu dùng
khi họ đã nhận được sản phẩm hoặc đầy đủ chứng từ hợp lệ.có thể thấy chính lợi
nhuận đã liên kết các đơn vị kinh doanh lại với nhau. Chuỗi cung tạo nên chuỗi giá
22


trị trong đó các tác nhân có cơ hội chia sẻ dòng tiền ở mức độ khác nhau, tùy vào
vai trò và vị thế của mỗi tác nhân. Phần thấp nhất thuộc về các tác nhân thực hiện
các công đoạn sơ chế vì những công đoạn này tạo ra rất ít giá trị gia tăng cho sản
phẩm.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi cung

Nhóm nhân tố vĩ mô
- Chính sách và sự hỗ trợ của Nhà nước, các chủ trương chính sách của Nhà nước có

ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của hộ.
- Cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất và tiêu thụ. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và tiêu thụ hàng hóa bao
gồm: hệ thống đường sá, hệ thống thông tin liên lạc, phương tiện vận chuyển,
phương tiện chuyên chở, trung tâm thương mại….
- Thị trường: Bất kỳ hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nào đều chịu tác động
qua lại của cung cầu trên thị trường. Sự thay đổi cung, cầu hàng hóa dịch vụ sẽ
ảnh hưởng đến cơ chế hình thành giá cả, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của hàng hóa dịch vụ đó.

Nhóm nhân tố vi mô
- Vốn: Vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vốn dùng để
đầu tư mua sắm trang thiết bị cũng như để trang trải các khoản chi phí trong quá

trình sản xuất. Nếu người sản xuất đủ vốn để đáp ứng các nhu cầu sử dụng vốn
trong quá trình sản xuất thì kết quả đạt được sẽ tốt hơn, ngược lại nếu sản xuất
thiếu vốn thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn như thiếu tiền mua cây giống, phân bón,
phòng bệnh….dẫn đến kết quả đạt được không cao. Ngay cả trong tiêu thụ, nếu hộ
sản xuất có đủ vốn để mua sắm phương tiện vận chuyển, cất trữ và bảo quản thì
làm tăng khả năng chủ động trong tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận thu được cũng
cao hơn.
- Lao động: Lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong sản xuất chuối
nói riêng mang tính mùa vụ rất cao. Thời gian cần nhiều lao động chủ yếu là đến
vụ thu hoạch, nếu lao động đáp ứng đủ thì sẽ thu hoạch đảm bảo yêu cầu về chất
lượng và số lượng.
- Quy mô diện tích: Quy mô diện tích là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị
sản lượng của nông hộ. Việc mở rộng quy mô diện tích của nông hộ là cơ sở cho

23


việc tăng giá trị sản lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ và nâng cao
thu nhập cho hộ nông dân.
- Tập quán canh tác, trình độ và kỹ năng của người sản xuất: Tập quán canh tác là
những kinh nghiệm sản xuất được tích lũy lâu đời và mang nét đặc trưng của mỗi
vùng miền, tuy nhiên trên địa bàn huyện với tập quán canh tác còn thô sơ, ít sử
dụng cơ giới hóa vào sản xuất làm năng suất chuối không cao, gây nhiều khó khăn
và hao phí nhiều thời gian lao động...Vì vậy việc áp dụng cơ giới hóa và những tiến
bộ kỹ thuật trong sản xuất và nâng cao trình độ kỹ thuật cho người dân trong các
khâu sản suất là điều hết sức cần thiết.
1.1.5.
1.1.5.1.

Kinh nghiệm trong quản lý chuỗi cung, hoàn thiện chuỗi cung

Kinh nghiệm trong việc cung ứng Rau an toàn theo hướng
VietGap ở Đồng Bằng sông Cửu Long

Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng sản xuất lương thực lớn nhất cả nước, nổi
tiếng về lúa, thủy sản, cây ăn trái nhiệt đới. Trong những năm trở lại đây, người
nông dân ở Đồng Bằng sông Cửu long cũng dần chuyển đổi thế độc canh cây lúa
sang trồng một số loại cây rau màu ngắn ngày cho năng suất cao, không những
cung cấp cho nhiều tỉnh trong khu vực, thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội mà còn xuất
khẩu sang một số nước như Campuchia và Trung Quốc.
Trong chuỗi giá trị rau ở ĐBSCL, Hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt
quan trọng vì HTX là nơi làm trung gian thu mua rau của người dân một cách tập
trung, sau đó bán cho thương lái và công ty xuất khẩu, hay bán cho các quán ăn,
nhà hàng và bỏ sỉ cho người thu mua ở chợ địa phương, vì vậy thị trường được ổn
định cả về giá cả lẫn số lượng, tránh tình trạng người nông dân bị thương lái chèn
ép giá, đây là một điểm đáng quan trọng và góp phần không nhỏ trong việc nâng
cao hiểu quả chuỗi cung ứng rau trong vùng.
Nông dân

Hợp tác xã

24


Doanh
nghiệp
Xuất
khẩu

Thương lái


Người bán
lẻ/ siêu thị

Nhà
hàng,quán
ăn.

Bán tại các tỉnh
khác.

Sơ đồ 5: Chuỗi cung ứng rau an toàn ở ĐBSCL
Nguồn: Luanvan.net.vn “chuỗi cung ứng rau ở ĐBSCL theo hướng GAP”.
Người nông dân ở những vùng chuyên canh rau thường nắm khá vững yêu cầu
quy định về trồng rau an toàn, tập trung đầu tư (nhà lưới, phân bón…) cho rau. Tuy
nhiên, việc có sự góp mặt của HTX trong chuỗi tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo
việc thực hiện nghiêm ngặt các quy định theo đúng chuẩn GAP, mang lại nhiều
thành công, nâng cao thu nhập cho nông dân của vùng, nhiều nông dân đã thoát
nghèo, vươn lên thành những hồ giàu trong vùng, nhờ trồng rau với quy mô lớn.
1.1.5.2.

Kinh nghiệm quản lý chuỗi cung ứng của tập đoàn dệt may Esquel
Tập đoàn Equel là một trong những nhà sản xuất hàng đầu về áo sơ mi chất

lượng cao được thành lập tại Hồng Kông, nhưng nó lại là công ty tiên phong trong
việc sử dụng hình thức buôn bán bù trừ để xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ. Tính
đến năm 2010, chuỗi cung ứng nội bộ của Equel đã bao gồm những công đoạn chính
trong quy trình sản xuất may mặc. Tất cả các hoạt động từ việc nuôi trồng và sản
xuất sợ xám đều được tiến hành dựa trên những yêu cầu của khách hàng, chuỗi
cung ứng độc đáo này cho phép Esquel mang đến cho khách hàng những sản phẩm,
dịch vụ với chất lượng tốt nhất

Bài học đầu tiên rút ra từ Esquel là việc tham gia vào khâu đầu tiên trong chuỗi
cung ứng là nuôi tằm hay trồng bông, trong khi đó các doanh nghiệp dệt may khác
chỉ thường quan tâm đến việc mua nguyên liệu ở đâu sao cho đạt yêu cầu mà chưa
nghĩ tới việc tạo ra nguyên liệu cung cấp cho chính hoạt động của mình. Việc tham
gia vào việc nuôi trồng bông, công ty có thể kiểm soát nguồn cung và chất lượng
nguyên vật liệu. Thứ hai là việc áp dụng phương thức kiểm tra lại cho mỗi hoạt
25


×