Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ HOÀN THIỆN cơ CHẾ tín DỤNG đầu tư của NHÀ nước TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.94 KB, 181 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1990 trở về trước, vốn đầu tư phát triển của Nhà nước chủ
yếu được cân đối từ Ngân sách Nhà nước. Thực hiện chủ trương "đổi mới",
xóa dần bao cấp trong đầu tư, Luật Ngân sách Nhà nước được ban hành đã
đánh dấu sự thay đổi căn bản quá trình quản lý vốn đầu tư phát triển. Đối
tượng được đầu tư trực tiếp bằng vốn Ngân sách Nhà nước thu hẹp và đối
tượng được đầu tư bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước dần
được mở rộng.
Cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam được áp
dụng chính thức từ 1990 đã đóng góp tích cực, tạo ra được nhận thức mới,
phương pháp mới, cách làm mới phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh
tế, góp phần thực hiện chủ trương xóa bao cấp trong đầu tư và xây dựng, tạo
lập môi trường tài chính tiền tệ lành mạnh, thông thoáng, đưa nền kinh tế
thoát khỏi khủng hoảng và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Tuy nhiên, sự ra đời, tồn tại và phát triển của tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước được xuất phát từ cơ chế bao cấp nói chung và bao cấp về
đầu tư xây dựng nói riêng, do đó hệ thống chính sách, cơ chế tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện. Với
phương châm vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm, cơ chế tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Vai trò tiềm
năng của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chưa được phát huy đầy đủ.
Mặc dù cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã có sự hoàn thiện
dần song ở chừng mực nào đó vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát
triển của nền kinh tế. Do vậy, việc nghiên cứu để "hoàn thiện cơ chế tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,



2

hiện đại hóa ở Việt Nam" không những là vấn đề cần thiết có tính cấp bách,
mà còn có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước. Nhiệm vụ của luận án là:
- Cụ thể hóa và khái quát hóa những cơ sở lý luận về đầu tư, đầu tư
phát triển, vốn đầu tư, vốn đầu tư cơ bản, tín dụng và tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước.
- Làm rõ bản chất, nguyên tắc hoạt động của tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước để hình thành những nhận thức mới trong công tác quản lý và
định hướng công tác nghiên cứu cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình đầu tư toàn xã hội và cơ chế
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước giai đoạn 1991 - 2000, từ đó rút ra
những nội dung cần hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
- Hướng hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận và thực tiễn cơ chế
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Với tính đa dạng và phức tạp của đề
tài, luận án chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và cơ chế
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo các nội dung đã được quy định



3

tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 và các Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về quản lý tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để khái
quát và hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với những quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng nói chung, quản lý tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước nói riêng. Đồng thời luận án cũng sử dụng các
phương pháp phân tích thống kê, diễn giải, quy nạp, đánh giá, so sánh, tổng
hợp và kiểm chứng trên cơ sở các dữ liệu khảo sát thực tế... để hoàn thiện cơ
chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam không những là vấn đề cần
thiết có tính cấp bách, mà còn có ý nghĩa quan trọng cả về khoa học và thực tiễn:
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần hệ thống hóa và làm rõ các quan
điểm, nhận thức về đầu tư và đầu tư phát triển, về vốn đầu tư và vốn đầu tư cơ
bản, về tín dụng và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Luận chứng cơ
sở, tiền đề, bản chất và nguyên tắc hoạt động của tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước phục vụ việc nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua nghiên cứu, phân tích đánh giá thực
trạng hoạt động đầu tư và cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước giai
đoạn 1991-2000, đúc rút kinh nghiệm của một số nước trong hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất định hướng



4

và nội dung hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong
thời gian tới. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những cán bộ
làm việc trong tổ chức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các cán bộ
nghiên cứu, hoạch định chính sách kinh tế tài chính vĩ mô.
5. Kết cấu của luận án
Nội dung cơ bản của luận án gồm 168 trang, 2 biểu đồ, 2 sơ đồ, 2 biểu
số liệu. Ngoài ra còn có phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác
giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục gồm 8 bảng số liệu kèm theo.
Luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư và tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chương 2: Thực trạng cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước ở Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000.
Chương 3: Hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ


1.1.1. Nhận thức chung về đầu tư
Đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển đối với
từng đơn vị, từng cá nhân tham gia hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đối với
quốc gia, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa
khóa của sự tăng trưởng.
Đầu tư là khái niệm hết sức quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu
khoa học kinh tế, các đơn vị sản xuất, kinh doanh và đối với mỗi chúng ta.
Tuy nhiên, khái niệm và bản chất của đầu tư cho đến nay vẫn chưa được hiểu
một cách thống nhất. Tùy theo từng góc độ của người tiếp cận, đầu tư được
hiểu và định nghĩa theo những cách khác nhau. Vậy thực chất đầu tư là gì?
Phần đông các nhà kinh tế đương thời cho rằng đầu tư là "phương
thức tạo giá trị đối với những thứ có thể đầu tư, để cho vốn thực hiện được
chức năng cung cấp giá trị thặng dư cho người sở hữu nó" [36, tr. 83-84].
Đối với nhà kinh tế học David Begg, "đầu tư biểu thị lượng tiền mà
các hãng muốn bổ sung vào dự trữ vốn để tiêu dùng trong tương lai. Đó là
khoản sản xuất hiện tại được để ra một bên để bổ sung vào dự trữ vốn chứ
không phải để tiêu dùng ngay" [19, tr. 485].
Các nhà kinh tế học của trường đại học Havớt (Mỹ) hoàn toàn có lý
khi nhìn nhận dưới góc độ nguồn gốc của vốn đầu tư và cho rằng "đầu tư là
để dành tiêu dùng hiện tại thay vì tiêu dùng lớn hơn trong tương lai" [2, tr.
51].


6

Robert J.Gordon - tác giả cuốn kinh tế học vĩ mô - hoàn toàn đúng khi
nhìn nhận đầu tư dưới góc độ giá trị biên và quan niệm rằng đầu tư là đưa
thêm một phần sản phẩm cuối cùng vào kho tài sản vật chất sản sinh ra thu
nhập của quốc gia hay thay thế các tài sản vật chất cũ đã hao mòn [35, tr. 77].
Khái niệm về đầu tư không nhất quán cũng được thể hiện trong tài liệu

được coi là nhất quán hơn cả - Từ điển quản lý kinh doanh tài chính (Nhà
xuất bản Thế giới, 1994). Ngay trong "cẩm nang" này cũng tồn tại tới ba khái
niệm chính về đầu tư.
Thứ nhất, theo quan điểm kinh tế, đầu tư là việc bỏ vốn để tham gia
vào hoạt động của xí nghiệp trong nhiều chu kỳ kinh doanh nối tiếp nhau.
Đây chính là quá trình tích lũy các yếu tố cho sản xuất hay kinh doanh.
Thứ hai, theo quan điểm tài chính, đầu tư là làm bất động một số vốn
nhàn rỗi nhằm thu tiền lãi trong nhiều thời kỳ nối tiếp. Số vốn nhàn rỗi này
bao gồm không chỉ các tài sản hiện vật mà còn gồm các khoản chi tiêu gián
tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh như nghiên cứu, đào tạo nhân viên,
chi phí quản lý.
Thứ ba, theo quan điểm kế toán, khái niệm đầu tư gắn liền với việc chi
một khoản vào một trong các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Khái niệm đầu tư
không thể tách rời khỏi phạm vi thời gian và thời gian càng dài thì việc bỏ
vốn đầu tư càng gặp nhiều rủi ro [54, tr. 9].
Như vậy, ở mỗi cách tiếp cận khác nhau người ta nhìn nhận không
giống nhau về đầu tư. Các quan niệm về đầu tư nêu trên đều mới chỉ phản ánh
được khía cạnh này hay khía cạnh khác của đầu tư và chưa nhìn nhận đầu tư
với cách nhìn tổng thể và mang tính khái quát. Theo chúng tôi, bản chất của
đầu tư cần phải được nhận thức trên cách nhìn tổng quan với đặc tính động.
Đầu tư là khái niệm trừu tượng.
Bản chất đầu tư cần phải được nhìn nhận theo một số đặc trưng sau:


7

Thứ nhất, nguồn lực trong hiện tại để tiến hành hoạt động đầu tư
không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả giá trị của quyền lợi vật chất và phi
vật chất mà nhà đầu tư bỏ ra.
Thứ hai, đặc điểm kinh doanh của các nhà đầu tư được thể hiện thông

qua mục đích thu lợi nhuận và khả năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, tính rủi ro, mạo hiểm do đặc điểm không xác định chắc chắn
trước trong tương lai do ảnh hưởng của yếu tố thời gian.
Tóm lại, đầu tư phải là quá trình tập trung các nguồn lực và tiến hành
các hoạt động với mục đích thu được kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra.
Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, sự
hiểu biết và các nguồn lực phi vật chất khác. Nguồn lực có thể là hữu hình
hoặc vô hình, vật chất hoặc phi vật chất và nói chung là giá trị.
Kết quả trong tương lai có thể là sự tăng thêm của các giá trị, các tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (như nhà máy, năng lực sản xuất,
đường sá), tài sản trí tuệ (như trình độ văn hóa, chuyên môn, sự hiểu biết khoa
học - kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất
cao trong nền sản xuất của xã hội.
Đầu tư có thể tiến hành theo những phương thức khác nhau, thông
thường có hai phương thức đầu tư chủ yếu: đầu tư gián tiếp và đầu tư trực
tiếp.
Đầu tư gián tiếp là phương thức mà chủ đầu tư không trực tiếp tham
gia điều hành quản lý quá trình thực hiện, vận hành hoạt động đầu tư và sản
xuất kinh doanh để tạo ra kết quả cuối cùng. Đầu tư gián tiếp được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như việc Chính phủ một số quốc gia
thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển cho các Chính phủ của các
nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; tư nhân cho vay để hưởng lãi; các


8

cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá (trái phiếu, cổ phiếu) để hưởng
lợi tức...
Đối với nước có nền tài chính phát triển, độ sâu tài chính khẳng định

phương thức đầu tư gián tiếp được phổ biến đối với các nền kinh tế phát triển.
Đầu tư gián tiếp được quy định chính bởi sự phát triển của nền tài chính quốc
gia, hiệu ứng "quy mô sản xuất" phù hợp với quy luật "năng suất lao động
giảm dần" và của chính sự chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội.
Phương thức đầu tư trực tiếp là việc chủ sở hữu trực tiếp tham gia
quản lý quá trình thực hiện, vận hành đầu tư và thu hồi vốn đầu tư. Đầu tư
trực tiếp lại được phân thành hai loại là đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát
triển.
Đầu tư dịch chuyển là quá trình hoạt động nhằm chuyển đổi chủ sở
hữu các cơ sở, năng lực sản xuất hiện có để nắm quyền chi phối hoạt động
của chúng. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản xã
hội mà chỉ thay đổi quyền sở hữu chúng.
Tuy nhiên, trong phạm vi nền kinh tế vĩ mô đầu tư chuyển dịch là một
trong những nhân tố quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả nhất các tiềm lực
của đất nước và tạo tiền đề cho đầu tư phát triển. Quá trình cổ phần hóa ở
nước ta hiện nay là một hình thức đầu tư dịch chuyển. Quyền sở hữu nhà
nước đối với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp sẽ từng bước chuyển sang sở
hữu của các thành phần kinh tế khác.
Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất
hiện có hoặc tạo ra các năng lực sản xuất mới. Đây là tiền đề để thực hiện quá
trình tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tạo thêm chỗ làm việc cho
người lao động và là điều kiện để thực hiện đầu tư gián tiếp và đầu tư dịch
chuyển. Ý nghĩa quyết định của đầu tư phát triển là góp phần quan trọng làm
thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội của đất nước. Nói cách khác, đầu tư phát triển


9

là quá trình đầu tư làm tăng trưởng kinh tế song song với thay đổi cơ cấu kinh
tế - xã hội. Hình thức đầu tư phát triển gồm hai loại: đầu tư chiều rộng và đầu

tư chiều sâu. Lựa chọn hình thức đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu hay kết
hợp một cách hợp lý phụ thuộc mục tiêu chương trình phát triển kinh tế - xã
hội từng thời kỳ, phụ thuộc vào việc thực hiện công nghiệp hóa, hay hiện đại
hóa nền kinh tế hay phối hợp theo yêu cầu nhất định.
Như vậy, hình thức đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp có mối liên hệ
nhân quả. Đầu tư dịch chuyển luôn là nguyên nhân và kết quả của đầu tư phát
triển. Ngược lại, đầu tư phát triển có thể đạt được trên quy mô lớn hơn nếu
như có sự kết hợp của phương thức đầu tư dịch chuyển.
1.1.2. Nhận thức về vốn đầu tư
Để đáp ứng những nhu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có
vốn đầu tư. Vốn đầu tư là điều kiện cần và đóng vai trò quyết định để thực
hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Không đủ vốn
đầu tư thì mọi yêu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội chỉ là ảo tưởng. Chẳng
phải ngẫu nhiên khi nhắc đến các yêu cầu, đòi hỏi về tăng trưởng kinh tế - xã
hội thì điều quan trọng đầu tiên được đề cập đến là vấn đề huy động nguồn
vốn đầu tư.
Trong hàm số sản xuất Kobu-đu-gơ-lát cho rằng, tiền vốn là một trong
ba yếu tố sản xuất lớn cùng với lao động và kỹ thuật [55, tr. 10]. Trong mô
hình tăng trưởng Ha-rốt-đô-ma, vốn là yếu tố đầu vào chủ yếu làm cho kinh tế
tăng trưởng [55, tr. 10].
Hiện nay trong các nhà lý luận về đầu tư và vốn đầu tư chưa có sự
thống nhất nhận thức về bản chất và vai trò của vốn đầu tư.
Các nhà kinh tế học trường phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển đã đúng
khi cho rằng, vốn đầu tư là một trong các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh
(đất đai, lao động, tiền vốn khác) vốn đầu tư là các sản phẩm được sản xuất ra để


10

phục vụ cho sản xuất (máy móc, thiết bị) [11, tr. 158]. Tuy nhiên, họ đã chưa

nhìn thấy đặc tính động và yếu tố thời gian trong bản chất của vốn đầu tư.
D. Ricardo cho rằng tư bản là những tư liệu sản xuất và vật phẩm (tiêu
dùng) là một bộ phận của cải quốc gia dùng vào sản xuất như nhà xưởng, máy
móc [18, tr. 64]. Ông hoàn toàn đúng khi nói về thành phần giá trị của tư bản,
nhưng lại chưa xoáy sâu vào bản chất và sự khác biệt cơ bản giữa vốn đầu tư
và tư bản.
Trong tác phẩm "Các nguyên lý kinh tế chính trị học" của mình,
A. Marslall xem tư bản là tất cả mọi sự tích lũy của cải nhằm để sản xuất ra
của cải vật chất và nhằm mục đích tạo ra những tiền lãi [18, tr. 204]. Nhìn
nhận từ giác độ sinh lời của vốn đầu tư, Ông hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, Ông
mới chỉ nghiên cứu một giai đoạn trong quá trình đầu tư mà được gói trong
quá trình tích lũy.
Theo C.Mác: "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư" [26, tr. 131].
Trong định nghĩa này, C.Mác đã đưa ra chính xác, bản chất và tác dụng của
vốn đầu tư.Tuy nhiên, theo chúng tôi cũng phải hiểu đúng quan điểm của Mác
để có sự thống nhất nhận thức về vốn đầu tư
Các nhà kinh tế của Trường Đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội
trong giáo trình của mình cho rằng: "Vốn đầu tư là một loại quỹ tiền tệ đặc
biệt" [12, tr. 143].
Theo quan điểm này, tiền được gọi là vốn đầu tư phải thỏa mãn những
điều kiện sau:
Một là, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định. Hay nói
cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tiền có thực.
Hai là, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ
để tiến hành đầu tư kinh doanh.
Ba là, khi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích
sinh lời.


11


Điều kiện thứ nhất và thứ hai được coi là điều kiện ràng buộc để tiền
trở thành vốn đầu tư. Điều kiện thứ ba được coi là đặc trưng cơ bản nhất của
vốn đầu tư. Nếu tiền không vận động đó là đồng tiền "chết", nếu vận động
không vì mục đích sinh lời thì đó cũng không gọi là vốn đầu tư.
Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với định nghĩa: "Vốn đầu tư là giá
trị tài sản xã hội (bao gồm tài sản tài chính, tài sản hữu hình, tài sản vô hình)
được bỏ vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai" [53, tr. 42].
Theo chúng tôi, khái niệm vốn đầu tư trên cũng cần được cụ thể hóa
một số điểm sau:
Thứ nhất, trong định nghĩa này giá trị của tài sản xã hội được bỏ vào
đầu tư cần bao gồm đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các dạng
hoạt động khác.
Thứ hai, vốn đầu tư cần phản ánh đặc điểm kinh doanh của các nhà
đầu tư với mục đích thu lợi nhuận và khả năng tăng cường phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Do vậy, hiệu quả do đầu tư mang lại trong tương lai là
hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu kinh tế mới chỉ xem xét vốn đầu tư dưới
góc độ hiện vật là chủ yếu. Cách tiếp cận đó có ưu điểm là đơn giản, dễ hiểu
phù hợp với trình độ quản lý thấp. Tuy nhiên, họ chưa đề cập đến đặc điểm
vận động cũng như vai trò của vốn trong đầu tư - kinh doanh.
Theo chúng tôi, vốn đầu tư cần được hiểu như một khái niệm định lượng
cụ thể cho khái niệm trừu tượng là đầu tư trong cặp phạm trù đầu tư - vốn đầu tư.
Cách hiểu tương tự như các cặp phạm trù giá cả và giá trị, sức lao động và lao
động, định lượng và định tính, cụ thể và trừu tượng... Vốn đầu tư là định
lượng của khái niệm trừu tượng đầu tư trong phương thức sản xuất - xã hội nhất
định.
Vốn đầu tư là cốt lõi của mọi hoạt động kinh tế - xã hội, là những sự
hy sinh tiêu dùng hiện tại cả về tiềm lực vật chất, phi vật chất, con người, tài



12

nguyên thiên nhiên, tiềm năng tài chính, phi tài chính, hữu hình, vô hình... với
mục đích tạo mới hoặc tái tạo tư bản nhằm hướng tới sự tiêu dùng trong
tương lai tốt hơn. Vốn đầu tư là cơ sở hình thành tư bản, trong đó có cả tài sản
cố định, vốn sản xuất kinh doanh và nguồn nhân lực (tư bản con người).
Nguồn gốc hình thành vốn đầu tư chính là nguồn tài lực dùng để đảm
bảo quá trình tái sản xuất (giản đơn và mở rộng). Tuy nhiên, tất cả những
nguồn đó chưa được gọi là vốn đầu tư nếu chúng chưa được dùng để chuẩn bị
cho quá trình tái sản xuất. Tức là, tất cả những nguồn tài lực này lúc đó chỉ
đơn thuần là nguồn tích lũy (tiết kiệm trong thời kỳ nhất định), đòi hỏi phải có
những chính sách thu hút vốn đầu tư, khuyến khích, tạo động lực thu hút
nguồn tích lũy tiếp tục tham gia vào quá trình tái sản xuất. Những nguồn lực
này (có thể là một phần hoặc cũng có thể là toàn bộ) dưới sự tác động của các
chính sách, biện pháp kinh tế sẵn sàng tham gia vào quá trình tái sản xuất với
kỳ vọng nhận được những kết quả tốt hơn trong tương lai. Lúc đó, những tiềm
năng này mới thực sự được gọi là vốn đầu tư.
Vốn đầu tư sau khi trải qua quá trình đầu tư sẽ được chuyển dạng thành
những năng lực sản xuất nhất định (năng lực sản xuất, tài sản cố định, kỹ năng,
nguồn nhân lực...), và cứ như vậy, quá trình chu chuyển vốn đầu tư bao giờ cũng
đi trước một bước, cùng pha với quá trình tái sản xuất. Sự nhộn nhịp, năng
động, lớn mạnh và hiệu quả của quá trình đầu tư báo trước một thời kỳ tăng
trưởng kinh tế năng động, sự bành trướng của sản xuất. Hay nói cách khác,
phương tiện để đạt được những mục tiêu của chiến lược tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội đất nước chính là chính sách đầu tư đúng đắn. Thực hiện
tốt, có hiệu quả chính sách đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư từ việc tạo dựng,
nuôi dưỡng nguồn vốn, khuyến khích thu hút các tiềm năng, nguồn lực để đầu
tư cho đến việc quản lý và sử dụng một cách hiệu quả vốn đầu tư đóng một
vai trò quyết định trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.



13

Để quản lý và kế hoạch hóa vốn đầu tư, các nhà kinh tế phân loại vốn
đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng nhu cầu
quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại vốn đầu
tư thường được sử dụng là:
* Phân loại vốn đầu tư theo bản chất
Vốn đầu tư chia theo bản chất bao gồm vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu
tư vận hành.
Vốn đầu tư cơ bản là nguồn vốn đầu tư dùng để tạo mới, thay thế hoặc
đổi mới tài sản cố định của cả lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực phi sản
xuất vật chất. Vốn đầu tư cơ bản là thành phần tích cực trong vốn đầu tư toàn
xã hội. Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cơ bản đóng vai trò quyết
định trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Trong những điều kiện sản xuất, kinh doanh bình thường, việc chuyển
dịch nguồn vốn đầu tư cơ bản từ những lĩnh vực có hiệu quả kinh tế - xã hội
thấp đến những lĩnh vực có hiệu quả kinh tế - xã hội cao sẽ làm tăng hiệu quả
kinh tế - xã hội của nền kinh tế đất nước nói chung trong khi không đòi hỏi
phải tăng thêm tổng mức vốn đầu tư cơ bản.
Vốn đầu tư cơ bản bao gồm ba thành phần theo cơ cấu kỹ thuật: Vốn
đầu tư vào máy móc, thiết bị; vốn đầu tư vào xây lắp; và vốn đầu tư vào kiến
thiết cơ bản khác. Việc phân bổ vốn đầu tư vào ba thành phần quyết định cơ
cấu kỹ thuật của vốn đầu tư cơ bản.
Vốn đầu tư vận hành là nguồn vốn đầu tư dùng để hình thành tài sản
lưu động (nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị rẻ tiền mau hỏng, tiền mặt...), phục
vụ cho quá trình tái sản xuất. Thiếu vốn đầu tư vận hành, quá trình sản xuất sẽ
không có đủ điều kiện để thực hiện và vốn đầu tư cơ bản sẽ trở nên vô nghĩa
và không có hiệu quả.

* Phân theo tính chất tham gia vào quá trình tái sản xuất:


14

Vốn đầu tư phục hồi (bao gồm cả vốn khấu hao cơ bản) là nguồn vốn
được tích lũy lại với mục đích sẽ khôi phục lại quá trình sản xuất vào cuối
mỗi chu kỳ kinh doanh nhằm đảm bảo quá trình sản xuất liên tục, không
ngừng với quy mô không đổi, như cũ (tái sản xuất giản đơn).
Vốn đầu tư phát triển là nguồn vốn đầu tư hình thành từ nguồn tích
lũy (tiết kiệm trong nước và ngoài nước) được đầu tư trở lại để phát triển sản
xuất kinh doanh trong mỗi chu trình tái sản xuất nhằm đảm bảo quá trình sản
xuất liên tục với quy mô sản phẩm mới, lớn hơn cũ hoặc tiến bộ hơn cũ (tái
sản xuất mở rộng).
Vốn đầu tư phát triển là nguồn vốn đầu tư không thể thiếu được trong
mỗi nền kinh tế phát triển. Nguồn vốn đầu tư phát triển lớn hay nhỏ sẽ quy
định quy mô của mỗi nền kinh tế (phát triển nhanh hay chậm). Trong nền
kinh tế trì trệ, suy thoái, vốn đầu tư cơ bản chỉ bao gồm toàn bộ hoặc một
phần vốn đầu tư phục hồi. Trong trường hợp đó, nền kinh tế không thể mở rộng
được quy mô, tiến bộ khoa học kỹ thuật không có điều kiện được áp dụng và
cũng không thể nói đến bất kỳ sự cải thiện nào trong đời sống kinh tế - xã hội
đất nước.
Tăng nguồn vốn đầu tư phát triển là nhân tố vô cùng quan trọng trong
việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên,
tăng trưởng vốn đầu tư phát triển chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để tăng
trưởng kinh tế. Việc gia tăng vốn đầu tư phát triển sẽ ít tác dụng nếu việc
quản lý vốn đầu tư phát triển kém hiệu quả dẫn đến khả năng sinh lời của
đồng vốn đầu tư phát triển không cao. Do vậy, song song với việc tăng nhanh
nguồn vốn (huy động tối đa nguồn lực nhàn rỗi) dành cho đầu tư phát triển
cần đặc biệt chú trọng đến công tác quản lý nguồn vốn đầu tư phát triển, đảm

bảo phát huy tối đa hiệu quả kinh tế - xã hội của đồng vốn.


15

Vốn đầu tư chuyển dịch là nguồn vốn đầu tư mà kết quả của quá trình
thực hiện đầu tư không tạo nên tài sản cố định, kỹ năng, tri thức hay năng lực
sản xuất mới mà chỉ chuyển dịch tài sản cố định, năng lực sản xuất từ chủ thể
sở hữu này sang chủ thể sở hữu khác.
* Phân loại vốn đầu tư phát triển theo nguồn gốc vốn:
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bao gồm toàn bộ số vốn đầu tư của
tất cả các thành phần kinh tế của xã hội trong một khoảng thời gian nhất định.
Phân chia theo sở hữu phạm vi quốc gia, vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm vốn
đầu tư trong nước và vốn đầu tư ngoài nước.
Vốn đầu tư phát triển trong nước bao gồm toàn bộ nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội có tư cách pháp nhân, thể nhân
Việt nam, được thực hiện theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Vốn đầu tư trong nước bao gồm: Vốn đầu tư
phát triển từ Ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp
Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh,
vốn tín dụng (bao gồm cả vốn ODA).
Vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách nhà nước là phần cấp phát trực
tiếp cho các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, nằm trong mục chi của
Ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển hàng năm theo Luật Ngân sách Nhà
nước.
Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước là nguồn vốn
của các doanh nghiệp Nhà nước tích lũy để đầu tư trở lại với mục đích mở
rộng, cải tiến, hiện đại hóa sản xuất nhằm không ngừng tăng cường và mở
rộng năng lực sản xuất của mình.
Vốn đầu tư phát triển của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh là

nguồn vốn đầu tư phát triển của dân cư, các công ty tư nhân, công ty trách


16

nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các tổ chức kinh tế khác không thuộc sở hữu
của Nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Vốn tín dụng đầu tư là nguồn vốn được huy động từ nguồn vốn nhàn
rỗi, tích lũy được của các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội, các thành phần
kinh tế khác nhau (vì lý do này hay lý do khác không trực tiếp đầu tư vào sản
xuất được) chuyển cho các cá nhân, tổ chức kinh tế có nhu cầu về vốn đầu tư
phát triển. Nguồn vốn tín dụng bao gồm cả phần chi đầu tư phát triển từ Ngân
sách Nhà nước để cho vay ưu đãi (với lãi suất khuyến khích) và từ nguồn Hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) mà Chính phủ cho vay lại.
Vốn đầu tư phát triển ngoài nước bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp. Thị trường chứng khoán ở nước ta chưa
phát triển, trái phiếu Chính phủ phát hành ra nước ngoài đang trong giai đoạn
chuẩn bị, do vậy khái niệm vốn đầu tư nước ngoài chỉ nghiên cứu nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phân chia theo thành phần sở hữu, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bao
gồm: Vốn đầu tư phát triển Nhà nước và vốn đầu tư phát triển ngoài quốc doanh.
1.1.3. Cơ sở lý luận về vốn đầu tư cơ bản
Trong vốn đầu tư thì bộ phận cơ bản nhất và quan trọng nhất đóng vai
trò quyết định trong việc nâng cao năng suất lao động, mức tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế là vốn đầu tư cơ bản. Vốn đầu tư cơ bản là tổng hợp những
chi phí xã hội cần thiết có liên quan tới việc xây dựng, mua sắm và đổi mới
tài sản cố định (bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình).
Trước đây, khi nói đến vốn đầu tư cơ bản người ta cho rằng đó là đầu
tư để tạo ra tài sản cố định vật chất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các
công trình xây dựng.



17

Trong các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển, vốn đầu tư
sử dụng vào việc cung cấp các loại hàng hóa công cộng như đường sá, bệnh
viện, trường học được coi là chi tiêu thường xuyên của Chính phủ, và vì vậy
vốn đầu tư cơ bản thường được xác định là thuộc khu vực tư nhân.
Theo Robert J.Gordon trong cuốn kinh tế học vĩ mô của mình, vốn
đầu tư cố định (vốn đầu tư cơ bản) bao gồm mọi sản vật cuối cùng do giới
kinh doanh mua mà không có ý định đem bán lại. Những loại hình chủ yếu
của vốn đầu tư cố định là các công trình xây dựng (nhà máy, trụ sở, trung tâm
mua bán hàng, căn hộ, nhà.) và thiết bị (máy đếm tiền, máy điện toán, xe tải).
Những ngôi nhà mới xây và những chung cư bán cho từng cá nhân cũng được
tính là vốn đầu tư cố định [35, tr. 78]. Theo quan niệm này, vốn đầu tư cơ bản
là nguồn gốc tạo ra tài sản cố định hữu hình, chưa đề cập đến tài sản phi vật
chất (tài sản cố định vô hình).
Các nhà kinh tế học của trường Đại học kinh tế quốc dân trong "giáo
trình kinh tế đầu tư" cho rằng, vốn đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất mở rộng
các tài sản cố định [30, tr. 38].
Theo quan niệm của chúng tôi, vốn đầu tư cơ bản nhằm tạo lập và đổi
mới các tài sản cố định. Vốn đầu tư cơ bản được thực hiện trong cả quá trình
tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định của các cơ sở sản
xuất và không sản xuất. Các tài sản cố định đó là:
- Tài sản cố định hữu hình: những tư liệu lao động chủ yếu được biểu
hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như máy móc, thiết bị, phương tiện
giao thông, các công trình xây dựng.
- Tài sản cố định vô hình: những tài sản cố định không có hình thái vật
chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp
đến nhiều chu kỳ kinh doanh hoặc có tác dụng lâu dài như chi phí sử dụng

đất, mua bằng sáng chế, phát minh.


18

Vốn đầu tư cơ bản được thực hiện thông qua:
- Quá trình xây dựng cơ bản dưới dạng xây dựng mới và thậm chí xây
dựng lại, mở rộng và trang bị lại kỹ thuật của các doanh nghiệp đang hoạt
động và các công trình ngoài lĩnh vực sản xuất.
- Quá trình mua sắm thêm máy móc thiết bị, phương tiện giao thông,
thay thế máy móc, thiết bị cũ bằng máy móc thiết bị mới hoặc thay thế máy
móc thiết bị cũ bằng máy móc thiết bị hiện đại hơn và các công trình riêng lẻ
khác của tài sản cố định hoặc là các bộ phận của chúng.
- Quá trình mua sắm các lô đất và các công trình sử dụng thiên nhiên.
- Mua sắm và tạo lập các tài sản cố định có tính chất phi vật chất.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư cơ bản còn liên quan đến việc
mua sắm đất đai, các công trình sử dụng thiên nhiên và các thứ phi vật chất.
Hiện nay khái niệm "đầu tư" trong sách báo kinh tế thường sử dụng
đồng nghĩa với vốn đầu tư cơ bản. Sự đồng nhất đó theo chúng tôi là sự nhầm
lẫn cơ bản giữa hình thức và nội dung, cụ thể và trừu tượng, lượng và chất...
Khái niệm "đầu tư" là trừu tượng, "vốn đầu tư cơ bản" là khái niệm cụ
thể, định lượng.
Chúng ta hiểu vốn đầu tư là tổng thể các chi phí phản ánh quá trình bỏ
vốn vào tái sản xuất mở rộng xã hội, bao gồm vốn đầu tư để phát triển vốn cố
định, tăng vốn lưu động và tăng vốn cho các dạng hoạt động khác.
Đa số các nhà kinh tế cho rằng vốn đầu tư cơ bản là những chi phí xã
hội cần thiết để xây dựng mới và hoàn thiện kỹ thuật (mở rộng, cải tạo và
trang bị lại kỹ thuật) tài sản cố định.
Những chi phí, để hình thành vốn lưu động ở doanh nghiệp mới, tăng
vốn lưu động ở các doanh nghiệp đang hoạt động và tăng vốn cho các dạng

hoạt động khác không thuộc về vốn đầu tư cơ bản. Do đó, vốn đầu tư cơ bản
là một bộ phận cấu thành của vốn đầu tư:


19

Vốn đầu tư cơ bản
Vốn đầu tư

Vốn đầu tư vận hành
Vốn đầu tư khác

Như vậy, phạm vi của vốn đầu tư cơ bản hẹp hơn phạm vi của vốn đầu
tư. Đối tượng của vốn đầu tư cơ bản cụ thể hơn, nó tạo ra cơ sở vật chất cho
các ngành sản xuất và phi sản xuất.
Đặc điểm của vốn đầu tư cơ bản là khối lượng vốn lớn, thời gian thực
hiện dài, luân chuyển chậm và thời gian thu hồi vốn lâu.
Cơ cấu vốn đầu tư cơ bản được xem xét theo các khía cạnh khác nhau
như: cơ cấu theo lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất; cơ cấu theo các ngành,
lĩnh vực sản xuất; cơ cấu theo các địa phương, khu vực và lãnh thổ; cơ cấu
giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương; cơ cấu tái sản xuất vốn đầu tư
cơ bản; cơ cấu kỹ thuật vốn đầu tư cơ bản; cơ cấu theo các thành phần kinh tế;

cơ cấu theo thời gian.
Vốn đầu tư cơ bản tham gia vào quá trình tái sản xuất giản đơn và mở
rộng tài sản cố định cho các ngành (sản xuất và phi sản xuất), nói cách khác quá
trình tạo ra cơ sở vật chất cho các ngành kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy,
vốn đầu tư cơ bản quyết định đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của
mọi quốc gia, đặc biệt đối với những nước chưa phát triển và đang phát triển.
Vốn đầu tư cơ bản tác động đến nhiều mặt nền kinh tế - xã hội quốc gia, như:

- Vốn đầu tư cơ bản vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng
cung;
- Vốn đầu tư cơ bản tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
- Vốn đầu tư cơ bản với việc tăng khả năng khoa học và công nghệ
của đất nước;
- Vốn đầu tư cơ bản tác động đến tăng trưởng nền kinh tế - xã hội
đất nước;


20

- Vốn đầu tư cơ bản tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng
cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn
việc làm góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân;
- Vốn đầu tư cơ bản tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an
ninh và quốc phòng.
- Vốn đầu tư cơ bản tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh
tế tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
- Vốn đầu tư cơ bản quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp.
Như vậy, vị trí của vốn đầu tư cơ bản đối với nền kinh tế nói chung,
đối với doanh nghiệp nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả trước mắt và lâu dài.
Để đầu tư cơ bản phát huy có hiệu quả cho nền kinh tế - xã hội, cần phải có
chính sách đầu tư đúng đắn cho từng thời kỳ. Một trong những nội dung của
chính sách đầu tư cơ bản là sử dụng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
để điều hành vĩ mô nền kinh tế.
1.1.4. Vị trí của vốn đầu tư phát triển trong nền kinh tế thị trường
Vốn đầu tư phát triển là một bộ phận cấu thành quan trọng của vốn
đầu tư toàn xã hội. Quy mô sản xuất (trên phương diện kinh tế vi mô) và quy
mô nền kinh tế (trên phương diện kinh tế vĩ mô) phụ thuộc vào khối lượng và

chất lượng của vốn đầu tư phát triển.
Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Rate) là đại lượng phản
ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư phát triển, đánh giá nhu cầu về tỷ
trọng (%) vốn đầu tư phát triển trong GDP để đảm bảo cho GDP tăng trưởng
được 1%. Hay nói cách khác, cần tỷ trọng (%) vốn đầu tư phát triển trong
GDP là bao nhiêu để có được 1% tăng trưởng GDP trong điều kiện sản xuất
kinh doanh bình thường hay cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển để đảm
bảo tăng trưởng 1 đồng GDP.


21

ICOR = [ (VĐT*100) / GDP ] / Tr
VĐT - Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong chu kỳ tính toán (1 năm);
GDP - Tổng thu nhập quốc nội trong chu kỳ tính toán (1 năm);
Tr

- Tốc độ tăng (%) GDP trong chu kỳ tính toán (1 năm);

Trong cùng một trình độ công nghệ, kỹ thuật, năng suất lao động (hệ
số ICOR không đổi) tổng mức vốn đầu tư phát triển càng lớn sẽ đem lại tốc
độ tăng trưởng GDP càng cao.
Do vậy, việc huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển, định
hướng đầu tư và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển đóng vai trò
cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ
NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là giai đoạn phát triển có tính chất lịch
sử tất yếu đối với các quốc gia thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
tăng tốc. Từ thực tiễn quá trình công nghiệp hóa trên thế giới và ở nước ta,
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa ra các quan điểm:
- Trong thời đại ngày nay công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại
hóa.
- Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.


22

- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
kinh tế và tiến bộ xã hội.
- Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh
vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh [21, tr. 85-86].
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là "xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh từ nay đến năm 2020 ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [21, tr. 80].
Kinh nghiệm hơn 10 năm phát triển nền kinh tế mở cho thấy, rằng

phát huy nội lực là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát huy tối đa nội lực trên cơ sở nghiên cứu, tranh
thủ kinh nghiệm của các nước đã thực hiện công nghiệp hóa, nhất là các nước
đang phát triển ở Đông Á và Đông Nam Á sẽ góp phần rút ngắn thời gian
thực hiện công nghiệp hóa, khắc phục được nguy cơ tụt hậu nhằm tiến kịp các
nước đi trước theo chủ trương đi tắt, đón đầu tiến thẳng vào công nghệ tiên
tiến.
Những nước mà điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý có nhiều nét tương
đồng với nước ta ở Đông Á và Đông Nam Á đã thực hiện khá thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, khoảng
ba đến bốn thập kỷ.


23

Từ kinh nghiệm thực hiện thành công chính sách công nghiệp của các
nước Đông Á, các nhà kinh tế nhận định rằng, Việt Nam hiện nay đang ở giai
đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là giai đoạn phát
triển công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thực hiện phát triển các loại sản
phẩm thay thế nhập khẩu và dần hướng tới xuất khẩu.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Nhìn chung, trước Đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta rất
khó khăn, những kết quả đạt được chưa vững chắc, sản xuất mang tính chất
tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa kém phát triển, sản phẩm thặng dư chưa
nhiều, năng lực sản xuất chưa được sử dụng tốt nên hiệu quả kinh tế còn thấp,
tiềm năng kinh tế đất nước lớn nhưng chưa được khai thác, sử dụng hợp lý và
hiệu quả.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, công cuộc "đổi mới" đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Bước vào thập kỷ 90, đất nước vẫn chưa ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.Thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII và các Nghị quyết của
Ban chấp hành Trung ương, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ về cụ
thể cương lĩnh và chiến lược trên hầu hết các lĩnh vực, Nghị quyết Đại hội
VIII và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương tiếp theo, nhất là Nghị
quyết Trung ương IV, Trung ương V, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn và quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế -xã hội trong 10 năm (19912000). Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội có những diễn biến phức tạp, cụ thể
là:
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã có những nét đổi mới sâu
sắc. Những thành tựu mà ngành nông nghiệp đạt được trong thời gian qua là
hết sức cơ bản và quan trọng, là nền tảng cho sự ổn định để tiếp tục phát triển
nền kinh tế. Nông nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên
nhiều lĩnh vực; nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ đã được áp dụng,


24

góp phần quan trọng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Cơ sở
vật chất, kỹ thuật được cải thiện, tạo sự chuyển biến quan trọng cho phát triển
lực lượng sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Nguồn vốn cho đầu tư phát
triển nông nghiệp và nông thôn chiếm bình quân 10,2% trong tổng số vốn đầu
tư toàn xã hội. Hệ thống giao thông nông thôn được nâng cấp và phát triển,
công nghiệp chế biến có bước phát triển khá, một số cơ sở chế biến đã được
xây dựng ngay trên vùng nguyên liệu.
- Quan hệ sản xuất ở nông thôn đã có sự thay đổi căn bản, tạo động
lực quan trọng để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp và nông thôn. Các hợp tác xã kiểu mới ở nông thôn được thành lập, đảm
đương chức năng dịch vụ trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Kinh tế
trang trại đã xuất hiện và phát triển khá nhanh (đến nay đã có khoảng 11,5
vạn trang trại, chủ yếu ở vùng trung du và miền núi). Nông lâm trường quốc
doanh đã được tổ chức quy hoạch lại nên việc sử dụng đất hợp lý hơn và có hiệu

quả hơn.
- Đời sống ở nhiều vùng nông thôn đã được nâng lên một bước đáng
kể, điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, vui chơi giải trí đã được cải
thiện; bộ mặt kinh tế - xã hội ở một số vùng nông thôn đã có sự thay đổi rõ
rệt, hàng triệu hộ nông dân đã dần trở nên giàu có.
- Ngành công nghiệp đã từng bước đổi mới công nghệ, tổ chức lại sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường,
đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Phát triển công nghiệp
trong giai đoạn vừa qua đã góp phần phân bổ lao động một cách hợp lý hơn,
tạo tiền đề hình thành nhiều cơ sở công nghiệp, nhiều trung tâm công nghiệp
mới, trong đó đặc biệt là trên địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm của đất
nước như khu vực ngoại thành của các đô thị lớn: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vùng Tàu.


25

- Ngành du lịch đã phát triển tương đối đa dạng, đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng kinh tế và phục vụ đời sống xã hội; từng bước nâng cao chất lượng
phục vụ, giảm chi phí hoạt động để tiếp tục phát triển. Dịch vụ du lịch chất
lượng cao được hình thành như: các tuyến du lịch được thiết lập mới cả
đường bộ, đường sông, đường biển, miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng
ven biển và hải đảo; cùng với sự phát triển nhanh của khách du lịch và hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lực lượng lao động trong ngành du lịch
phát triển nhanh, bình quân hàng năm tăng khoảng 25%. Chất lượng kinh
doanh và chất lượng lao động ngành du lịch dần được nâng cao (50% số lao
động đã được đào tạo qua các trường dạy nghề, các khóa bồi dưỡng ngắn hạn
về du lịch).
- Ngành vận tải về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hóa
và đi lại của nhân dân với nhiều loại phương tiện đa dạng và phương thức

thuận lợi; cơ chế quản lý vận tải đã có những đổi mới quan trọng, đảm bảo
quá trình lưu thông hàng hóa, hành khách được thông suốt.
- Bưu chính viễn thông phát triển nhanh và khá hiện đại. Mạng lưới viễn
thông trong nước đã được hiện đại hóa về cơ bản. Tất cả các tỉnh, các huyện
trong cả nước đã được trang bị tổng đài điện tử với nhiều loại hình dịch vụ
thông tin mới nhằm bước đầu thỏa mãn nhu cầu thông tin thương mại của
công chúng.
- Quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng sau khi nước ta
gia nhập ASEAN; Mỹ xóa bỏ cấm vận và dần bình thường hóa quan hệ
thương mại với nước ta.
- Hoạt động xuất nhập khẩu đã có những bước phát triển khá bất kể thị
trường xuất khẩu bị thu hẹp một cách đột ngột do sự tan rã của Liên Xô và
khối các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
- Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô,
chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô học sinh tiếp tục tăng


×