Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ HOÀN THIỆN cơ CHẾ điều hòa vốn TRONG THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.98 KB, 190 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường liên ngân hàng là một bộ phận của thị trường tiền tệ và là
bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Thị trường liên ngân
hàng là thị trường mà ở đó phát sinh quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng. Sự
phát triển của thị trường liên ngân hàng phụ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế và sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng
phát triển tác động đến sự phát triển của thị trường tiền tệ và ảnh hưởng đến
hiệu quả của chính sách tiền tệ, đồng thời tác động đến việc khai thác và sử
dụng vốn giữa các ngân hàng một cách có hiệu quả. Thị trường liên ngân
hàng bao gồm thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ. Ở Việt Nam, thị trường
liên ngân hàng được thành lập từ năm 1993 nhưng rất sơ khai và hoạt động chưa
đúng nghĩa của nó. Cơ chế điều hòa vốn từ ngân hàng thừa sang ngân hàng thiếu
còn đơn điệu, áp đặt, một chiều. Vì vậy, chưa thể phát huy hết vai trò của thị
trường tới các tổ chức tín dụng cũng như nền kinh tế. Qua quá trình đổi mới
và phát triển đến nay các ngân hàng Việt Nam rất cần sự phát triển của thị
trường, nhằm trao đổi vốn từ ngân hàng thừa sang ngân hàng thiếu, góp phần
ổn định nguồn vốn và sử dụng vốn an toàn hiệu quả mang lại lợi ích cho ngân
hàng.
Mặt khác, thị trường liên ngân hàng có ý nghĩa quan trọng không chỉ
đối với các Ngân hàng thương mại (NHTM), mà còn có ý nghĩa với Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) và với Chính phủ trong điều hành chính sách kinh
tế. Thông qua thị trường liên ngân hàng, NHNN sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế. Do vậy, việc đưa ra các giải pháp để xây
dựng và phát triển thị trường liên ngân hàng, hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn


2



trên thị trường liên ngân hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thị
trường tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Để có
được thị trường liên ngân hàng phát triển và cơ chế điều hòa vốn hiệu quả,
phù hợp với Việt Nam thì việc học tập kinh nghiệm về tổ chức vận hành và
điều hòa vốn trong thị trường liên ngân hàng của các nước trên thế giới cũng
là vấn đề cần thiết, để Việt Nam có bước đi thận trọng hơn trong việc hoàn
thiện và phát triển thị trường, nên việc chọn và nghiên cứu đề tài: "Hoàn
thiện cơ chế điều hòa vốn trong thị trường liên ngân hàng" là hoàn toàn cần
thiết.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Về thực chất, mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ lý luận
về thị trường liên ngân hàng bao gồm thị trường ngoại tệ và nội tệ; phân tích
được vai trò quan trọng của thị trường trong việc phân phối và điều chuyển vốn
giữa các ngân hàng, đồng thời lý giải được tại sao điều hòa vốn trong thị trường
liên ngân hàng lại áp dụng hai cơ chế: cơ chế điều hòa vốn thị trường và cơ chế
điều hòa vốn có sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương; phân tích thực trạng
thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua; đánh giá các mặt tồn
tại và nguyên nhân ảnh hưởng; nêu được kinh nghiệm tổ chức hoạt động của thị
trường liên ngân hàng một số quốc gia trên thế giới để có thể học tập và ứng
dụng vào Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường và
hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn trong thị trường liên ngân hàng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn trong thị
trường liên ngân hàng đồng thời với việc hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị
trường liên ngân hàng. Đây là hai bộ phận có quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau
mà không thể tách rời, vì vậy, muốn hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn trong thị


3


trường liên ngân hàng thì đồng thời phải hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị
trường liên ngân hàng.
Phạm vi nghiên cứu: Thị trường liên ngân hàng Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về lý luận: Luận án đã khái quát có hệ thống về lý luận toàn cảnh thị
trường liên ngân hàng. Luận án cũng đã phân tích được những đặc điểm cơ
bản về cơ chế hoạt động, cơ chế điều hòa vốn trong thị trường nội tệ và ngoại
tệ liên ngân hàng.
Về thực tiễn: Luận án đã đánh giá thực trạng thị trường liên ngân hàng
ở Việt Nam trong thời gian qua; đánh giá được cơ chế điều hòa vốn trong thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam; đã tập hợp được một số tài
liệu và phân tích hoạt động thị trường liên ngân hàng của một số nước trên thế
giới. Từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn
trong thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam.
Hy vọng rằng, luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho NHNN Việt Nam
ban hành các quy chế, văn bản củng cố và phát triển thị trường liên ngân hàng
trong thời gian tới.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận án gồm ba chương:
Chương 1: Thị trường liên ngân hàng và cơ chế điều hòa vốn trong
thị trường liên ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng thị trường liên ngân hàng và cơ chế điều hòa
vốn trong thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam, kinh nghiệm của các nước.


4

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế

điều hòa vốn trong thị trường liên ngân hàng ở việt Nam.


5

Chương 1
THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG VÀ CƠ CHẾ
ĐIỀU HÒA VỐN TRONG THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

1.1. THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

1.1.1. Quá trình ra đời và phát triển thị trường liên Ngân hàng
1.1.1.1. Khái quát những hoạt động cơ bản của các tổ chức tín dụng
Các tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập dưới nhiều hình thức
khác nhau như:
- Ngân hàng thương mại: Hoạt động chủ yếu của ngân hàng này là huy
động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng vốn đó để đầu tư cho vay và
làm dịch vụ ngân hàng.
- Ngân hàng đầu tư: Là định chế tài chính cung cấp các dịch vụ đặc
biệt như tư vấn tài chính, quản lý các hạng mục đầu tư và làm các dịch vụ khác.
- Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD) đặc biệt như ngân
hàng tiết kiệm, địa ốc ngân hàng...
- Công ty tài chính (CTTC).
- Ngân hàng và các TCTD mang tính xã hội.
- Tổ chức thuê mua tiết kiệm.
Mặc dù hình thành bằng nhiều hình thức khác nhau song chúng đều thực
hiện kinh doanh tiền tệ với mục đích kiếm lời. Hoạt động chủ yếu là huy động
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau và sử dụng
nguồn tiền đó để thực hiện chức năng kinh doanh của mình như đầu tư cho vay,
chi trả bảo hiểm. Tùy theo loại hình tổ chức mà có cơ cấu nguồn vốn và sử dụng



6

vốn khác nhau, trong đó hoạt động đặc trưng là NHTM. Vì vậy, để hiểu hoạt
động cụ thể của một TCTD ta tiến hành nghiên cứu hoạt động của một NHTM.
"Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán" [40, tr. 6].
Ngân hàng thương mại có các hoạt động cơ bản sau:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động cho vay và đầu tư.
- Hoạt động trung gian thanh toán và các loại hình dịch vụ khác.
Các hoạt động trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau
và cùng nhau quyết định đến kết quả kinh doanh của một ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động nhằm tạo nên nguồn vốn cho
ngân hàng, ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm thu hút tối đa các nguồn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế như: Huy động tiền gửi bao gồm các loại tiền
gửi như tiền gửi thanh toán; tiền gửi tiết kiệm; bán các kỳ phiếu, trái phiếu;
tiền nhận ủy thác đầu tư; tiền góp vốn liên doanh; tiền vay từ NHNN, vay trên
thị trường liên ngân hàng, vay trên thị trường quốc tế. Hoạt động huy động
vốn tạo nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế dưới hình thức cho vay, đầu
tư và bằng các hình thức kinh doanh tiền tệ khác. Hoạt động này mang lại thu
nhập chủ yếu cho ngân hàng song chứa đựng nhiều rủi ro nên chất lượng của
nghiệp vụ này được các ngân hàng rất coi trọng.



7

Hoạt động trung gian thanh toán và các dịch vụ khác
Các ngân hàng làm trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của
khách hàng như các nghiệp vụ thanh toán: Thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, ủy thác.
Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như tư
vấn, mua bán hộ, giữ két, bảo lãnh, Hoạt động trung gian thanh toán và các dịch
vụ cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng đồng thời ít rủi ro và
góp phần mở rộng cho hai hoạt động trên, do đó đã được các ngân hàng coi
trọng.
1.1.1.2. Sự ra đời và phát triển thị trường liên ngân hàng
Một là, nhu cầu vay vốn giữa các ngân hàng.
Quá trình hoạt động huy động vốn và cho vay đã phát sinh nhu cầu
vay và cho vay giữa các ngân hàng. Trong trường hợp nguồn vốn huy động
không đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn thì một trong các cách giải quyết là
vay vốn của các ngân hàng khác. Ngược lại, có ngân hàng nguồn vốn dư thừa
chưa sử dụng hết có thể cho vay. Như vậy, chính từ hoạt động kinh doanh tiền
tệ đã dẫn đến tất yếu xảy ra quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh gay gắt thì
việc cân đối thường xuyên giữa nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng
là một vấn đề vô cùng quan trọng trong kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu
cầu rút tiền gửi của người gửi tiền và thỏa mãn nhu cầu vay tiền của
người vay hoặc cần phải bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc tại ngân
hàng Trung ương (NHTW). Thực tế các ngân hàng đã giải quyết các hiện
tượng mất cân đối trên bằng cách vay hoặc gửi vốn lẫn nhau. Quan hệ vay
và gửi giữa các ngân hàng phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Căn cứ vào nhu cầu vốn về thời hạn ngắn hay dài hạn.


8


- Có đảm bảo hay không?
- Các điều kiện khác.
Như vậy quan hệ gửi và vay vốn lẫn nhau giữa các TCTD là tất yếu,
đây chính là nguyên nhân xuất hiện thị trường giữa các ngân hàng gọi tắt là
thị trường liên ngân hàng (Interbank Market).
Hai là, đặc điểm quan hệ thanh toán giữa các NHTM.
Trong quá trình thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các ngân
hàng đã tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho các khách hàng trong
nền kinh tế. Khi các khách hàng có tài khoản tiền gửi tại các NHTM khác
nhau mà có nhu cầu thanh toán chi trả cho nhau đã xuất hiện quan hệ thanh
toán giữa các ngân hàng.
Quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng được phát triển từ thấp đến
cao bằng nhiều hình thức, mới đầu chỉ là các quan hệ tự phát và đơn giản, các
ngân hàng tự thỏa thuận mở tài khoản cho nhau để tập hợp tất cả các khoản
giao dịch thanh toán, số dư tiền trên tài khoản đó là căn cứ để các ngân hàng
thanh toán với nhau, ngân hàng này dư có nghĩa là được thu tiền về và đương
nhiên ngân hàng khác dư nợ sẽ là ngân hàng phải trả.
Hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển với sự phát triển của công
nghệ ngân hàng, quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng được thực hiện bởi
công nghệ thanh toán ngày càng hiện đại, quan hệ thanh toán không còn đơn
giản giữa hai ngân hàng mà có nhiều ngân hàng cùng tham gia.
Khi NHTW ra đời thực hiện chức năng là ngân hàng của các ngân
hàng với vai trò là trung tâm thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng, các ngân
hàng có quan hệ chi trả lẫn nhau được thanh toán qua NHTW. Để đáp ứng
được yêu cầu thanh toán nhanh chóng, thuận lợi, chính xác, an toàn, bảo vệ


9


quyền lợi của các ngân hàng và khách hàng của họ, NHTW đã đứng ra chịu
trách nhiệm thống nhất tổ chức thanh toán giữa các ngân hàng từ việc ban
hành chế độ quy chế thành viên, đưa ra các điều kiện thành viên tham gia
thanh toán đến quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, cụ thể như: Mở tài khoản theo
dõi thanh toán, hướng dẫn hạch toán, lập bảng kê,...
Để tổ chức thanh toán thì một trong những yêu cầu quan trọng là các
ngân hàng thành viên phải có tài khoản tiền gửi tại NHTW, nơi tổ chức thanh
toán bù trừ và trên tài khoản phải thường xuyên có tiền để chi trả cho các
ngân hàng khác khi khách hàng của họ có quan hệ chi trả cho nhau. Quá trình
thanh toán giữa các ngân hàng có thể xảy ra trường hợp đồng thời có ngân
hàng trên tài khoản tiền gửi tại NHTW có nhiều tiền nhưng cũng có ngân
hàng trên tài khoản số dư không đủ để chi trả số tiền chênh lệch phải trả trong
phiên giao dịch bù trừ. Trường hợp ngân hàng có chênh lệch được thu thì
được NHTW hạch toán ngay số chênh lệch được thu đó vào tài khoản tiền gửi
tại NHTW. Còn ngân hàng thiếu tiền chi trả thì xử lý số chênh lệch thiếu như
sau:
- Vay của các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng.
- Vay của NHTW nếu không được các ngân hàng khác cho vay mà
được NHTW chấp nhận.
- Như vậy quá trình thanh toán giữa các ngân hàng đã phát sinh quan
hệ vay mượn vốn tạm thời giữa các ngân hàng và quá trình thực hiện vay
mượn lẫn nhau đó gọi là thị trường liên ngân hàng.
Ba là, nhu cầu thanh khoản làm xuất hiện nhu cầu vay vốn giữa các
ngân hàng.


10

Nguồn vốn hoạt động của các NHTM là huy động vốn bằng tiền tạm
thời nhàn rỗi của các tầng lớp khác nhau trong xã hội và sử dụng nguồn vốn

đó để cho vay, đầu tư cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vốn để phát triển
sản xuất và kinh doanh. Điều đó yêu cầu các NHTM luôn phải sử dụng nguồn
vốn như thế nào để đảm bảo kinh doanh có lãi nhưng phải hạn chế rủi ro.
Ngoài việc cho vay, các NHTM giữ tài sản dưới nhiều hình thức như: Tiền
mặt, tín phiếu kho bạc hoặc các chứng từ có giá ngắn hạn, ngoại tệ, vàng, đá
quý,... Để thỏa mãn nhu cầu rút tiền gửi của người gửi tiền hoặc chi trả theo
yêu cầu của khách hàng, các ngân hàng luôn phải có một lượng tiền mặt tại
quỹ hoặc dưới dạng tiền gửi tại NHTW. Trong trường hợp lượng tiền trên
không đủ để đáp ứng kịp thời khả năng thanh toán nhanh thì chính tài sản mà
ngân hàng nắm giữ là các chứng từ có giá có thể dùng làm vật thế chấp vay
mượn các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Có thể nói thị
truờng liên ngân hàng là nơi bổ sung vốn khả dụng nhằm đảm bảo khả năng
thanh khoản cho các NHTM.
Như vậy, từ đặc điểm kinh doanh tiền tệ, thị trường liên ngân hàng ra
đời và tồn tại khách quan, thông qua thị trường, các ngân hàng có cung, cầu
vốn gặp nhau để thực hiện chuyển vốn từ ngân hàng thừa vốn tạm thời sang
ngân hàng thiếu vốn tạm thời. Thị trường liên ngân hàng rất phù hợp với đặc
điểm cung cầu vốn ngắn hạn của các ngân hàng.
1.1.2. Khái niệm thị trường liên ngân hàng
Trong nền kinh tế tiền tệ, quá trình sản xuất kinh doanh xuất hiện có
người dư thừa vốn và có người thiếu vốn. Đồng thời các trung gian tài chính ra
đời đã xuất hiện thị trường tài chính. Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn
từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Hay có thể nói thị trường tài chính là thị


11

trường diễn ra các hoạt động mua bán vốn. Có nhiều cách phân loại thị trường
tài chính.
Căn cứ vào phương thức chuyển giao vốn, thị trường tài chính được

chia thành thị trường tài chính trực tiếp và thị trường tài chính gián tiếp.
Thị trường tài chính trực tiếp là các chủ thể thừa vốn giao vốn trực
tiếp cho chủ thể thiếu vốn sử dụng.
Thị trường tài chính gián tiếp là các chủ thể thừa vốn giao vốn cho các
tổ chức trung gian tài chính, từ các tổ chức trung gian tài chính chuyển vốn
tới các chủ chủ thể thiếu vốn bằng các hình thức như cho vay hoặc mua bán
các công cụ nợ.
Căn cứ vào thời gian, thị trường tài chính được chia thành thị trường
tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mà mọi chủ thể kinh
tế đều có thể tham gia giao dịch vay mượn các khoẳn vốn ngắn hạn hoặc mua
bán các công cụ nợ ngắn hạn theo cơ chế thị trường. Hay nói cách khác thị
trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, ở đó những công cụ nợ
ngắn hạn (thông thường dưới một năm) được mua - bán.
Các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ bao gồm: tín phiếu
kho bạc, tín phiếu Ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi (CD s), các khoẳn vay giữa
các ngân hàng... chúng có độ rủi ro thấp tính lỏng cao và được giao dịch với
thời hạn từ 1 năm trở xuống cho đến qua đêm (cũng có nước quy định tới 2 3 năm trở xuống, nhưng phổ biến là dưới một năm) nó luôn luôn đổi mới với
những công cụ nợ ngắn hạn mới, có hiệu quả.
Thị trường tiền tệ là giai đoạn phát triển cao hơn thị trường tiền gửi ngắn
hạn (hay thị trường tín dụng ngắn hạn trưyền thống) giữa các ngân hàng với


12

khách hàng của họ. Thị trường tiền tệ có tính đa biên và công khai hơn so với
thị trường tín dụng, nơi quan hệ giữa các ngân hàng và khách hàng là song
biên, riêng biệt và khép kín (không thể chuyển nhượng). Theo nghĩa rộng nhất
thị trường tiền tệ bao gồm cả thị trường tín dụng ngắn hạn.
Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán trung dài hạn

có thời hạn trên một năm. Thị trường vốn còn gọi là thị trường chứng khoán.
Căn cứ vào phạm vi của đối tượng giao dịch, thị trường tiền tệ được
chia thành hai bộ phận: thị trường tiền tệ liên ngân hàng (thị trường liên ngân
hàng) và thị trường tiền tệ mở rộng (thị trường mở).
Thị trường liên ngân hàng là thị trường vốn ngắn hạn, do ngân hàng
Trung ương tổ chức để giải quyết nhu cầu của các NHTM muốn trao đổi với
nhau các khoản vốn tạm thời thừa ở một số ngân hàng này, với các khoẳn vốn
tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua các tài khoẳn của họ ở
ngân hàng Trung ương, nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc, đáp
ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù
trừ giữa các ngân hàng. Nói cách khác, thị trường liên ngân hàng là nơi trao
đổi vốn khả dụng giữa các tổ chức tài chính trung gian, nhất là giữa các
NHTM với nhau. Hay, thị trường liên ngân hàng là thị trường mà ở đó diễn ra
quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng.
Thị trường mở là thị trường mà các chủ thể tham gia được mở rộng
hơn so với thị trường liên ngân hàng, bao gồm các ngân hàng, các công ty
kinh doanh, môi giới và công chúng... Đặc trưng của thị trường là mua bán
qua trung gian môi giới tiền tệ.
- Quan hệ thị trường liên ngân hàng với thị trường mở.


13

Thị trường liên ngân hàng và thị trường mở đều là bộ phận thị trường
tiền tệ và đều là các quan hệ mua bán vốn ngắn hạn. Các thành viên thị trường
liên ngân hàng cũng là thành viên thị trường mở. Các thành viên thị trường
mở sau khi mua giấy tờ có giá ngắn hạn nếu có nhu cầu vốn mà chưa muốn
bán giấy tờ đó thì có thể vay vốn tại thị trường liên ngân hàng và ngược lại,
thành viên thị trường liên ngân hàng khi thừa vốn có thể mua giấy tờ có giá ở
thị trường mở. Như vậy, hai thị trường này có mối quan hệ điều tiết vốn cho

nhau.
Những điểm giống và khác nhau giữa thị trường liên ngân hàng và thị
trường mở.
* Về hình thức: Thị trường liên ngân hàng là thị trường giao dịch các
công cụ nợ ngắn hạn mà các công cụ này cũng có thể được giao dịch ở thị
trường mở. Tuy nhiên, ở thị trường mở còn có các công cụ trung và dài hạn
như trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, nên công cụ
giao dịch trên thị trường mở rộng hơn.
* Về bản chất: Thị trường liên ngân hàng là thị trường mà các thành
viên giao dịch là các TCTD, ngoài ra còn có NHTW. Còn thị trường mở thì
ngoài các thành viên là TCTD, NHTW, có thể có các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh lớn, các hộ gia đình,...
* Về lịch sử phát triển: Thị trường liên ngân hàng phát triển trước còn
thị trường mở phát triển sau, khi thị trường mở ra đời đối tượng tham dự đã
mở rộng không chỉ có các ngân hàng mà có nhiều thành viên khác.
THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

THỊ TRƯỜNG MỞ

(Các tổ chức tài chính được phép)

(Các chủ thể kinh tế)


14

Sơ đồ 1.1: Mô tả thị trường tiền tệ
Căn cứ vào đồng tiền giao dịch trên thị trường mà phân chia thị
trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ là thị trường chuyên môn hóa việc mua, bán, trao đổi

các loại ngoại tệ và các hoạt động kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ, trên cơ
sở đó xác định tỷ giá cho từng loại ngoại tệ theo cung, cầu của loại ngoại tệ đó.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường thực hiện các quan hệ
mua, bán ngoại tệ giữa các ngân hàng. Thị trường này cho phép các ngân
hàng có nguồn cung về ngoại tệ gặp các ngân hàng có nhu cầu về ngoại tệ để
thỏa mãn quan hệ cung, cầu ngoại tệ trong kinh doanh, trong thanh toán, trả
nợ hoặc cho vay bằng ngoại tệ. Thực chất thị trường này là quan hệ giữa các
ngân hàng hoạt động trên thị trường hối đoái nhằm thực hiện các lệnh giao
dịch của khách hàng và thực hiện yêu cầu kinh doanh ngoại tệ của các ngân
hàng.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng là thị trường mà ở đó phát sinh các
quan hệ tín dụng bằng vốn nội tệ giữa các ngân hàng với nhau. Tại thị trường
này, các ngân hàng có vốn nội tệ thừa cho các ngân hàng thiếu vốn nội tệ vay.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời xuất phát từ yêu cầu cân bằng cung,
cầu vốn nội tệ giữa các ngân hàng. Thông qua quan hệ vay mượn này đã hình
thành lãi suất tín dụng giữa các ngân hàng.
Như vậy thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng đều là thị trường giao dịch vốn giữa các ngân hàng. Các chủ thể
tham gia thị trường đều là các ngân hàng, các nhà kinh doanh tiền tệ và


15

NHTW. Các giao dịch đều có thời hạn ngắn, nhưng mỗi thị trường có cơ chế
hoạt động riêng phù hợp với đặc điểm của đồng tiền giao dịch.
1.1.3. Đặc điểm của thị trường liên ngân hàng
1.1.3.1. Đặc điểm chung
a) Là thị trường vốn ngắn hạn
Thị trường liên ngân hàng là thị trường trao đổi vốn ngắn hạn, là quan
hệ vay và cho vay lẫn nhau giữa các thành viên nên thời hạn vay ngắn hạn,

cho vay theo ngày, tháng, và dưới một năm. Do với tính chất luân chuyển vốn
giữa các ngân hàng là bổ sung vốn khả dụng nên có thời hạn ngắn.
b) Chủ thể tham gia thị trường
Chủ thể tham gia thị trường là các ngân hàng, các tổ chức trung gian
tài chính, các nhà môi giới, do đặc điểm kinh doanh tiền tệ mà các nhà kinh
doanh tiền tệ thường có nhu cầu vốn nhanh nên đã phát sinh quan hệ vay
mượn lẫn nhau. Ngoài ra còn có NHTW tham gia với hai tư cách vừa là thành
viên, là người cho vay theo mục tiêu của chính sách tiền tệ đồng thời là cơ
quan quản lý và cũng có thể là người tổ chức thị trường.
c) Công cụ giao dịch có thời hạn ngắn, tính thanh khoẳn cao
Các công cụ giao dịch trên thị trường mặc dù có tên gọi khác nhau
nhưng đều là công cụ tài chính ngắn hạn và dễ chuyển nhượng như tín phiếu,
thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng giao dịch,... Vì đây là thị trường
trao đổi vốn ngắn hạn, các hàng hóa tham gia trao đổi phải là các công cụ có
thời hạn ngắn, có tính thanh khoản cao với mục đích là bổ sung kịp thời vốn
khả dụng nên đòi hỏi thủ tục vay nhanh, ngân hàng cho vay tín nhiệm ngân
hàng đi vay thậm chí không cần đảm bảo nên các công cụ phải dễ chuyển


16

nhượng, khi cần có thể được bán ngay trên thị trường để thu tiền nhằm đảm
bảo an toàn cho các ngân hàng tham gia giao dịch.
d). Đồng tiền giao dịch trên thị trường liên ngân hàng là nội tệ và
ngoại tệ
Quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân
hàng có thể bằng nội tệ hoặc bằng ngoại tệ tùy theo nhu cầu vốn khả dụng cần
bổ sung là nội tệ hay ngoại tệ. Quan hệ vay, mua, bán nội tệ hình thành thị
trường nội tệ liên ngân hàng. Quan hệ mua, bán ngoại tệ hình thành thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng.

e) Các hình thức giao dịch trong thị trường liên ngân hàng
Giao dịch trên thị trường bằng hai hình thức:
Thứ nhất, quan hệ vay vốn giữa các ngân hàng.
Ngân hàng có vốn thừa tạm thời cho ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay
trong một thời gian thỏa thuận, hết hạn vay ngân hàng vay phải thanh toán tiền
vay cho ngân hàng cho vay. Thực hiện quan hệ cho vay bằng cách người đi
vay và người cho vay ký với nhau hợp đồng vay vốn, thị trường liên ngân
hàng thường vay không cần thế chấp là chủ yếu
Thứ hai, quan hệ gửi vốn giữa các ngân hàng.
Ngân hàng cho vay gửi vốn vào ngân hàng vay, ngân hàng vay mở
cho ngân hàng cho vay một tài khoản tiền gửi, số dư trên tài khoản đó là số
tiền cho vay. Ngân hàng nhận tiền gửi được phép sử dụng tiền trên tài khoản
đó, Trường hợp cho vay bằng hình thức gửi tiền lẫn nhau thủ tục đơn giản so
với cho vay. Khi cho vay phải lập hợp đồng vay có thể phải có tài sản thế
chấp nhưng hợp đồng gửi thì không cần tài sản thế chấp.
Thứ ba, Nghiệp vụ về các giấy tờ có giá ngắn hạn.


17

Nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chứng từ có giá, Hợp đồng mua
lại (Repurchase Agreement).
1.1.3.2. Đặc điểm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
- Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường vốn ngắn hạn.
Quan hệ mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng thực chất là luân chuyển
vốn ngoại tệ ngắn hạn giữa các ngân hàng.
- Đặc điểm về tổ chức:
* Về hình thức, thị trường ngoại tệ giữa các ngân hàng có hai hình
thức tổ chức: Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức (thị trường
không chính thức).

* Căn cứ vào giao dịch, gồm thị trường giao ngay (Spot market), thị
trường có kỳ hạn (Forward market), thị trường giao sau (Future market), thị
trường quyền lựa chọn (Options market), thị trường hoán đổi ngoại tệ
(Swaps). Ngoài ra còn có thể phân tách thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp.
Thị trường có tổ chức là thị trường hoạt động chịu sự quản lý, điều tiết
và giám sát của nhà nước mà cụ thể là NHTW. Ở thị trường có tổ chức, thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng có vị trí chủ yếu trong đó các NHTM là chủ
thể quan trọng thực hiện kinh doanh, NHTW là người tổ chức, quản lý, điều
tiết nhằm tác động vào cung, cầu ngoại tệ trên thị trường để đạt được mục tiêu
của chính sách tiền tệ.
Thị trường không chính thức là thị trường chợ đen, nằm ngoài sự quản
lý của NHTW. Thị trường này ra đời chủ yếu do nhu cầu giao dịch của các cá
nhân, hộ gia đình, một số tổ chức nhỏ không có điều kiện giao dịch trên thị
trường chính thức, vì vậy, thị trường này thường tồn tại trong điều kiện nền


18

kinh tế thị trường kém phát triển, thị trường ngoại tệ mới chỉ bó hẹp trong hệ
thống ngân hàng, cơ chế quản lý ngoại hối không linh hoạt, không đủ điều
kiện thỏa mãn một cách thuận lợi nhu cầu ngoại tệ cho các tổ chức cá nhân.
Vì vậy, khi nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường này sẽ không tồn tại.
- Địa điểm của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường không có địa điểm về
địa lý, do vậy, trên thế giới chỉ có một thị trường hối đoái duy nhất. Các giao
dịch về một ngoại tệ được tiến hành đồng thời ở tất cả các thị trường các nước ví
dụ: cùng một thời điểm có thể đồng thời có giao dịch tại Paris, London, New
York,...
- Phương tiện thông tin sử dụng trong giao dịch.

Xuất phát từ thị trường không có địa điểm cụ thể nên các thành viên
thị trường khi giao dịch thường sử dụng các phương tiện truyền tin hiện đại
như: điện thoại, telex kèm theo các mạng tin chuyên ngành (Reuters, Telerate)
thông qua hệ thống computer nối mạng để thực hiện nhanh chóng các giao
dịch giữa các thành viên.
- Thời gian giao dịch.
Thị trường hoạt động không ngừng và diễn ra hầu khắp tất cả các châu
lục, tỷ giá các loại ngoại tệ được yết 24/24 giờ trong các ngày làm việc trong
tuần.
1.1.3.3. Đặc điểm của thị trường nội tệ liên ngân hàng
- Địa điểm giao dịch của thị trường.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng còn gọi là thị trường vô hình do không
có một địa điểm cụ thể. Khác với thị trường chứng khoán hay thị trường vàng,
sự gặp nhau giữa cung và cầu trên thị trường giữa các ngân hàng không diễn


19

ra ở một điểm xác định. Nghĩa là không có chợ mua, bán cụ thể về không gian
như siêu thị, quầy hàng mà là chợ mua, bán dưới dạng vô hình. Tại trụ sở của
mình, các thành viên có thể thông báo cho thành viên khác biết về các thông
tin chào mua vốn hoặc chào bán vốn. Căn cứ vào nhu cầu thiếu vốn hoặc thừa
vốn cùng với các thông tin đã được cung cấp, các thành viên thỏa thuận thống
nhất về lượng vốn, thời hạn vay, lãi suất vay và các điều kiện khác để thực
hiện vay và cho vay.
- Phương tiện truyền tin.
Các thành viên giao dịch trên thị trường sử dụng các phương tiện
thông tin như điện thoại, Telex, hệ thống thanh toán điện tử liên hàng nối mạng
(nếu có).
- Thời gian giao dịch.

Các giao dịch trên thị trường được thực hiện trong giờ làm việc của
các thành viên. Các thành viên thực hiện các hoạt động kinh doanh đều phải
tự cân đối vốn khả dụng của mình, nếu xảy ra hiện tượng vốn khả dụng dư
thiếu cần phải vay để bổ sung ngay số vốn thiếu đó bằng cách thông qua phương
tiện thông tin của thị trường, thông báo ngay cho các thành viên khác biết là
mình cần vay bao nhiêu vốn? Thời hạn vay là bao lâu? Lãi suất ở mức nào?
Trong cùng thời gian đó, các thành viên khác đang trong tình trạng dư thừa
vốn khả dụng có nguyện vọng cho vay thì có thể thỏa thuận cụ thể với thành
viên vay, sau khi thỏa thuận, hai bên nhất trí thì coi như quan hệ vay mượn
được thực hiện. Thông thường, vay mượn giữa các thành viên xảy ra vào cuối
ngày làm việc vì khi đó các ngân hàng đều phải thực hiện kiểm tra tình trạng
vốn khả dụng của mình để phục vụ cho giao dịch vào giờ mở cửa của ngày
hôm sau. Tuy nhiên, quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng cũng có
thể diễn ra bất cứ lúc nào trong giờ làm việc của các ngân hàng vì tại một thời


20

điểm cụ thể, các giao dịch trong kinh doanh làm phát sinh nhu cầu vay và cho
vay để kịp thời bổ sung vốn khả dụng nhằm duy trì hoạt động của ngân hàng
một cách bình thường.
Phần lớn quan hệ tín dụng giữa các thành viên đều có thời hạn ngắn
như: Cho vay qua đêm, một vài ngày, hai hoặc ba tháng. Các ngân hàng có
thể cho vay với thời hạn dài do thực hiện nhiều chu kỳ giao dịch. Nhưng cá
biệt có khoản vay kéo dài trên một năm hoặc có thể lên tới năm năm.
1.1.4. Mối quan hệ giữa các thị trường liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ liên ngân hàng có mối quan hệ
mật thiết với nhau, thực chất hai thị trường này đều thực hiện trao đổi vốn
ngắn hạn giữa các ngân hàng. Các chủ thể tham gia hai thị trường đều nhằm
mục đích tìm kiếm các nguồn vốn ngắn hạn để bổ sung vốn khả dụng tạm thời

thiếu hụt trong kinh doanh, hoặc tìm nơi để điều chỉnh vốn dư thừa ngắn hạn
vừa mang lại thu nhập nhưng với chi phí thấp. Trong hoạt động kinh doanh,
các ngân hàng có thể thừa, thiếu vốn ngoại tệ và nội tệ, có thể tại một thời
điểm có hiện tượng thừa vốn ngoại tệ nhưng lại thiếu vốn nội tệ và ngược lại,
khi thì thừa vốn nội tệ nhưng lại thiếu vốn ngoại tệ nên có thể xảy ra sự trao
đổi vốn lẫn nhau giữa hai thị trường. Chính sự phát triển của thị trường nội tệ
đã tạo điều kiện để thị trường ngoại tệ phát triển, trong trường hợp phòng
tránh rủi ro, các ngân hàng có thể áp dụng các giao dịch kỳ hạn, giao dịch
Swap, hoặc hợp đồng quyền lựa chọn để hoán đổi từ ngoại tệ sang nội tệ hoặc
ngược lại. Như vậy, giao lưu vốn giữa hai thị trường được coi là một nghệ
thuật giảm thiểu rủi ro trong hoạt động liên ngân hàng của các NHTM.
Quan hệ giữa hai thị trường còn được thể hiện thông qua mối quan hệ
giữa lãi suất và tỷ giá, diễn biến lãi suất của thị trường này sẽ ảnh hưởng đến
lãi suất của thị trường kia. Khi lãi suất thực của đồng nội tệ tăng lên, lợi tức


21

dự tính đầu tư vào đồng nội tệ tăng, dẫn đến khả năng các ngân hàng di
chuyển vốn từ ngoại tệ sang nội tệ thông qua thị trường hối đoái giao ngay.
Ngược lại, nếu trên thị trường đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại
tệ, các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào ngoại tệ, có thể xảy ra tiền gửi nội
tệ tại các ngân hàng giảm, nhu cầu vay nội tệ tăng, để cân bằng các ngân hàng
thường phải tăng lãi suất nội tệ nhằm hạn chế việc đầu tư vào ngoại tệ. Như
vậy, một sự thay đổi về lãi suất nội tệ đều ảnh hưởng đến hoạt động của hai
thị trường này. Sự biến động của tỷ giá cũng làm ảnh hưởng đến cung cầu vốn
nội tệ và vốn ngoại tệ giữa hai thị trường. Tỷ giá tăng (giá ngoại tệ tăng) có
thể xảy ra xu hướng nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại.
Sự chuyển hóa vốn giữa hai thị trường làm thay đổi cung, cầu ngoại tệ
và nội tệ, do vậy, hoạt động của hai thị trường luôn có mối quan hệ lẫn nhau

và chính mối quan hệ đó đã tạo điều kiện để hai thị trường hoạt động hiệu
quả, thông suốt và có nhiều sự đồng nhất. Hai thị trường hoạt động như hai
bình thông nhau với cơ chế hoạt động do chính các thành viên tham gia hai
thị trường quyết định.
1.2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG VÀ
CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA VỐN TRONG THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG

1.2.1. Tổng quan về cơ chế hoạt động (Mechanism)
Trong kỹ thuật, cơ chế là một thuật ngữ được dùng để chỉ một kết cấu
chặt chẽ về mặt tổ chức của nhiều bộ phận khác nhau và những quy trình, quy
tắc để vận hành toàn bộ kết cấu ấy nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định hay
nói cách khác, cơ chế chính là cách thức theo đó một quá trình thực hiện.
Trong tiếng Anh "Mechanism" nghĩa là "a method or procedure", "method"
được hiểu là phương pháp hay cách thức làm, "procedure" nghĩa là thủ tục.


22

Trong lĩnh vực kinh tế, cơ chế kinh tế là toàn bộ những cách thức và
phương pháp điều tiết nền kinh tế. Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phân tích: "Cơ chế kinh tế" là thuật ngữ phản ảnh tổng thể các
yếu tố có mối quan hệ chế ước và tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận
cấu thành của hệ thống kinh tế, tạo thành động lực điều tiết dẫn dắt nền kinh
tế phát triển.
Cơ chế hoạt động của thị trường liên ngân hàng là quá trình tổ chức
vận hành thị trường liên ngân hàng trong đó các yếu tố cấu thành thị trường
giữa các ngân hàng được thực hiện theo các yêu cầu nhất định, bao gồm yếu
tố thành viên, yếu tố về cơ chế chuyển nhượng vốn, cơ chế hình thành lãi suất
cho vay và các quy trình cụ thể để thị trường vận hành nhằm đáp ứng sự phát
triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong nền kinh tế.

Cơ chế điều hòa vốn trong thị trường liên ngân hàng là cơ chế làm cho
vốn được vận động từ ngân hàng thừa vốn sang ngân hàng thiếu vốn, thông
qua môi giới, NHTW.
* Các NHTM tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là do hoạt
động kinh doanh tiền tệ họ phải cung cấp một khối lượng lớn các dịch vụ
tài chính cho khách hàng của họ. Các hoạt động trên thị trường ngoại hối
là một bộ phận khăng khít không thể tách rời khỏi hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng và giờ đây thị trường ngoại hối còn mang lại một lượng lợi
nhuận đáng kể cho ngân hàng, họ vừa là người tạo giá trên thị trường, vừa là
nhà cung cấp dịch vụ tư vấn như cung cấp các thông tin thường xuyên cho
khách hàng về tỷ giá, như lời khuyên kinh doanh, vì vậy, tất yếu các NHTM
phải tham gia thị trường liên ngân hàng với mục đích là làm thế nào để thực
hiện tỷ giá có lợi nhất, ở thời điểm thích hợp nhất, vừa đảm bảo phục vụ tốt
các yêu cầu của khách hàng đồng thời lại mang lại nguồn lợi cho ngân hàng


23

mình. Chính vì vậy, các NHTM hoạt động rất tích cực trên thị trường liên
ngân hàng.
* Thành viên tham gia thị trường là nhà môi giới.
Nhà môi giới là người cung cấp dịch vụ trên thị trường liên ngân
hàng. Khi thực hiện cung cấp dịch vụ, nhà môi giới đóng vai trò là người
nhận thông tin yết giá và các điều kiện của người mua, người bán cung cấp và
đưa người có nhu cầu mua gặp người có nhu cầu bán, họ không mua vào hoặc
bán ngoại tệ ra cho chính mình và cũng không chịu trách nhiệm về tiến trình
giao dịch giữa hai ngân hàng mà đơn thuần chỉ cung cấp dịch vụ trên thị
trường liên ngân hàng. Nhà môi giới cũng có thể đóng vai trò kinh doanh
ngoại tệ bằng cách mua ngoại tệ của người chào bán và bán ngoại tệ cho
người chào mua.

* NHTW tham gia thị trường với tư cách là người can thiệp, khi tỷ giá
biến động vượt quá quy định thì NHTW tiến hành mua hoặc bán ngoại tệ để
điều tiết tỷ giá nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường bằng các phương thức sau:
+ Trực tiếp với các ngân hàng.
+ Thông qua nhà môi giới.
+ Thông qua các thị trường giao dịch tương lai.
+ Thông qua các NHTW khác.
Ngân hàng trung ương mua ngoại tệ trên thị trường làm tăng tiền trung
ương (MB), bán ngoại tệ trên thị trường làm giảm MB, sự thay đổi đó còn ảnh
hưởng đến lãi suất thị trường và từ đó tác động vào nền kinh tế. Ngoài ra,
thông qua can thiệp nhằm duy trì trật tự của thị trường hoặc điều chỉnh thị
trường theo mục tiêu mong muốn bằng khối lượng can thiệp, phương pháp


24

can thiệp tác động vào trạng thái của thị trường mà NHTW xác định được
hiệu quả can thiệp. Vai trò can thiệp của NHTW còn gây ảnh hưởng về mặt
tâm lý đối với thành viên tham gia thị trường, nhiều khi yếu tố tâm lý ảnh
hưởng nhiều hơn là can thiệp về quy mô, vì thế NHTW phải hết sức thận
trọng khi đưa ra quyết định can thiệp thị trường.
Mặc dù các thành viên tham gia thị trường với mục đích và yêu cầu
khác nhau song đều phải chấp hành cơ chế thành viên của thị trường, thống
nhất quy chế hoạt động, có đơn gia nhập, quyền lợi và nghĩa vụ các thành
viên thực hiện.
- Cơ chế hình thức giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:
* Giao dịch ngoại hối giao ngay (SPOT)
+ Giao dịch ngoại hối giao ngay bằng tiền mặt (giao dịch ngoại tệ
bằng tiền mặt) gồm ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch và thẻ tín dụng.

Giao dịch ngoại tệ bằng tiền mặt chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong thị trường ngoại
hối vì do phải có chi phí quản lý, bảo quản và các chi phí giao dịch khác.
+ Giao dịch ngoại hối chuyển khoản giao ngay còn gọi là giao dịch
giao ngay (The Spot Foreign Exchange Transactions) là việc trao đổi hai đồng
tiền trên các tài khoản khác nhau tại ngân hàng, giao dịch này chiếm tỷ trọng
lớn hơn giao dịch tiền mặt rất nhiều.
Giao dịch ngoại hối giao ngay không diễn ra trên sở giao dịch mà do các
NHTM lớn, nhà môi giới liên hệ với nhau bằng điện thoại, telex, và hệ thống
SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications).
Thông qua SWIFT, các NHTM, nhà môi giới ở tất cả các trung tâm tài chính
liên kết với nhau để mua, bán, trao đổi ngoại hối, các trung tâm tài chính lớn
hầu như hoạt động 24 giờ/ngày. Đây là thị trường hoạt động sôi động, với tốc


25

độ nhanh nhằm tận dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù là rất nhỏ nên là
thị trường hoạt động có hiệu quả.
Giao dịch ngoại hối giao ngay có thể thực hiện giao dịch trực tiếp (gọi
là thị trường liên ngân hàng trực tiếp) nghĩa là các ngân hàng trực tiếp giao
dịch với nhau. Ngân hàng này yết giá mua vào và bán ra trực tiếp cho ngân
hàng kia và ngược lại, vì vậy, đây là thị trường phi tập trung, liên tục, đấu giá
mở và giao dịch hai chiều.
Giao dịch ngoại hối giao ngay còn thực hiện giao dịch gián tiếp qua
người môi giới nghĩa là các ngân hàng mua, bán đặt các lệnh giới hạn với
khối lượng và giá cả cho các nhà môi giới, nhà môi giới ghi nhận lệnh này
vào sổ và tìm ghép các lệnh mua với các lệnh bán từ các ngân hàng khác nhau
để tìm ra giá tốt nhất cho khách hàng gọi là giá tay trong. Người môi giới sẽ
được hưởng hoa hồng do người mua và người bán trả. Thị trường qua người
môi giới là thị trường bán tập trung, đặt lệnh có giới hạn và thông qua phương

thức đấu giá một chiều. So với giao dịch trực tiếp, giao dịch qua môi giới có
nhiều ưu điểm hơn:
- Các lệnh đặt mua và bán được chuyển nhanh và rộng khắp.
- Tỷ giá được yết một chiều hoặc mua, hoặc bán.
- Cho phép ngân hàng yết giá không phải xưng danh mình là ai, như
vậy, họ sẽ giữ được bí mật ý định giao dịch.
- Tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao.
- Được nhà môi giới cung cấp giá tốt nhất.
Tỷ giá giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng là
tỷ giá bán buôn còn tỷ giá do các ngân hàng đưa ra cho khách hàng của họ là
tỷ giá bán lẻ. Tỷ giá bán buôn là cơ sở cho các ngân hàng xác định tỷ giá bán


×