Tải bản đầy đủ (.doc) (207 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ KINH tế THÔNG TIN KINH tế TRONG sự PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.31 KB, 207 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nước ta trong thời gian vừa qua tuy đạt được nhiều thành
tựu nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn tồn tại. Một trong những tồn tại
đó là hệ thống thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu về thông tin đầy đủ,
kịp thời, chính xác của nền kinh tế. Với một nền kinh tế thị trường năng
động và mở cửa, với xu hướng thế giới đang chuyển sang thời đại hậu công
nghiệp, thời đại thông tin thì một hệ thống thông tin rời rạc, thiếu đồng bộ,
kém hiệu quả có thể gây ra những hậu quả xấu khó khắc phục đối với nền
kinh tế.
Có nhiều nỗ lực từ Chính phủ cũng như các đơn vị kinh tế, từ lực
lượng trong và ngoài nước đã và đang tìm cách hoàn thiện và phát triển hệ
thống thông tin quốc gia. Tuy nhiên, những nỗ lực đó chỉ đem lại hiệu quả
to lớn nếu được định hướng đúng đắn thông qua một chiến lược phát triển
hệ thống thông tin toàn diện và lâu dài.
Đề tài "Thông tin kinh tế trong sự phát triển kinh tế thị trường
nước ta hiện nay" được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần xác
định vai trò, vị trí của hệ thống thông tin trong nền kinh tế thị trường, các
phương hướng chung về hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin kinh tế
như một bộ phận của hệ thống quản lý kinh tế, một yếu tố của sức mạnh
kinh tế quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển kinh tế, thông tin
kinh tế đã và đang là vấn đề được giới chuyên môn quan tâm. Trên thế giới
đã có nhiều tác giả nghiên cứu về bản chất, vai trò của thông tin nói chung



2

và thông tin kinh tế nói riêng trong quản lý kinh tế - xã hội. Năm 1979
Nxb Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách dịch "Thông tin xã hội và quản
lý xã hội" của V.G.Afanaxep. Nhiều tác giả nước ngoài khác đã bàn về vấn
đề này. Robert Galliers đã biên tập một số nghiên cứu về thông tin và hệ
thống thông tin trong Tuyển chọn phân tích thông tin (Information Analysis
Selected Readings), xuất bản năm 1987 tại Anh. Nhiều tác giả đã nghiên
cứu và viết sách, các bài tạp chí về thông tin, phát triển hệ thống thông tin
kinh tế trong các tổ chức kinh tế - xã hội, như:
Stamper R: Thông tin trong các hệ thống kinh doanh và hành
chính (1973).
John W: Các nguyên tắc quản lý hệ thống thông tin (1995).
Hubert Osterle và các tác giả: Quản lý các hệ thống thông tin tổng
thể (1993).
Ngoài ra còn nhiều tác giả khác cũng đề cập đến các mặt khác nhau
của các hệ thống thông tin, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong
nền kinh tế thị trường thời đại công nghiệp và hậu công nghiệp.
Nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường với những đổi thay lớn
trong hệ thống kinh tế nói chung và hệ thống thông tin nói riêng. Đặc biệt
từ đầu thập kỷ 90 đến nay, trước tình hình phát triển của nền kinh tế thị
trường mở cửa để đi đến hội nhập với kinh tế thế giới, vấn đề thông tin
kinh tế đã và đang được quan tâm cả trong thực tiễn và lý thuyết. Sự phát
triển nhanh chóng của hệ thống thông tin, những yêu cầu bức xúc đặt ra
trong quá trình phát triển của hệ thống thông tin kinh tế nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin ngày càng lớn và phức tạp của xã hội đã làm cho giới chuyên
môn quan tâm. Có nhiều tác giả đã đề cập đến vấn đề thông tin và tổ chức
hệ thống thông tin trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Công Hóa đã viết cuốn sách "Cơ cấu tổ chức và
đảm bảo thông tin trong quản lý" (1988). Nhiều sách, bài báo đăng tạp chí



3

của Đào Duy Tân, Nguyễn Tử Qua, Vũ Quang Việt, Phùng Minh Lai,
Nguyễn Mạnh Hùng, Bùi Đức Lợi,... đã đề cập đến vai trò của thông tin, tổ
chức hệ thống thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý kinh
tế. Trong số các luận án PTS lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, một số tác giả
đã có đề tài về hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin ở các doanh
nghiệp (PTS. Đoàn Thu Hà), phát triển hệ thống thông tin kinh tế - xã hội
ứng dụng ở một số ngành kinh tế (PTS. Bùi Đức Lợi), marketing sản phẩm
thông tin (PTS. Phùng Minh Lai),...
Tuy nhiên, vẫn chưa rõ nét một quan điểm tổng thể mang tính định
hướng chung trong phát triển đồng bộ hệ thống thông tin kinh tế nước ta
hiện nay. Đây là vấn đề có tính chất chiến lược lâu dài đòi hỏi phải được
trao đổi, thảo luận rộng rãi trong giới chuyên môn. Tác giả đề tài luận án
này cũng mong muốn góp một số ý kiến nhỏ bé vào cuộc hội thảo luận
chung đó để góp phần hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế, một yếu tố
quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận án
a) Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế nước ta trong bước chuyển sang nền kinh tế
thị trường hiện nay.
b) Nhiệm vụ của luận án
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về thông tin nói chung
và thông tin kinh tế nói riêng.
- Phân tích thực trạng tổ chức hệ thống và cơ chế hoạt động của hệ
thống thông tin kinh tế quốc gia trong điều kiện đổi mới.
- Đề xuất một số giải pháp có tính chất định hướng về hoàn thiện và

phát triển hệ thống thông tin kinh tế.


4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tổ chức, cơ chế vận hành của hệ thống thông tin kinh tế trong nền
kinh tế thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu đề cập đến ba hệ thống thông tin lớn: Chính
phủ, doanh nghiệp và thị trường.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp
và phân tích, so sánh, v.v...
- Phương pháp tiếp cận: tư duy hệ thống.
- Phương pháp thực hiện: nghiên cứu các tư liệu trong và ngoài
nước, tiếp xúc trực tiếp với một số bộ phận cần nghiên cứu, phát phiếu điều
tra đối với hệ thống thông tin ở các doanh nghiệp.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận án
- Nghiên cứu một cách hệ thống và tương đối toàn diện các vấn đề
lý luận về thông tin và hệ thống thông tin.
- Xác định vai trò, mối liên hệ giữa hệ thống thông tin kinh tế với
hệ thống kinh tế.
- Phân tích một số nét nổi bật về thực trạng tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống thông tin kinh tế nước ta trong giai đoạn chuyển sang
kinh tế thị trường (có so sánh với giai đoạn kinh tế trước đây).
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và phát triển hệ thống thông
tin kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án được
chia thành 3 chương, 7 tiết.


5

Chương 1
VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN KINH TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. BẢN CHẤT CỦA THÔNG TIN

1.1.1. Khái niệm thông tin
1.1.1.1. Thông tin là một khái niệm phổ biến liên quan đến tất cả
các hoạt động của con người: sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học,
nghệ thuật, chính trị, v,v... Trong các quá trình quản lý xã hội, thông tin
vừa là nguyên liệu, vừa là sản phẩm của quá trình đó. Thông tin không chỉ
được nghiên cứu trong khoa học quản lý mà còn là một khái niệm cơ bản
của nhiều khoa học khác: tin học, điều khiển học, kinh tế, truyền thông,... ở
mỗi môn khoa học cũng như các lĩnh vực hoạt động thực tiễn khác nhau,
thông tin được xem xét dưới các góc độ khác nhau, theo các quan điểm
khác nhau. Vì vậy, cần phải tiếp cận với khái niệm thông tin theo một số
quan điểm để có được một quan niệm tổng quát, đầy đủ về thông tin.
Với nghĩa thông dụng nhất, thông tin được giải thích trong các từ
điển của các quốc gia.
Từ điển tiếng Việt thông dụng giải thích:
Thông tin là tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh [40].
Theo từ điển Larouse (1) Thông tin là những tri thức có thể được
mã hóa để bảo quản, để xử lý hoặc để truyền đạt.
(2) Thông tin là tin tức được thông báo qua một hãng báo chí, một

tạp chí, đài phát thanh hoặc truyền hình [52].
Trong Từ điển Oxford xuất bản 1995, thông tin được định nghĩa là
những sự thực được kể, được nghe hoặc được phát hiện về ai đó hoặc cái gì
đó [44].


6

Từ điển tiếng Nga của S.I.Ô giê gốp, tiếng Nga, Nxb Matxcơva, 1975,
định nghĩa:
(1) Thông tin là những tri thức về thế giới xung quanh và
những diễn biến trong các quá trình của chúng ta, được nhận thức
bởi con người hay những tổ chức chuyên môn.
(2) Thông tin là thông báo về tình hình một việc gì đó
hoặc trạng thái một cái gì đó [53].
Qua các định nghĩa được trích dẫn ở một số từ điển khá thông dụng,
có thể thấy các định nghĩa tuy chưa hoàn toàn thỏa mãn chúng ta, nhưng
đều thống nhất với nhau ở hai điểm về khái niệm thông tin:
- Thông tin là tri thức, là sự phản ánh thế giới hiện thực trong nhận
thức của con người.
- Thông tin là những tri thức được vận động giữa các con người,
được tiếp nhận bởi con người.
Để làm rõ hơn khái niệm thông tin, ta có thể tìm hiểu thêm một số
quan điểm khác.
John Ward, giáo sư về hệ thống thông tin chiến lược ở trường quản
lý Cranfield, định nghĩa: "Thông tin là cái mà con người cần để họ có thể
sử dụng kinh nghiệm và các kỹ năng của họ làm thay đổi kiến thức" [50,
2].
G.E.Nicols định nghĩa: "Thông tin là tập hợp các dữ liệu khi được
trình bày theo một cách cụ thể và tại một thời điểm thích hợp cải thiện kiến

thức của người nhận được chúng sao cho anh (chị) ta có khả năng tốt hơn
để đảm nhận một công việc cụ thể hoặc để ra một quyết định cụ thể" [43,
4]. Định nghĩa này được phát biểu theo quan điểm quản lý kinh tế. Qua các
định nghĩa trên bổ sung thêm mục đích của thông tin. Mục đích của thông
tin được giới chuyên môn đề cập đến dưới nhiều khía cạnh, đó là:
- Xóa bỏ sự không hiểu biết;
- Khắc phục sự bất định;


7

- Phản ánh trật tự của thế giới xung quanh;
- Phản nhiễu loạn;
- v.v...
Một sự tiếp cận phổ biến trong lý thuyết về hệ thống thông tin là
tiếp cận ký hiệu học. Phương tiện để truyền thông là các dấu hiệu. Một dấu
hiệu có thể là bất cứ cái gì mà con người có thể nhận biết được, có thể hiểu
được. Các cử chỉ, hình ảnh, từ ngữ nói hoặc viết, chữ số,... là những dấu hiệu
được dùng để biểu diễn thông tin về các hiện tượng, các quá trình của thế giới
hiện thực. Thông tin theo cách tiếp cận này được phân biệt dưới hai mức
độ:
- Dữ liệu: là những tri thức về thế giới hiện thực được con người
thu thập, xử lý dưới dạng các dấu hiệu và được tổ chức theo một cách nhất
định để phục vụ cho mục đích thông tin.
- Thông tin: là các dữ liệu (dấu hiệu) được thu nhận, được hiểu và
có tác động đến khả năng hoặc hành vi ứng xử của người nhận và sử dụng
nó.
Như vậy, dữ liệu và thông tin là hai khái niệm gắn bó với nhau
nhưng không đồng nhất. Dữ liệu là những dấu hiệu chưa tác động đến hành
vi cụ thể của con người. Còn thông tin là những dữ liệu được người sử

dụng tin thu nhận và có tác động đến họ. Dữ liệu chỉ là thông tin với những
ai rút ra một ý nghĩa nào từ đó, do đó có ảnh hưởng đến khả năng hoặc các
quá trình hoạt động của người đó.
Cùng một dữ liệu có thể có ý nghĩa và hữu ích, và do đó trở thành
thông tin với một người nhận tin, nhưng cũng có thể hoàn toàn không có
nghĩa, do đó không phải là thông tin đối với những người khác.
Dữ liệu là nguyên liệu trong quá trình tạo và truyền tin vì một mục
đích nhất định. Thông tin khác dữ liệu ở tính chất hướng đích cụ thể.


8

Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai khái niệm này chỉ mang tính chất
tương đối, khi xem xét chúng ở các mức độ khác nhau của một quá trình
thông tin hoàn chỉnh. Mặt khác, thông tin của một quá trình này có thể lại
được coi là dữ liệu đối với một quá trình thông tin khác. Vì vậy, việc phân
biệt này có ý nghĩa về mặt chuyên môn. Thực tế người ta thường dùng
chúng với cùng một nghĩa, do đó đồng nhất các khái niệm có liên quan đến
chúng, ví dụ: xử lý dữ liệu và xử lý thông tin, hệ thống dữ liệu và hệ thống
thông tin,... Điều này có thể gây ra rắc rối trong việc tổ chức hệ thống và
phân loại dữ liệu và thông tin.
Dữ liệu và việc tổ chức dữ liệu phải được xem xét trên diện rộng,
để có thể sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều quá trình thông tin khác nhau.
Thông tin bao giờ cũng gắn liền với nhu cầu về tin cho một cá nhân
hay một tổ chức cụ thể, trong những hoạt động nhất định của họ. Vì vậy, việc
tổ chức thông tin thường có tính mục đích rõ ràng. Khi nhu cầu về thông tin
nào đó không còn nữa thì tổ chức thông tin để đáp ứng nó cũng không có lý
do để tồn tại nữa, trong khi đó tổ chức dữ liệu thì có thể tồn tại lâu dài.
Ngoài ra còn xuất hiện các định nghĩa về thông tin như là một thuật
ngữ kỹ thuật trong các lý thuyết toán, thống kê, xác suất về thông tin.

Những định nghĩa đó giúp ích cho việc phát triển công nghệ thông tin, là
một vấn đề hết sức sôi động trong thời đại ngày nay, nhưng chưa thể phát
triển được hướng đó trong phạm vi đề tài này. Vì vậy chúng ta không mở
rộng sang các hướng tiếp cận đó mà chỉ dừng ở một số quan điểm ở trên.
Qua đó, có thể rút ra một số kết luận về bản chất của thông tin.
- Thông tin là một phạm trù tư duy, thông qua việc sử dụng các dấu
hiệu khác nhau để con người nhận thức về thế giới khách quan.
- Thông tin được truyền đạt, trao đổi giữa những con người, những
tổ chức khác nhau nhằm làm tăng thêm sự hiểu biết về thế giới hiện thực, là
điều kiện cần thiết để con người tiến hành các hoạt động thực tiễn của mình.


9

- Các dấu hiệu là những dữ liệu chỉ trở thành thông tin trong những
điều kiện nhất định, khi chúng được tiếp nhận, được hiểu và do đó chúng
có ảnh hưởng đến khả năng và hành vi cụ thể của những người sử dụng tin.
- Các thông tin được biểu diễn dưới dạng các dấu hiệu theo một trật
tự lôgic về mặt cú pháp, ngữ nghĩa trên một vật mang tin cụ thể được gọi là
bản tin.
Nó có thể được chuyển đổi, sao chép dễ dàng từ vật mang tin này
sang vật mang tin khác.
1.1.1.2. Quá trình thông tin
Để có được các thông tin cho người sử dụng (thường là người ra
hoặc thực thi các quyết định trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau) cần
phải triển khai một quá trình thông tin.
Quá trình thông tin là quá trình các hoạt động được sắp xếp và liên
hệ, phối hợp với nhau nhằm tạo ra và cung cấp những thông tin cần thiết
cho người sử dụng tin.
Một quá trình thông tin có thể được biểu diễn dưới dạng sơ đồ sau:

Xác định nhu
cầu về thông tin

Thu thập
thông tin

Người nhận
tin
Lưu trữ
dữ liệu
Truyền tin

Xử lý
thông tin

Lưu trữ
thông tin


10

Sơ đồ 1: Quá trình thông tin
Xác định nhu cầu thông tin là khâu quan trọng đầu tiên. Nhu cầu
thông tin phát sinh từ các hoạt động của con người, đặc biệt là từ các quá
trình ra quyết định. Trong một tổ chức nhỏ hoặc lớn, từ một cá nhân đến
một quốc gia, có nhiều loại quyết định phải được đề ra và thực hiện. Nhiều
cấp, nhiều điểm ra quyết định khác nhau đòi hỏi các nhu cầu thông tin khác
nhau. Vì vậy, trong một quá trình thông tin hay hệ thống thông tin, cần phải
xác định các nhu cầu thông tin không chỉ liên quan trực tiếp đến việc ra
quyết định đó mà còn tạo ra hoặc nâng cao kỹ năng, năng lực, quan điểm

của người ra quyết định. Xác định nhu cầu thông tin bao gồm các loại tin
cần có về các sự vật hiện tượng, đối tượng cần quan sát, thời gian, nơi quan
sát. Qua đó có thể cung cấp cho người sử dụng những thông tin có thể hiểu
và sử dụng có hiệu quả.
Việc xác định nhu cầu thông tin có thể do người sử dụng (nhận tin)
thực hiện, hoặc do người tổ chức và triển khai hệ thống thông tin tiến hành.
Thu thập thông tin dựa trên cơ sở nhu cầu thông tin đã được thực
hiện. Trong quá trình thu thập thông tin, cần giải quyết tốt các nội dung
sau:
- Xác định hệ thống thước đo các mặt của sự vật, hiện tượng cần
nghiên cứu và phương pháp biểu diễn chúng.
- Biểu tượng hóa: xác định phương pháp thể hiện các thông tin dưới
dạng ký hiệu theo hệ thống thước đo đã chọn, hình ảnh, từ ngữ, con số,
hoặc các loại dấu hiệu khác.
- Xác định, sử dụng các phương pháp thu thập thông tin, như quan sát,
thử nghiệm, phỏng vấn... để tiếp cận, tìm hiểu các mặt của đối tượng thông
tin.


11

Xử lý thông tin: từ các dữ liệu thu thập được hoặc đã lưu trữ trước
đó, cần có những biến đổi cần thiết để cung cấp các thông tin thích hợp cho
người sử dụng tin. Xử lý thông tin có thể bao gồm nhiều nội dung khác nhau:
- Phân loại, chọn lọc để loại bỏ các dữ liệu không cần thiết, những
dữ liệu vô dụng hoặc có thể gây nhiễu cho người nhận tin.
- Mô hình hóa: xác định các mặt cơ bản và quan trọng nhất của sự
vật, hiện tượng hoặc quá trình, giảm bớt độ phức tạp của các nhận thức về
chúng một cách hợp lý làm cho người nhận tin dễ dàng hiểu và lý giải các
vấn đề.

- Dự đoán: Các dữ liệu thu thập được thường phản ánh sự vật, hiện
tượng trong quá khứ, nhưng các quyết định lại liên quan đến hiện tại hoặc
tương lai. Vì vậy cần sử dụng các kỹ thuật dự đoán để xác định các xu
hướng phát triển của chúng, hoặc xác suất xuất hiện của một số trạng thái,
mối quan hệ trong tương lai,v.v... Từ đó tạo ra các thông tin sẵn sàng cho
người sử dụng.
- Ngoài ra còn có thể tiến hành các xử lý khác: mã hóa thông tin,
chuyển đổi thông tin từ vật mang tin này sang vật mang tin khác, v.v...
Lưu trữ các dữ liệu và thông tin tiềm ẩn.
Thời điểm từ khi thu thập, xử lý các thông tin đến khi truyền và sử
dụng thông tin ở người nhận thường cách nhau. Vì vậy, việc bảo quản các
dữ liệu và thông tin để sẵn sàng cung cấp cho người sử dụng vào bất cứ lúc
nào đó là một trong những nội dung quan trọng của bất kỳ một quá trình
thông tin hoàn chỉnh nào.
Dữ liệu và thông tin có thể được lưu trữ trên các vật mang tin khác
nhau: Văn bản tài liệu, băng, đĩa, bộ nhớ của máy tính điện tử, bộ óc của
con người, v.v... Do đó cũng có nhiều phương pháp tổ chức lưu trữ thông
tin khác nhau: thư viện, cơ sở dữ liệu máy tính, các chuyên gia,...


12

Truyền tin: là quá trình vận động thông tin giữa các chủ thể đến
người nhận thông tin cuối cùng nhằm đạt được mục đích của thông tin. Đó
là sự tác động vào người nhận tin theo một trong ba cách thức sau đây:
- Thông báo tin tức: làm thay đổi xác suất của một lựa chọn, nhờ
giảm bớt sự bất định trong hiểu biết về sự vật, hiện tượng, làm cho việc ra
quyết định được thực hiện theo hướng chắc chắn hơn.
- Chỉ dẫn: làm thay đổi hiệu quả của một tiến trình hành động nhờ
tạo ra, hoàn thiện các kỹ năng, khả năng của người nhận tin.

- Thúc đẩy: thay đổi các giá trị của các kết quả.
Truyền tin có thể thực hiện theo các kỹ thuật khác nhau tùy theo
mục đích, loại tin và vật mang tin, số lượng người nhận tin trong một quá
trình thông tin và nhiều nhân tố khác.
Nếu quá trình thông tin được tiến hành trong phạm vi tổ chức nhỏ,
với số lượng ít, có thể sử dụng các hình thức truyền tin trực tiếp: truyền
miệng, qua các báo cáo bằng văn bản, nối mạng máy tính nội bộ, niêm yết
bảng, biểu ở nơi công cộng,...
Trong phạm vi lớn, khi lượng thông tin cần chuyển tải nhiều, những
người cần nhận tin đông, cần sử dụng các hình thức truyền tin hiện đại,
mang tính đại chúng, qua các hệ thống truyền hình, truyền thanh, điện tín,
điện thoại, báo chí, nối mạng nội bộ , mạng liên ngành, mạng internet,...
Các giai đoạn trong một quá trình thông tin có thể thực hiện kế tiếp
nhau trong một khoảng thời gian liên tục hoặc có thể gián đoạn, chia thành
nhiều chu kỳ riêng độc lập với sự tham gia của nhiều chủ thể trung gian.
Trong một quá trình thông tin cần có các yếu tố:
- Người thu thập, xử lý truyền đạt, nhận và sử dụng tin. Có thể chỉ
có một chủ thể duy nhất thực hiện một quá trình thông tin, hoặc nhiều chủ
thể, mỗi chủ thể tham gia vào một giai đoạn của quá trình thông tin.


13

- Công nghệ thực hiện các hoạt động thông tin
- Các mối liên hệ hình thành trong quá trình thông tin.
- Dữ liệu hoặc thông tin dưới dạng các bản tin tồn tại trên các vật
mang tin khác nhau.
1.1.1.3. Các lĩnh vực phản ánh của thông tin
Trong các hoạt động con người tiếp nhận, xử lý các thông tin về các
hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới xung quanh. Thế giới được

chia thành hai bộ phận tự nhiên và xã hội. Thông tin phản ánh thế giới tự
nhiên được tổ chức theo các ngành khác nhau, như: Toán học, vật lý, hóa
học, sinh học, v.v...
Các hiện tượng, các quá trình của xã hội được phản ánh trong các
thông tin xã hội. Chúng cũng được tổ chức theo các chuyên ngành khác
nhau. Mỗi chuyên ngành phản ánh một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể:
kinh tế, chính trị, nghệ thuật, luật pháp, đạo đức, v.v...
Trong các quá trình quản lý và triển khai thực hiện các hoạt động
kinh tế, con người có nhu cầu về các loại thông tin khác nhau, trong đó các
thông tin kinh tế là quan trọng nhất.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thông tin
Thông tin là phạm trù tư duy nhưng lại tồn tại dưới dạng các dấu
hiệu được lưu giữ ở các vật mang tin là những thực thể vật chất. Đó là
những yếu tố không thể tách rời nhau trong các quá trình thông tin. Sự kết
hợp đó tạo cho thông tin có các mặt lượng, chất, giá trị như một thực thể
vật chất, nhưng lại có những đặc trưng riêng của nó.
1.1.2.1. Chất lượng thông tin
Trong triết học, chất lượng là khái niệm chỉ tính quy định vốn có
của sự vật, hiện tượng. Chất lượng là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc


14

tính, những đặc trưng có thể xác định được, so sánh được để phân biệt nó
với sự vật hiện tượng khác.
Chất lượng của thông tin là tổng thể các thuộc tính được xác định
bằng các thông số có thể đo được đặc trưng cho bản chất của thông tin, và
do đó nó có khả năng thỏa mãn nhu cầu của người dùng tin. Giới chuyên
môn đã bàn nhiều về chất lượng, về các thuộc tính của thông tin với các
mức độ khác nhau.

Thông tin có nhiều thuộc tính, như: tính thẩm quyền, tính hữu dụng,
tính thời điểm, tính liên quan, khả năng so sánh được, tính đầy đủ trọn vẹn,
tính chính xác, tính súc tích, tính hữu ích,... Để đánh giá chất lượng thông
tin, người ta thường xem xét một số thuộc tính cơ bản. Chất lượng thông
tin xét về mặt ý nghĩa của nó đối với người nhận tin, được đánh giá theo
các đặc trưng cơ bản:
- Tính thẩm quyền của thông tin: thể hiện ở mức độ hợp lôgic của
quá trình thông tin, căn cứ, phương pháp được sử dụng trong quá trình thu
thập, xử lý và truyền tin. Nó cũng liên quan đến mức độ trách nhiệm, uy
tín, vị trí xã hội và chuyên môn của những người thực hiện quá trình thông
tin. Tính thẩm quyền có ảnh hưởng đến mức độ tin tưởng của người dùng
tin, đồng thời cũng là một đảm bảo quan trọng về chất lượng của thông tin.
- Tính chính xác: thể hiện mức độ phản ánh đúng đắn, chuẩn xác về
thế giới hiện thực trong các thông tin. Tính chính xác không chỉ liên quan
đến phương pháp khoa học sử dụng trong quá trình thu thập thông tin, mà
còn liên quan đến quá trình xử lý và truyền tin. Thông tin chính xác phải
phản ánh chân thực, phải giúp cho người nhận tin hiểu đúng những sự vật,
hiện tượng mà họ quan tâm. Tính chính xác đòi hỏi phải chọn lọc thông tin,
loại bỏ các nhiễu thông tin xuất hiện trong các quá trình thu thập, xử lý và
truyền đạt thông tin. Đồng thời phải đảm bảo tính khoa học trong việc biểu


15

diễn, biến đổi hoặc mã hóa thông tin, tránh dẫn đến sự sai lệch thông tin
hoặc sự hiểu và đánh giá mơ hồ, sai lệch ở người nhận tin.
- Tính thời sự của thông tin: phản ánh mức độ kịp thời của thông tin
phục vụ cho quá trình ra quyết định của người sử dụng tin. Tính thời sự
được đảm bảo thông qua việc rút ngắn thời gian thu thập, xử lý và truyền
tin. Nó đòi hỏi không chỉ huy động các chuyên gia phát hiện nhanh vấn đề,

năng động tháo vát trong các hoạt động thông tin, mà còn phải trang bị
công nghệ, phương tiện thu thập, xử lý và truyền tin hiện đại để tin tức về
các sự vật, hiện tượng, quá trình đang diễn ra nhanh chóng chuyển đến
những người có nhu cầu về chúng.
- Tính hữu dụng của thông tin: cho biết khả năng tác động của
thông tin đối với kết quả hoạt động của người sử dụng tin. Tính hữu dụng
phụ thuộc vào khả năng xác định các mối quan hệ giữa nội dung mà thông
tin phản ánh và các hoạt động của người sử dụng tin, lợi ích mà thông tin
đem lại cho người sử dụng tin trong các hoạt động của họ. Đồng thời nó cũng
phụ thuộc vào việc xác định đúng người nhận tin, đúng thông tin mà họ cần.
- Các thuộc tính khác cũng có vai trò quan trọng trong các quá trình
thông tin, như tính súc tích, tính đầy đủ, trọn vẹn, v.v...
1.1.2.2 Số lượng thông tin
Lượng hóa thông tin là một vấn đề phức tạp do tính phức tạp và
trừu tượng của thông tin. Giới chuyên môn thường định lượng thông tin
căn cứ vào hai yếu tố cơ bản của thông tin, đó là ý nghĩa và tính bất ngờ
của thông tin. Thông tin làm giảm bớt sự bất định của sự vật, hiện tượng
đối với người nhận tin, được thể hiện qua hai tính chất trên. Tuy nhiên, việc
định lượng thông tin được xem xét dưới các góc độ khác nhau.
Nhìn chung, giới chuyên môn trong lĩnh vực xử lý và truyền tin
định nghĩa lượng thông tin là thước đo độ bất định của một bản tin phụ


16

thuộc vào xác suất xuất hiện của mỗi dấu hiệu có trong bản tin đó. Người ta
đã đặt vấn đề tìm một hàm số biểu diễn lượng tin. Hàm này phải thỏa mãn
các điều kiện sau:
- Phản ánh được tính chất vật lý của tin, tức là độ bất ngờ của tin
càng lớn thì lượng tin chứa trong nó càng lớn; ví dụ: nếu lượng tin của tin x

nào đó lớn hơn lượng tin y thì: F(x) > F(y).
- Hợp lý trong tính toán: lượng tin của một cặp gồm hai dấu hiệu x,
y từ hai nguồn độc lập thì lượng tin của cặp đó phải lớn hơn lượng tin riêng
rẽ và bằng tổng của chúng, tức là:
F (xy) = F(x) + F(y)
- Khi nguồn tin (X) nào đó có một ký hiệu (x) duy nhất và xác suất xuất
hiện của nó là chắc chắn bằng 1, tức là lượng tin bằng không, thì: F(x=1) = 0.
Hàm thích hợp với các điều kiện này là hàm log.
Để đo lượng tin của một dấu hiệu xi nào đó, người ta căn cứ vào xác
suất xuất hiện của nó và lượng tin được xác định bằng:
I ( x i ) = log

1
p( xi )

I(xi) = - logp(xi)
I(xi): lượng tin của dấu hiệu xi.
p(xi): xác suất xuất hiện của xi trong một nguồn tin.
Nếu trong một nguồn tin có nhiều dấu hiệu thì người ta quan tâm
đến lượng tin trung bình của nó. Giả sử nguồn tin X có các dấu hiệu là x,
lượng tin trung bình I(X) được tính như sau:
I(X) = - ∑ p(x)logp(x)


17

Ngoài ra người ta còn quan tâm đến lượng tin tương hỗ, lượng tin
có điều kiện được xác định tương tự với xác suất tương hỗ hoặc có điều
kiện của các nguồn tin.
Tùy thuộc vào cơ số log sử dụng mà lượng tin được đo bằng các

đơn vị khác nhau. Nếu cơ số log là 2 thì lượng tin được đo bằng đơn vị bít.
Cơ số log là e thì đơn vị tính là nit, còn cơ số log là 10 thì đơn vị là Hatlây.
Trong kỹ thuật xử lý và truyền tin người ta thường hay sử dụng đơn
vị bít.
Lượng tin đo độ bất ngờ của tin mà người ta gọi nó là entrôpi của nguồn.
Như vậy về trị số, entrôpi của một nguồn tin bằng lượng tin trung
bình của nguồn đó.
I(X) = H(X)
I(X): Lượng tin trung bình của một nguồn.
H(X): Entrôpi của nguồn tin
Lượng tin (entrôpi) có các đặc tính sau:
- Chúng là đại lượng dương hoặc bằng không
- Khi nguồn tin có một ký hiệu duy nhất thì lượng tin bằng không.
I(X) = - logp (x) = -log1 = 0
- Chúng sẽ cực đại khi xác suất xuất hiện của các ký hiệu của nguồn
bằng nhau, tức là độ bất định của mỗi tin tức là lớn nhất.
Khi nguồn X có hai tin x1, x2, p(x1) = p(x2) = 1/2 thì:
I (X)max = - ∑

p ( x) log 2 p ( x)

Thay số và biến đổi:
I(X)max = log22 = 1 (bít)


18

Tương tự nếu nguồn có m tin và xác suất xuất hiện của các tin như
nhau
( p ( x) =


1
) thì I(X)max = log2 m (bit) [34, 41-49]
m

Việc lượng hóa thông tin căn cứ vào độ bất định và entrôpi có ý
nghĩa quan trọng và được sử dụng phổ biến trong công nghệ thông tin hiện
đại, nhất là trong kỹ thuật mã hóa, xử lý và truyền tin. Tuy nhiên, xét về
mặt ý nghĩa, lượng tin không chỉ phụ thuộc vào các dấu hiệu được thu thập,
xử lý, mã hóa và truyền đi trong một quá trình thông tin. Nó còn phụ thuộc
vào khả năng, trình độ hiểu biết, mục đích sử dụng của người nhận tin,
cũng như thời điểm và hoàn cảnh nhận tin. Cùng một bản tin với người này
có thể là tăng sự hiểu biết, nhưng đối với người khác thì không còn là sự
bất ngờ nữa, vì vậy nó không còn có ý nghĩa thông tin với người đó nữa.
Cùng một dấu hiệu người này có thể rút ra nhiều điều bổ ích, nhưng những
người khác lại có thể chỉ thu lượm được rất ít hiểu biết hoặc hiểu sai lệch
về đối tượng thông tin. Do đó xét về mặt ý nghĩa lượng thông tin trên cùng
một dấu hiệu hay bản tin thường khác nhau tùy thuộc vào ai là người nhận
tin, khi nào, ở đâu và dùng cho mục đích gì. Entrôpy hay các đơn vị bít,
nít,... ít có ý nghĩa thực tiễn đối với việc lượng hóa thông tin của những
người dùng tin.
Đối với người sử dụng tin, lượng tin được đo bằng độ đa dạng của
nội dung các mặt của sự vật, hiện tượng được phản ánh trong các bản tin
nhận được. Số lượng thông tin theo cách hiểu này là số lượng các đối tượng
được thông tin phản ánh mà người nhận tin có thể hiểu và có ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của họ. Ở đây khó có đơn vị cụ thể để đánh giá
lượng thông tin. Đó chỉ là những đánh giá chủ quan về nội dung bao hàm
trong một bản tin mà người sử dụng tin nhận được nhiều hay ít.
Theo quan điểm này, lượng tin được đánh giá căn cứ vào:



19

- Các mặt của sự vật, hiện tượng (hay các đối tượng) được phản ánh
trong một bản tin (thể hiện ở tính trọn vẹn, tính đầy đủ của thông tin).
- Mức độ chi tiết, tỷ mỷ về các đối tượng được phản ánh trong bản tin.
- Ảnh hưởng của thông tin đối với sự hiểu biết và hành vi của người
nhận tin (thể hiện ở tính hữu ích của các thông tin). Nó thể hiện qua sự
giảm bớt độ bất định của môi trường hoạt động đối với người nhận tin, tăng
sự hiểu biết, thay đổi kết quả hoạt động của người sử dụng tin.
Quan điểm này được sử dụng phổ biến trong các hệ thống thông tin
quản lý, nhất là ở những người sử dụng tin.
1.1.2.3. Giá trị thông tin
Thông tin được xem như một tài sản quan trọng của mỗi quốc gia
hay của bất cứ một tổ chức nào. Hơn nữa, nó đã trở thành một nguồn lực
quan trọng để phát triển sức sản xuất của xã hội, như bất cứ một nguồn lực
nào khác (lao động, tài chính, tài nguyên thiên nhiên,...). Vì vậy thông tin
có giá trị của nó, giống như bất kỳ nguồn lực nào. Tuy nhiên, khác với các
nguồn lực khác, việc đánh giá thông tin thường gặp nhiều khó khăn và gây
ra nhiều tranh cãi.
Giá trị, theo quan điểm của các nhà kinh tế chính trị Mác-Lênin, là
thuộc tính của hàng hóa, do lao động tạo ra và kết tinh trong hàng hóa.
Dưới lăng kính đó, giá trị thông tin được xem xét trong mối quan hệ với chi
phí để tạo ra thông tin, khả năng thỏa mãn nhu cầu thông tin của người sử
dụng, của xã hội và giá trị trao đổi (thể hiện ở giá cả) của thông tin (liên
quan đến giá trị sử dụng, giá trị cá biệt, giá trị xã hội). Các nhà kinh tế học
phương tây cũng xem xét giá trị dưới ba góc độ:
- Chi phí;
- Lợi ích đem lại cho người sử dụng;
- Giá cả.



20

Chi phí thông tin là những chi phí phát sinh để thu thập, xử lý và
truyền thông. Chi phí lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
của một hệ thống thông tin, như: công nghệ sử dụng để thu thập, xử lý,
truyền tin, mức độ xử lý thông tin, số lượng và chất lượng thông tin, v.v...
Chi phí là yếu tố quan trọng để một tổ chức lựa chọn hệ thống
thông tin hiệu quả. Khi thông tin được mua bán, chi phí là yếu tố để người
bán và người mua quyết định, mặc cả giá cả thông tin. Nó chính là giá trị
lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm thông tin. Tuy nhiên, quan niệm này
có khác biệt ở người cung cấp và người sử dụng tin, hay người bán và
người mua tin. Chi phí đối với người bán là số tiền mà họ phải bỏ ra để
thực hiện các quá trình thông tin, bao gồm cả thu thập, xử lý và truyền tin.
Còn đối với người mua thì chi phí là giá mà họ phải trả để có được thông
tin. Thường thì chi phí của người sử dụng thông tin phải trả lớn hơn chi phí
của người cung cấp tin. Sự chênh lệch đó phụ thuộc vào tình hình cung cầu
trên thị trường thông tin, tình hình cạnh tranh, khả năng độc quyền của
người cung cấp tin và nhiều yếu tố khác.
Tuy nhiên, trong rất nhiều hệ thống thông tin quan hệ giữa người
cung cấp và người nhận tin không phải là quan hệ mua bán hoàn toàn.
Nhiều hệ thống thông tin cung cấp miễn phí cho người dùng tin: hệ thống
truyền thanh, truyền hình vô tuyến, thư viện công cộng,... Những chi phí
phát sinh để cung cấp thông tin qua các hệ thống đó rất lớn. Nhưng người
nhận tin thường được sử dụng miễn phí các thông tin, hoặc chỉ trả một
khoản lệ phí nhỏ. Trong những trường hợp này, người cung cấp phải sử dụng
các nguồn tài trợ khác để bù đắp chi phí, duy trì các hoạt động thông tin.
Giá trị sử dụng hay tính hữu ích (lợi ích) của thông tin là mặt giá trị
hết sức quan trọng. Nó thể hiện các ảnh hưởng đối với các quá trình ra

quyết định và kết quả hoạt động của người sử dụng tin. Vì vậy, nó được
xem xét dưới nhiều quan điểm khác nhau, được đánh giá theo các thước đo


21

khác nhau. Ngoài thước đo tiền tệ, người ta còn sử dụng các hệ thống đánh
giá khác để đo giá trị các thông tin. Một trong các phương pháp xác định
giá trị thông tin là đánh giá ảnh hưởng về tâm lý và tính hữu dụng của
thông tin đối với người sử dụng tin. Những ảnh hưởng đó có được trước hết
là do chất lượng và số lượng thông tin quyết định. Nhưng số lượng và chất
lượng thông tin không chỉ do người cung cấp tin quyết định mà còn do khả
năng, trình độ hiểu biết của người nhận tin, điều kiện, hoàn cảnh và thời
điểm nhận tin. Do đó, giá trị thông tin tùy thuộc vào ai là người sử dụng
tin, khi nào, trong hoàn cảnh nào thông tin được tiếp nhận và sử dụng.
Giá trị thông tin nhiều khi được đánh giá với tính chủ quan, không
có một thước đo cụ thể, thậm chí không có một giá trị chung của một thông
tin hoặc một bản tin cho tất cả những người cung cấp và sử dụng. Cũng
như lượng thông tin, một bản tin có thể có giá trị rất lớn với người sử dụng
thích hợp được cung cấp vào thời điểm thích hợp, nhưng chỉ có giá trị rất
nhỏ, thậm chí hoàn toàn vô giá trị với những người khác, ở các thời điểm
khác, trong những hoàn cảnh khác. Để đánh giá giá trị thông tin, người ta
thường quan tâm đến giá trị so sánh của nó, căn cứ vào hệ thống các tiêu
chuẩn đánh giá. Một số chuyên gia gợi ý các tiêu chuẩn quan trọng sau:
- Độ chính xác của thông tin;
- Thời điểm thông tin;
- Mức độ chi tiết, đầy đủ của thông tin;
- Mức độ tin tưởng, tính hiệu lực của thông tin;
- Độ trễ thời gian từ khi sự kiện xuất hiện đến khi có thông tin về nó
và hành động của người sử dụng tin;

- Ảnh hưởng của thông tin đối với việc ra quyết định và kết quả của
quyết định;


22

- Mức độ bí mật hay số lượng người có thể nhận được thông tin;
- Các tiêu chuẩn khác.
Thước đo tiền tệ được dùng để đánh giá giá trị thông tin trong các
trường hợp mua bán thông tin. Như đã phân tích ở trên, giá trị thông tin chỉ
có được ở người sử dụng tin. Việc sử dụng một thông tin có thể giúp cho
người sử dụng thông tin ra quyết định và thực hiện hành vi của mình có
hiệu quả hơn so với trường hợp hành động thiếu thông tin đó. Nhiều định
nghĩa về giá trị thông tin được đưa ra, trong đó có sự khác biệt nhau. Nhiều
người cho rằng giá trị tính bằng tiền của thông tin là lời lãi mà người sử
dụng có được từ các quyết định và hành động được thực hiện nhờ thông tin
đó. Tuy nhiên việc tính giá trị thông tin lại đặt ra nhiều vấn đề phức tạp và
nan giải:
- Giá trị được tính khác nhau cho những người dùng tin khác nhau
đối với cùng một tin tức, tùy thuộc vào điều kiện, khả năng, mục đích hoạt
động của họ.
- Nhiều khi cần phải có các phương án khác nhau để so sánh chênh
lệch lời lãi do sử dụng tin hay không sử dụng tin.
- Ảnh hưởng của thông tin đến hoạt động của con người có thể diễn
ra trong những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau, làm cho việc đánh giá
thông tin cũng gặp nhiều khó khăn.
- Giá trị tính bằng tiền của thông tin chỉ là một bộ phận trong tổng
thể giá trị thông tin đối với người dùng tin, chịu sự chi phối của các yếu tố
giá trị khác. Điều đó làm tăng thêm tính phức tạp của vấn đề.
Giá trị đó có thể là giá trị hiện thực khi xác định được phần lời lãi

thực tế.


23

Việc tính toán giá trị trước khi thực hiện một quyết định dựa vào
thông tin nhận được lại phải dựa vào xác suất xuất hiện những khả năng
sinh lời của quyết định đó. Giá trị đó gọi là giá trị xác suất (tương đối). Đôi
khi giá trị thông tin chỉ dựa vào những đánh giá hoàn toàn chủ quan và
được xem là giá trị chủ quan.
- Rất nhiều thông tin có giá trị sử dụng lâu dài: người ta có thể sử
dụng thông tin nhiều lần mà không mất đi giá trị của nó. Nhiều người,
nhiều thế hệ cùng sử dụng một thông tin nhưng giá trị của nó vẫn có thể
còn nguyên vẹn.
Giá trị trao đổi hay giá cả của thông tin được hình thành trong các
quan hệ trao đổi thông tin dưới hình thức mua bán ở thị trường thông tin.
Giá cả thông tin cũng giống như bất kỳ giá cả hàng hóa nào khác,
chịu sự chi phối của các quy luật thị trường, như quy luật cung cầu, cạnh
tranh, v.v...
Nhưng khác với các loại hàng hóa khác, hàng hóa thông tin có
những đặc trưng riêng, do đó giá cả của nó cũng có những đặc trưng riêng:
- Giá cả thông tin không chỉ phụ thuộc vào chi phí, giá trị thông tin
mà còn phụ thuộc vào cách thức, công nghệ xử lý và truyền tin cũng như
vật mang tin được sử dụng trong quá trình thông tin.
- Giá cả thông tin phụ thuộc vào số người sử dụng tin, khả năng và
mục đích sử dụng tin của mỗi người.
- Giá cả thông tin thường có tính độc quyền, ở một số trường hợp là
độc quyền tay đôi.
- Giá cả thường gắn với tính thời điểm của thông tin. Nhiều thông
tin có thể được định giá rất cao cho những khách hàng đầu tiên, nhưng sau

đó có thể được bán với giá thấp hoặc cho không, mặc dù giá trị sử dụng của
nó vẫn còn nguyên vẹn.


24

Những đặc trưng trên ảnh hưởng đến phương pháp định giá của người
cung cấp và việc can thiệp của Chính phủ đối với giá cả thông tin thường khó
luận chứng theo các phương pháp thường dùng cho giá cả hàng hóa thông thường.
Tuy nhiên, sự hình thành giá cả thông tin cũng có những ràng buộc
nhất định. Giá cả thông tin phải đảm bảo cho người cung cấp tin thu được
lợi nhuận mong muốn. Do đó chặn dưới của giá cả thông tin sẽ là chi phí
của người cung cấp thông tin.
Đối với người sử dụng tin, giá cả được xem là chi phí, nên nó
không thể vượt quá giá trị mà các thông tin đem lại cho họ. Giá trị để so
sánh ở đây thường chỉ tính đến giá trị bằng tiền tức là chênh lệch lời lãi mà
người sử dụng tin có được nhờ thông tin đó. Như vậy, giá trị tính bằng tiền
mà thông tin có thể đem lại cho người sử dụng tin sẽ là chặn trên các giá cả
thông tin. Trong một số trường hợp, người ta có thể tính đến các lợi ích
khác phi tiền tệ của thông tin để mặc cả về giá cả thông tin trên thị trường.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA THÔNG TIN KINH TẾ VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI

1.2.1. Các hình thái và đặc điểm của thông tin kinh tế
1.2.1.1. Phạm vi phản ánh của thông tin kinh tế
Kinh tế là lĩnh vực hoạt động cơ bản, phức tạp và có tính quyết định
đối với sự phát triển xã hội. Lịch sử loài người trải qua nhiều thời đại và
mỗi thời đại bao giờ cũng được đặc trưng bởi một trình độ, một phương
thức hoạt động kinh tế nhất định. Thời đại của chúng ta gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường. Đây là nền kinh tế phức tạp trong đó các hoạt

động kinh tế diễn ra ở ba khu vực cơ bản: sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
Thông tin kinh tế là những dữ liệu phản ánh lĩnh vực hoạt động
kinh tế của xã hội được thu thập, xử lý và cung cấp cho những chủ thể
trong các quá trình quản lý và thực hiện các hoạt động kinh tế của họ.


25

Nó phản ánh các hiện tượng, các quá trình kinh tế diễn ra ở cả ba lĩnh vực:
sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Các hoạt động kinh tế ở mỗi khu vực diễn
ra tương đối độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên các
quá trình thống nhất từ sản xuất đến tiêu dùng, trong đó hoạt động lưu
thông hàng hóa diễn ra trên các thị trường có vai trò như cầu nối. Như vậy,
phạm vi phản ánh của thông tin kinh tế là tổng thể nền kinh tế thị trường
được cấu thành bởi các bộ phận của nó, được tổ chức theo các hình thức cơ
cấu phức tạp. Cơ cấu đó được phân chia thành các cấp độ khác nhau, ở mỗi
cấp độ có các hình thức tổ chức tương ứng. Có thể mô hình hóa theo sơ đồ 2:
Cấp độ 1:

Sản xuất

Lưu thông

Tiêu dùng

- Ngành
sản xuất:
công nghiệp,
nông nghiệp,
dịch vụ,...


Thị trường
hàng tiêu
dùng, các yếu
tố sản xuất,
tiền tệ,...

- Tiêu dùng
cá nhân.
- Tiêu dùng
tổ chức.

Doanh nghiệp
sản xuất hàng
hóa, dịch vụ

Người bán
người mua

- Cá nhân
- Gia đình
- Tổ chức

Lĩnh vực kinh tế

Cấp độ 2:
Ngành chuyên sâu

Cấp độ 3:
Đơn vị cơ sở


Nền kinh tế quốc dân
Sơ đồ 2: Mô hình cơ cấu nền kinh tế
Như vậy, các thông tin kinh tế phản ánh các quá trình kinh tế ở các
cấp độ tổng hợp khác nhau. Ở mỗi cấp độ lại bao gồm các hình thức tồn tại


×