Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Đề cương môn chính phủ điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.47 KB, 27 trang )

ĐC CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
Câu 1: Hãy phân tích lợi ích cơ bản của việc xây dựng thành công CPĐT ở 1 quốc gia.
CPĐT là CP đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đúng lúc cho việc ra quyết. CPĐT lý tưởng là
1 CP cung cấp đầu đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là lợi thế lớn nhất của CNTT.
CPĐT sử dụng CNTT để tự động hoá các thủ tục HC của CP, áo dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt
động của CP do vậy tốc độ xử lý các thủ tục HC nhanh hơn rất nhiều lần.
CPĐT cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục HC và thông qua phương tiện điện tử, ví dụ như:
internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác,...
CPĐT giúp cho các doanh nghiệp làm việc với CP một cách dễ dàng bởi các thủ tục đều dễ hiểu, hướng dẫn và
mỗi bước công việc đều được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thông tin kinh tế mà CP có đều được thông
báo đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn.
Đối với công chức, CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn, có khả năng đáp
ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng
Đối với người dân và doanh nghiệp: Giảm thiểu thời gian cho công dân, doanh nghiệp và người lao
động khi truy nhập và sử dụng dịch vụ của CP và do đó giảm thiểu chi phí của người dân, khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của CP
Đối với CP: Giảm nạn giấy tờ văn phòng công sở, tiết kiệm thời gian, hợp lý hoá việc vận hành công
việc, cho phép các cơ quan CP cung cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn và giảm ngân sách chi tiêu của CP.
Về mặt kinh tế, chính phủ điện tử là một ý tuởng nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch để tăng hiệu quả
của nền hành chính công quyền. Tuy nhiên, ở góc độ xã hội và chính trị, hiệu quả của chính phủ điện tử còn đi
xa hơn trong việc xây dựng lòng tin, thúc đẩy tính minh bạch và tăng cường sự tham gia của cộng đồng đối với
quá trình ra quyết định của chính phủ. Điều này còn có ý nghĩa đặc bịêt hơn nữa khi mà tại các nước phương
Đông, nơi mà bộ máy hành chính công quyền luôn cồng kềnh và ít hiệu quả. Chính phủ điện tử là một công cụ
giảm thiểu những “va chạm” không muốn/đáng có giữa những đối tác trong quá trình giao dịch kiểu đối diện
(face to face) đầy nhạy cảm con người.
Hiệu quả hơn trong các hoạt động quản lý nhà nước của chính phủ. Mô hình e-gov sẽ làm cho các dịch
vụ của chính phủ được cung cấp trực tuyến 24 giờ trong 7 ngày thay vì theo lịch làm việc công chức truyền
thống. Các ứng dụng phổ biến nhất hiện nay như là hệ thống tài chính, các hoạt động về mua sắm của chính
phủ, giao dịch nội bộ giữa các cơ quan hành chính lẫn việc chia sẻ thông tin với cộng đồng. Ví dụ như trường
hợp Bộ kinh tế và tài chính của Ý đã xây dựng hệ thống đấu thầu các hoạt động mua sắm khu vực công qua
mạng vào năm 2000. Việc này không những giảm bớt thời gian mà còn giảm được 30% chi phí so với cách thức


mua sắm truyền thống trước đó (Culbertson, 2002). Hoặc một trường hợp khác ở Đức, Dịch vụ trực tuyến hỗ
trợ giáo dục liên bang làm cho các gia đình học sinh có thu nhập thấp được cung cấp tín dụng nhanh chóng hơn.
Hoạt động tín dụng trực tuyến này ngay trong năm đầu đã tiết kiệm được 4,5 tỉ EUR do các thủ tục và bộ máy
hành chính rườm rà đã áp dụng trước đó (OECD,2003).
Chất lượng dịch vụ cung cấp được cải thiện. Sự thảo luận trao đổi thông tin giữa các đối tác bằng mô
hình e-gov ít tốn kém thời gian và chi phí đã là một điều kiện tốt trong việc trao đổi giữa nhà cung cấp dịch vụ
(chính phủ) và khách hàng (doanh nghiệp và dân chúng) của mình. Chính sự thảo luận này đã giúp không


những bản thân chất lượng dịch vụ được nâng cao và đáp ứng nhu cầu mà còn là một cầu nối ý tưởng trong
hoạch định các chính sách vi mô và vĩ mô của chính phủ. Chẳng hạn như gần đây, chính phủ Mexico đã cung
cấp một cổng trực tuyến mang tên “Cổng thảo luận khách hàng” (Customer – Discussed Portal” (3).
Cổng chính phủ điện tử này cung cấp thông tin và hoạt động dịch vụ với nhiều chủ đề như là một siêu thị hơn
là một cơ quan hành chính thông thường. Nó cung cấp hơn 1.500 dịch vụ với trên một ngàn cơ quan có liên
quan được kết nối. Ở đó mọi nguời có thể tìm bất cứ thông tin từ “thượng vàng đến hạ cám”. (OECD, 2003).
Một ví dụ khác cho thấy sự tham gia của nguời dân trong tham gia các chính sách vĩ mô đó là cổng du lịch điện
tử được Tây Ban Nha sử dụng vào năm 2002(4).
Tại địa chỉ trực tuyến này là cầu nối tất cả các thông tin thu nhận từ dữ liệu của cơ quan công quyền lẫn tư nhân.
Thông tin thu nhận này là cơ sở để giới quản lý du lịch cải thiện hoạt động của ngành mình. Từ những việc rất
nhỏ như thiết kế một sách hướng dẫn du lịch như thế nào, với ngôn ngữ gì cho đến việc xây dựng chiến lược du
lịch quốc gia.
Xây dựng và tăng cường lòng tin giữa chính phủ và dân chúng. Đây là lợi ích chính trị cực kỳ nền tảng
mà bất cứ một chính phủ nào cũng hướng đến. Bởi lẽ, một khi thiếu vắng sự tin tưởng thì vai trò của pháp luật,
hiệu quả cưỡng chế của các quyết định chính phủ cũng như các chương trình đổi mới của chính phủ thường
được nguời dân đón nhận mờ nhạt. Trong khi đó, sự tương tác giữa chính phủ với dân chúng tăng lên cùng với
hiệu quả và chất lượng dịch vụ cung cấp được cải thiện nhờ các dịch vụ trực tuyến từ e-gov sẽ là yếu tố tăng
cường lòng tin của nhân dân đối với chính phủ. Lợi ich chính trị này có được khi áp dụng e-gov là động cơ đầu
tiên và mạnh nhất cho các nhà làm chính sách khi họ muốn cải cách hệ thống quản lý công của mình. Ví dụ
minh hoạ thuyết phục nhất cho trường hợp này lại là một sáng kiến đến từ Hàn Quốc. Trước kia, những hàng
hóa và dịch vụ mà chính phủ chi tiêu cho các dự án công được cung cấp bởi một mạng lưới các nhà cung cấp tư

nhân một cách mờ ảo và thường là dính dáng nhiều đến tham nhũng và rò rỉ. Sáng kiến của Hàn Quốc là cung
cấp các thông tin về dự án công này trên mạng và đấu thầu trực tuyến (5).
Cấp độ e-gov chính phủ - doanh nghiệp của Hàn Quốc đã làm minh bạch các hoạt động của chính phủ trước
nhân dân, và dĩ nhiên là nó đã tăng cường đáng kể sự tín nhiệm của dân chúng đối với chính phủ trong quản lý
chi tiêu công.
Câu 2: Hãy nêu và phân tích các mục tiêu của việc xây dựng CPĐT
-

Các mục tiêu của CPĐT:

Mục tiêu chung là: tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả điều hành nhà nước của chính phủ, mang lại thuận
lợi cho dân chúng, tăng cường sự công khai minh bạch (transparency), giảm chi tiêu chính phủ.
Mục tiêu cụ thể là:
- Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Chính phủ và các cơ quan chính quyền các cấp (trao đổi văn bản
điện tử, thu thập thông tin chính xác và kịp thời ra quyết định, giao ban điện tử …)
- Cung cấp cho người dân và doanh nghiệp các dịch vụ công tạo điều kiện cho nguời dân dễ dàng truy nhập ở
khắp mọi nơi
- Người dân có thể tham gia xây dựng chính sách, đóng góp vào quá trình xây dựng luật pháp, quá trình điều
hành của chính phủ một cách tích cực.


- Giảm được chi phí cho bộ máy chính phủ
- Thực hiện một chính phủ hiện đại, hiệu quả và minh bạch
Chính phủ điện tử sẽ tạo ra phong cách lãnh dạo mới, phương thức mới, cung cấp dịch vụ cho người dân và
nâng cao được năng lực quản lý điều hành đất nước.
Do vậy mà trong thời gian qua, các nước đều cố gắng đầu tư xây dựng CPĐT. Xây dựng CPĐT ở Việt Nam là
một yêu cầu cấp thiết, nó là một phần quan trọng trong tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia.

Câu 3: Theo anh (chị) việc xây dựng CPĐT ở VN đang gặp những khó khăn gì? Hãy đề xuất giải pháp
khắc phục những khó khăn đó.

Xem câu 5
Câu 4: Hãy so sánh hoạt động của CPĐT với CP truyền thống. Cho VD
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử nhưng chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm
chung về Chính phủ điện tử nh sau:
Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để tự động hoá và triển khai các thủ
tục hành chính.Chính phủ điện tử cho phép các công dân có thể truy cập các thủ tục hành chính thông qua các
phơng tiện điện tử như Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác.
Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với ngời dân 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần và 365 ngày mỗi năm, ngời
dân có thể thụ hởng các dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu.
Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm khác so với Chính phủ truyền thống. Với
Chính phủ truyền thống, quá trình quản lý hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nớc diễn ra thủ công, tốn
nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Dân chúng không thể liên lạc với Chính phủ ngoài giờ hành chính, không
thể ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ quan nhà nước. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh
doanh, làm khai sinh cho con mình hay đóng thuế trớc bạ 24/24 giờ, 7/7 ngày và ở bất cứ đâu. Chính phủ điện
tử có thể khắc phục đợc những hạn chế này của Chính phủ truyền thống.
Ngoài ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống là sự khác biệt về tốc độ xử lý
giữa các thủ tục hành chính đợc tự động hóa so với các thủ tục hành chính đợc xử lý thủ công. Việc tự động hoá
thủ tục hành chính của Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất
nhiều. Không những thế, thông tin đợc cung cấp cho người dân còn đầy đủ, chính xác và dễ dàng hơn, ngời dân
cũng đỡ mất nhiều chi phí để thu thập các thông tin này. Nói tóm lại Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện
đại hơn nhiều so với Chính phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan Chính phủ các cấp
sẽ tiến dần từng bước tới và có lẽ không bao giờ có thể nói rằng Chính phủ điện tử đã được xây dựng xong.

Câu 5: Nêu hiểu biết của mình về CPĐT. Để xây dựng thành công CPĐT cần triển khai những nội dung
gì?
Bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng thông tin truyền thông đặt ra nhiều thách thức cho các nước trên thế giới.
Một trong nhiều thách thức mà các nước đang phải đối mặt là việc chuẩn bị sẵn sàng cho xã hội và chính phủ


của mình. Việc nâng cao sức mạnh của công nghệ thông tin sẽ giúp cho các quốc gia khẳng định vị thế trên

tường quốc tế. Nhiều nước trên thế giới đã nắm bắt được cơ hội ứng dụng CNTT & TT, phát huy thế mạnh,
tăng cường năng lực kinh tế xã hội tạo ra những biến đổi vượt bậc đưa đất nước tiến mạnh lên phía trước. Chính
phủ điện tử được xem là nhân tố không thể thiếu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. “CPĐT là CP ứng dụng
CNTT&TT để hoạt động hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn”.
CPĐT ứng dụng CNTT&TT, cùng với quá trình đổi mới tổ chức, phương thức quản lý, quy trình điều hành, làm
cho CP hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, minh bạch hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn và phát huy dân chủ mạnh
mẽ hơn. CPĐT đang trở thành mô hình phổ biến đối với nhiều quốc gia, cung cấp dịch vụ, thong tin trực tuyến
cho mọi người dân, doanh nghiệp một cách nhanh chóng, tiết kiệm, thuận lợi hơn ở khắp mọi nơi, mọi lúc.
Nhận thực được vai trò và xu thế phát triển tất yếu của CPĐT, Đảng và CP VN đang thực hiện mạnh mẽ
chương trình cải cách hành chính, hiện đại hóa cơ quan CP, triển khai thực hiện các quá trình tin học hóa, nâng
cao chất lượng dịch vụ, xây dựng một CP thực sự của dân, do dân và vì dân với năng lực cạnh tranh và hội nhập
ngày càng cao, từng bước xóa bỏ quan lieu, tham nhũng, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển KT-XH.
Quá trình xây dựng CPĐT là một quá trình lâu dài, Kế hoạch tổng thể phát triển CPĐT VN đến năm 2010 là kế
hoạch tổng thể đầu tiên nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng về xây dựng CPĐT trong Chiến
lược phát triển CNTT&TT đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, xây dựng các nền tảng quan trọng để
thực hiện thành cong CPĐT ở VN. Để xây dựng thành công CPĐT cần triển khai những vấn đề sau:
1.

Cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông.

Bộ Bưu chính viễn thông đã thực thi các chính sách ủng hộ môi trường cạnh tranh, tạo ra các điều kiện cho tất
cả các ngành kinh tế tham gia vào các dịch vụ Internet và viễn thông.
2.

Nguồn nhân lực cho việc triển khai CPĐT

Để xây dựng thành công CPĐT, việc cần thiết nhất là phải có một nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở
đây được hiểu là đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực CNTT viễn thông, đội ngũ cán bộ quản lý có nhận thực
đầy đủ về CNTT cũng như CPĐT. Nguồn nhân lực mạnh mẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công
của chiến lược xây dựng CPĐT.

3.

Nhận thực của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của CP

Hiện nay nhận thức của người dân VN về CPĐT còn kém, khả năng tiếp cận CPĐT là rất thấp. Muốn tăng khả
năng sử dụng các dịch vụ của CPĐT, điều cần thiết trước mắt là phải nâng cao nhận thức của người dân về vai
trò của việc ứng dụng CNTT trong đời sống
4.

Cơ sở pháp lý.

Các quyết định của Thủ tướng CP số 280/QĐ-TTg ngày 29/4/1997 về việc xây dựng mạng tin học diện rộng
trong các văn phòng UBND và các bộ, ngành; Quyết định sô 136/QĐ-TTg ngày 5/3/1997 về việc thành lập ban
điều phối quốc gia mạng Internet…là những cơ sở pháp lý ban đầu cho việc phát triển hạ tầng cơ sở thông tin ở
VN và tạo điều kiện cho thương mại điện tử. CP VN cũng cần tạo ra một khung pháp lý cho sự ra đời của
thương mại điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của CPĐT.
5.

Vấn đề bảo mật thông tin


Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các CQ của CP (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao,…),
từ lâu NN đã có các quy định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phủ hợp để đảm bảo an ninh, an toàn cho loại
thông tin này. Ngành cơ yếu VN đứng đầu là Ban cơ yếu CP là CQNN chịu trách nhiệm bảo mật, bảo đảm an
toàn cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.
Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực KT-XH, việc bảo đảm an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi VN
chính thức tham gia mạng Internet, NN đã thành lập một CQ liên quan ngang Bưu chính viễn thông và CA để
quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số văn bản quy định về vấn đề này.
6.


Hệ thống thanh toán điện tử

Các ngân hang thương mại của VN đang nỗ lực triển khai các dịch vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại
hóa công nghệ ngân hang, nhằm tự động hóa việc xử lý giao dịch, đa dạng hóa sản phẩm.
6. Trình bày hiểu biết của a/c về Chính phủ điện tử? Theo a/c những cản trở chính trong tiến trình xây
dựng CPĐT ở VN là gì?
Hiểu biết về CPĐT
Chính phủ Điện tử (e-Government) là tên gọi của một chính phủ mà mọi hoạt động của nhà nước được
"điện tử hóa", "mạng hóa". Tuy nhiên, chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là
sự đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực, các quy
trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương,
và ngay cả các quan niệm về các hoạt động đó.
Chính phủ Điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để các cơ quan của Chính quyền từ
trung ương và địa phương đổi mới, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch
vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện
quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước
-

CPĐT với các đặc trưng:

Thứ nhất, CPĐT đã đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính phủ.
Thứ hai, CPĐT làm minh bạch hóa hoạt động của chính phủ, chống tham nhũng, quan liêu, độc quyền
Thứ ba, CPĐT giúp chính phủ hoạt động có hiệu quả trong quản lý và phục vụ dân (cải cách hành chính và
nâng cao chất lượng dịch vụ công)
-

Mục tiêu Chính phủ Điện tử

+ Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn;
+ Khách hàng trực tuyến, không phải xếp hàng;

+ Tăng cường sự điều hành có hiệu quả của chính phủ và sự tham gia rộng rãi của người dân;
+ Nâng cao năng suất và tính hiệu quả của các cơ quan chính phủ;
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng vùng sâu vùng xa.
-

Có bốn dạng giao dịch Chính phủ Điện tử:


Chính phủ với Công dân (G2C);
Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B);
Chính phủ với Chính phủ (G2G).
Chính phủ với Người lao động (G2E).
Những cản trở chính trong tiến trình xây dựng CPĐT ở VN
Có thể nói, trước sự định hướng của Đảng và Chính phủ, khung chính sách pháp luật về ứng dụng CNTT là tiền
đề vững chắc, là cơ sở để tiến tới thành công trong phát triển ngành. Tuy nhiên để triển khai thành công CPĐT
thế hệ mới tại Việt Nam, cần thiết phải đưa ra những chính sách để giải quyết các yếu kém, thiếu sót còn tồn
đọng cũng như vượt qua những thách thức khó khăn trước mắt khi triển khai như sau:
- Thời gian qua, các Bộ ngành đã có nhiều nỗ lực thực hiện, bước đầu đạt những kết quả quan trọng, tuy nhiên
một số cơ quan chưa xây dựng quy chế về quản lý, sử dụng hệ thống thư điện tử, hoặc đã xây dựng
nhưng chưa quy định rõ quy trình công việc khi ứng dụng thư điện tử, các loại văn bản bắt buộc được gửi
qua hệ thống thư điện tử.
Trình độ, thói quen ứng dụng CNTT của cán bộ, công chức và người dân còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả
năng tiếp nhận các dịch vụ của các cơ quan nhà nước thông qua ứng dụng CNTT.
Nhiều cán bộ công chức chưa có thói quen, kỹ năng ứng dụng CNTT, đặc biệt là các ứng dụng CNTT đặc
thù, chuyên ngành; chưa hình thành văn hóa chia sẻ thông tin. Đây là các yếu tố quan trọng cản trở việc ứng
dụng CNTT. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ lãnh đạo chưa gương mẫu, chỉ đạo sát sao, quyết liệt ứng dụng
CNTT nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.
- Ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan nhà nước chủ yếu còn có quy mô nhỏ lẻ, chưa phát huy hết hiệu quả
của ứng dụng CNTT. Tỉ lệ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai
mạng diện rộng (WAN) kết nối các đơn vị trực thuộc cũng còn rất ít và hiệu quả sử dụng chưa cao. Các ứng

dụng CNTT chuyên ngành, quy mô quốc gia tạo nền tảng cho phát triển CPĐT chưa được hoàn thành và triển
khai trên diện rộng.
Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp còn hạn chế, các trang thông tin điện tử chủ yếu mới
chỉ cung cấp thông tin, còn ít trường hợp người dân có thể nộp hồ sơ xin cấp phép, đăng ký qua mạng do việc
người dân tham gia vào các dịch vụ công trực tuyến còn ít, chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ tiện ích này.
Thông tin đưa lên các cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử chưa phong phú, chất lượng chưa cao,
các dịch vụ công trực tuyến được cung cấp chủ yếu ở các mức độ thấp.
Các cơ quan chính phủ Việt Nam hầu như chưa ứng dụng các phương tiên di động vào trong việc cung
cấp thông tin và dịch vụ cho người dân (ngoại trừ trường hợp thí điểm như ở Đà Nẵng đang thử nghiệm để có
thể truy cập website của thành phố qua điện thoại di động).
Khoảng cách số giữa các khu vực còn lớn, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị, điều này gây khó khăn cho
việc triển khai đồng bộ, trên diện rộng các ứng dụng CNTT.
- Phần lớn các dự án ứng dụng CNTT chuyên ngành chưa được hoàn thiện, chủ yếu mới ở giai đoạn bắt đầu
triển khai, hoặc triển khai thí điểm trên diện hẹp.


Kinh phí đầu tư cho ứng dụng CNTT còn hạn hẹp, chưa tương xứng với vai trò của ứng dụng CNTT có
thể mang lại, tiến độ cấp phát kinh phí còn chậm. Trung ương và địa phương chưa có nguồn chi ổn định cho
ứng dụng CNTT, đặc biệt là tại các địa phương có khó khăn về kinh tế. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong quá trình triển khai các dự án ứng dụng CNTT quy mô còn nhiều hạn chế.
- Các cơ quan nhà nước chưa thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng tốt trở thành cán bộ chuyên trách
về CNTT.
Số lượng và trình độ các cán bộ chuyên trách về CNTT còn hạn chế, đặc biệt là tại các địa phương, nhiều
cán bộ đang làm việc theo hình thức kiêm nhiệm.
Một khó khăn lớn nhất mà các đơn vị đưa ra là chưa có chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho cácn bộ
chuyên trách về CNTT nên khó thu hút đur cán bộ có trình độ đáp ứng được yêu cầu về công tác.
- Các doanh nghiệp Việt Nam đã sử dụng những phần mềm và ứng dụng CNTT từ mức độ đơn giản đến phức
tạp để phục vụ cho nhiều mục đích hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ phổ cập và sử dụng các
ứng dụng CNTT của các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ cũng như giữa các doanh nghiệp ở các địa bàn
hoạt động khác nhau là chưa đồng đều. Còn tồn tại sự chênh lệch khá lớn về nhu cầu và mức độ ứng dụng

CNTT giữa các loại hình doanh nghiệp cũng như giữa các vùng miền trên cả nước.
- Tại các doanh nghiệp lớn, vấn đề trở ngại lớn nhất đối với việc ứng dụng CNTT là thứ tự ưu tiên dành cho
lĩnh vực CNTT trong tương quan với các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trở ngại lớn nhất cho ứng dụng CNTT là sự hạn chế về nhân lực và
vốn. Tại các doanh nghiệp nhỏ, nhận thức của chỉ đạo của lãnh đạo đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, vấn
đề tư vấn cho doanh nghiệp khi quyết định đầu tư cho CNTT cũng như đào tạo nguồn nhân lực để phát triển
CNTT lâu dài cho doanh nghiệp là những nhu cầu lớn mà doanh nghiệp hướng tới.
- Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các cơ quan nhà nước tuy đã được cải thiện đáng kể trong thời gian qua, tạo
nền tảng cho triển khai thành công các ứng dụng CNTT, nhưng vẫn chưa bảo đảm nhu cầu thực tế đặc biệt là
vấn đề an toàn, an ninh thông tin. Hạ tầng bảo đảm an toàn, an ninh, bảo mật thông tin hầu như chưa đáp ứng
yêu cầu.
Hệ thống phòng chống virus chủ yếu mới chỉ triển khai ở mức đơn lẻ tại các máy trạm, chưa xây dựng được
các hệ thống phòng chống virus, chống thư rác tổng thể và hầu như chưatriển khai ứng dụng chữ ký số và chứng
thực số.
7. Hãy nêu và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của Chính phủ điện tử?
- Hạ tầng công nghệ
Hạ tầng công nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc áp dụng và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ bao
gồm: CNTT-TT, công nghệ Internet, công nghệ điện tử (CNĐT), tiêu chuẩn công nghệ.
+ CNTT và công nghệ viễn thông (CNVT): CPĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển của CNTT và CNVT. Hạ
tầng CNTT và hạ tầng cơ sở CNVT là hai điều kiện tiên quyết để thực hiện CPĐT. Hạ tầng CNTT bao gồm
phần cứng, phần mềm, các dịch vụ để áp dụng và phát triển CPĐT nhằm mạng lại hiệu quả kinh tế. Hạ tầng
CNVT đòi hỏi công nghệ cao, dung lượng lớn, băn thông rộng, liên kết các mạng viễn thông quốc gia, kết nối


trực tiếp với đường truyền quốc tế với nhiều loại hình dịch vụ viễn thông với chất lượng đường truyền cao và
giá thành hợp lý.
+ Công nghệ Internet: Internet được xem là hết sức quan trọng trong tổng thể chiến lược phát triển CPĐT. Cùng
với hạ tầng CNTT và hạ tầng CNVT thì hạ tầng công nghệ Internet là một trong ba yếu tố cần thiết để áp dụng
và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ Internet thúc đẩy quá trình tri thức tạo ra tri thưc, tạo cơ hội thành công
trong canh tranh và đưa lại hiệu quả tôt cho các hoạt động hợp tác trao đổi.

-

Cơ sở hạ tầng nhân lực

Các thành viên tham gia CPĐT cần có kiến thức và kỹ năng sử dụng máy tính và sử dụng mạng. Họ phải có
những hiểu biết cần thiết về các luật: giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, kinh tế thương mại và ngoại ngữ.
Phải xây dựng đội ngũ chuyên gia gia, tiếp cận, hiểu biết và phát triển những công nghệ tiên tiến trên thế giới.
-

Chuyên gia CNTT

Nguồn nhân lực - một trong những yếu tố chính để phát triển CPĐT vẫn là vấn đề khó khăn, không chỉ thiếu số
lượng mà còn hạn chế về mặt chất lượng. Kiến thức của hầu hết sinh viên CNTT ra trường đều thiếu, từ kỹ năng
làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất lượng và nhất là trình độ ngoại ngữ. Cần phải quan tâm đến nguồn nhân
lực và quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước đã và đang đầu tư, triển khai về dự án CNTT, tin
học hoá quản lý hành chính nhà nước, tiến tới một nền hành chính điện tử, chú trọng, bồi dưỡng các kỹ sư
CNTT trong các trường đại học, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thực hiện CPĐT.
-

Người tiêu dùng

Số lượng người tiêu dùng quyết định thành bại của sản phẩm hay dịch vụ. Muốn thực hiện và phát triển CPĐT
thì đông đảo người dân phải hiểu biết và sử dụng được dịch vụ Iternet. Hơn nữa, vẫn còn khoảng cách giữa việc
sử dụng máy tính với việc khai thác các ứng dụng của Internet. Nhiều cơ quan, xĩ nghiệp, phần lớn cán bộ, nhân
viên chưa từng dùng máy tính, những người được coi là biết sử dụng máy trên thực tế mới chỉ có thể soạn thảo
được văn bản ở trình độ thấp, chưa nói tới việc ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý kinh doanh. Một số cơ
quan đã kết nối với Internet nhưng hiệu quả sử dụng còn kém, một phần do chưa có kỹ năng sử dụng Internet,
một phần do trình độ tiếng anh còn hạn chế.
-


Cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội

CPĐT cần một hạ tầng kinh tế xã hội phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề quan trọng cần lưu ý
giải quyết là:
+ Mức sống của người dân: mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư tiếp xúc với các phương thức của
“kinh tế số hoá”. Nếu chi phí cho một máy tính cá nhân, thiết bị phù trợ, thuê bao Internet, phí truy cập… quá
lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân thì lượng người truy cập Internet sẽ ít. CPĐT không thể
phát triển trong điều kiện số người dân có khả năng truy cập internet thấp.
+ Hệ thống thanh toán tài chính tự động: Ở Việt Nam, việc thanh toán tài chính tự động được triển khai ở mức
thấp. Trong khi CPĐT đòi hỏi mạng lưới thanh toán tự động hoàn chỉnh và chính xác, nhưng chúng mới chỉ đáp
ứng được một phần của những yêu cầu tốii thiểu. Thẻ thanh toán điện tử chưa được sử dụng rộng rãi do người
dân có thói quen sử dụng tiền mặt. Chừng nào mà chúng ta chưa hình thành hệ thống thanh toán tự động, chừng
đó tính khả thi của CPĐT cũng như của thương mại điện tử còn nhiều hạn chế.


+ Năng suất lao động: Nền kinh tế Internet đòi hỏi một nền sản xuất có năng xuất cao. Tại Việt Nam năng suất
lao động còn thấp, cách tổ chức công việc còn thiếu khoa học, còn có người thất nghiệp nên chưa tạo động lực
thúc đẩy tiết kiệm cao đọ chi phí vật chất và thời gian, là những mục tiêu căn bản và lưọi ích thiết thực mà
CPĐT mạng lại.
- Cơ sở hệ thống chính sách – pháp luật
Do Internet là một lĩnh vực khả mới mẻ ở Việt Nam nên hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đáp ứng
được yêu cầu của CPĐT. Chúng ta đã cố gắng ban hành một số luật như luật giao dịch điện tử, luật CNTT, luật
sở hữu trí tuệ. Hàng loạt các vấn đề bảo hộ quyền sở hữu, tính bảo mật của thông tin giao dịch trên Internet, chế
tài với hành vi gian lận, vi phạm hợp đồng, phương thức tính thuế đối với các giao dịch điện tử,… chưa được cụ
thể hoá trong các văn bản pháp luật liên quan.
-

Cơ sở an toàn và bảo mật

Khi tham gia vào Internet, vấn đề đặt ra là phải tăng cường các biện pháp an tòan bảo mật. An toàn luôn được

coi là vấn đề chủ yếu trong thực hiện CPĐT. Theo hiệp hội an toàn máy tính quốc gia NCSA (National
Computer Security Association) vấn đề an toàn CPĐT gồm các khía cạnh:
-Tính xác thực: Trong giao thức TCP/IP, phương tiện để nhận diện một người sử dụng là mật mã.
-Tính riêng tư: Các hành vi vi phạm tính riêng tư có thể xuất hiên trong và sau khi chuyển giao thông tin.
-Tính trung thực: TCP/IP có vai trò truyền các gói dữ liệu trong văn bản thuần tuý.
8. Nêu và phân tích những thay đổi trong cách làm việc của chính phủ khi có chính phủ điện tử?
- Thứ nhất
Sự vận hành của chính phủ truyền thống :
+ Diễn ra thủ công, nhiều thủ tục, tốn nhiều công sức và tài chính cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân;
+ Người dân chỉ có thể liên hệ với Chính phủ 5 ngày/tuần, 8h/ngày tại trụ sở của các cơ quan nhà nước.
Với lợi thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông:
+ Chính phủ điện tử có thể khắc phục được những hạn chế trên của Chính phủ truyền thống.
+Thông qua CPĐT, người dân có thể thực hiện nhiều dịch vụ hành chính như đăng ký kinh doanh, làm khai
sinh, khai tử hay đóng thuế trước bạ 365 ngày/năm, 7 ngày/tuần, 24 giờ/ngày ở bất kỳ nơi nào.
-

Thứ hai

Xét về tốc độ xử lý các dịch vụ giữa CPĐT và Chính phủ truyền thống:
+ Việc tin học hóa và tự động hoá thủ tục hành chính của Chính phủ điện tử cho phép giải quyết các dịch vụ
nhanh hơn, thuận tiện hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất nhiều.
+ CPĐT làm đơn giản hóa các thủ tục, giảm bớt các khâu rườm rà trong thủ tục và nâng cao hiệu quả của quá
trình phê duyệt, chú trọng việc cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, hiệu quả.


+ Hơn nữa, người dân và doanh nghiệp còn được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, dễ dàng hơn, và giảm
được các chi phí cho việc thu thập thông tin.
+ Đối với các cơ quan khác của chính phủ và cán bộ chính phủ, CPĐT sẽ giúp các cơ quan chính phủ phối hợp
một cách hiệu quả là sự hỗ trợ hợp tác giữa các cơ quan nhằm để đảm bảo đưa ra các quyết định một cách chính
xác và kịp thời.

-

Thứ ba

+ Với những khách hàng trực tuyến, CPĐT sẽ giúp làm giảm thiểu sự tham gia của các cán bộ chính phủ trong
việc cung cấp một cách hiệu quả các dịch vụ công cộng cho người dân.
+ Thông quả việc tham gia rộng rãi của người dân, CPĐT cũng giúp nâng cao tính minh bạch và tin cậy của
chính phủ, đồng thời có thể thu thập rộng rãi ý kiến của người dân trong quá trình hoạch định, thực thi và giám
sát chính sách của chính phủ.
-

Thứ tư

+ CPĐT sẽ khắc phục và đẩy lùi những tiêu cực diễn ra trong hoạt động công vụ đó là cửa quyền, hách dịch,
sách nhiễu, trì trệ, quan liêu …., các “thủ tục bôi trơn”.
+ Với việc cung ứng các dịch vụ công trực tuyến, CPĐT sẽ giải quyết các công việc của người dân, doanh
nghiệp theo đúng thủ tục, trình tự, thời gian, chất lượng đã được quy định sẵn theo tiêu chuẩn. Người dân,
doanh nghiệp không phải lãng phí các khoản chi phí về thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thụ hưởng các
dịch vụ công ngoài khoản lệ phí sử dụng dịch vụ.
+ Qua đó, tính hiệu quả và chất lượng quản lý của bộ máy nhà nước và sự hài lòng của người dân đối với nhà
nước được nâng lên.
-

Thứ năm

+ CPĐT là nên tảng để chuyển từ nên hành chính truyền thống sang nền hành chính phát triển, mà thực chất là
chuyển từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ.
+ Trong CPĐT, công dân là khách hàng; quan hệ “xin - cho” phổ biến trong Chính phủ truyền thống được
chuyển thành quan hệ “phục vụ, cung ứng dịch vụ” trong CPĐT.
9. Trình bày các nhân tố dẫn đến thất bại trong quá trình triển khai CPĐT, cho ví dụ?

Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thất bại của chương trình CPĐT, thất bại của chương trình CPĐT phụ thuộc
vào độ lớn của khoảng cách giữa "thực trạng" và "bản thiết kế dự án CPĐT". Khoảng cách này (được gọi tắt là
"khoảng cách thực tiễn - thiết kế") càng lớn thì nguy cơ thất bại càng lớn và ngược lại, khoảng cách này càng
nhỏ thì khả năng thành công càng lớn.
Mặc dù các biểu hiện thất bại của chương trình CPĐT hết sức đa dạng, những biểu hiện có tính điển hình và
cụ thể hóa khoảng cách thực tiễn - thiết kế trong 3 loại khoảng cách dưới đây:
- Khoảng cách Cứng - Mềm:
+ Khi được hỏi "Bạn suy nghĩ thế nào về Công nghệ thông tin - Truyền thông?", chúng ta thường nghĩ về máy
móc, thiết bị và giải pháp kỹ thuật, công nghệ; thêm nữa, ta cũng chỉ có thể nghĩ về tính hợp lý và tính


khách quan cần được xây dựng và bảo đảm. Đó là những nội dung ít thay đổi, tức là tương đối cố định, là
"cứng".
+ Hầu hết các chương trình CPĐT đều được thiết kế theo những quan niệm này. Song rắc rối chính là ở chỗ
hoạt động của các cơ quan chính phủ, đặc biệt ở các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, lại không gắn
nhiều với những ý tưởng "cứng" như vậy, mà ở đó thường ngự trị các yếu tố "mềm" như con người, văn hóa,
tình cảm và chính trị.
- Khoảng cách Công - Tư:
+ Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thay đổi, khu vực nhà nước vẫn rất khác so với khu vực tư nhân. Nhưng
nhiều công ty và chuyên gia tin học, cả các quan chức chính phủ và những người cộng sự, vẫn thường quên điều
đó. Họ lấy một hệ thống thông tin, được thiết kế cho khu vực tư nhân, và tìm cách "áp" nó vào môi
trường thực tiễn khác nhiều của khu vực nhà nước. Thế là xuất hiện hàng loạt vấn đề rối rắm và cuối cùng
thường là những biểu hiện không thành công.
- Khoảng cách trong bối cảnh quốc gia:
+ Với mong muốn nhanh chóng có giải pháp, một cách làm thường gặp là các nhà tài trợ, nhà tư vấn và cả các
quan chức chính phủ tìm cách đưa từ nước khác về những giải pháp có sẵn.
+ Rõ ràng là sẽ có một khoảng cách lớn giữa thiết kế và thực tiễn, nếu ta tìm cách đưa vào áp dụng ở một nước
đang phát triển hay đang chuyển đổi một hệ thống CPĐT được thiết kế tại một nước công nghiệp theo yêu cầu
của nước này. Khi đó, đương nhiên, thất bại toàn phần hoặc từng phần sẽ là kết quả dễ xảy ra.
10. Nhiệm vụ chính cần triển khai trong việc xây dựng CPĐT tại VN hiện nay là gì? Tại sao?

a. Triền khai đào tạo và tuyên truyền nâng cao nhận thức
- Tổ chức tuyên truyền trong các cơ quan Chính phủ và trong toàn xã hội về lợi ích xây dựng và phát triển chính
phủ điện tử.
- Nâng cao hiểu biết , nhận thức, trách nhiệm và năng lực xây dựng CPĐT cho cán bộ, công chức, viên chức.
- Nâng cao hiểu biết và khả năng khai thác các lợi ích mà CPĐT đem lại cho người dân, doanh nghiệp.
- Tổ chức đào tạo cán bộ lãnh đạo thông tin đủ khả năng tập hợp lực lượng, tổ chức thực hiện thành công các dự
án CPĐT, ứng dụng CNTT&TT trong các cơ quan CP.
- Tổ chức giảng dạy về CPĐT trong các trường đào tạo cán bộ chuyên ngành quản lý hành chính nhà nước như
1 môn học chính khóa.
b. Kiện toàn tổ chức, quản lý và điều hành
- Kiện toàn công tác quản lý các hoạt động ứng dụng CNTT
+

Tập trung vào đầu mối chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn thực hiện các chương trình, đề án, dự án và các hoạt
động ứng dụng CNTT trong các cơ quan của CP theo 1 kế hoạch tổng thể và thống nhất.
+ Các dự án ứng dụng CNTT thuộc bộ, ngành, địa phương do các bộ, ngành, địa phương chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện và quản lý.
- Thành lập ban điều phối quốc gia về CPĐT


-

Tăng cường vai trò quản lý của NN
Kiện toàn đầu mối quản lý công nghệ thông tin tại các bộ, ngành
Kiện toàn đầu mối quản lý công nghệ thông tin tại các địa phương

c. Phát triển nguồn tài chính to lớn từ các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Huy động tối đa các nguồn vốn khác nhau để xây dựng và phát triển CPĐT
- Cân đối kinh phí để đảm bảo thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm, và xây dựng cơ sở hạ tầng của
CPĐT.

d. Điều chỉnh các văn bản quy định
- Điều chỉnh và bổ sung các văn bản QPPL, chính sách liên quan phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt nam là phải thực hiện những bước đi hợp lý, thực hiện những biện pháp
cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo của Chính phủ điện tử. Để thực hiện được
điều này, Việt Nam cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông,
xây dựng và có kế hoạch quản lý chặt chẽ đề án Chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâm lý trong Chính
phủ và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp dân chúng về Chính phủ điện tử. Những
nhiem vụ trên được rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước đi trước và tình hình thực tế của Việt Nam.
Câu 11: chưa lm dk. : những tác động của CPĐT đối với hoạt động thương mại của 1 quốc gia? Liên hệ
thực tiễn?
CPĐT quản lý nhà nước về hoạt động thương mại.
Câu 12: Nêu hiểu biết về dịch vụ công trực tuyến? liên hệ thực tiễn?
Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp
cho tổ chức,cá nhân trên môi trường mạng.
Mô hình 4 mức độ phát triển của các dịch vụ công trực tuyến được áp dụng đối với chính phủ điện tử tại Việt
Nam bao gồm:
Mức độ 1: cổng thông tin diện tử có đầy đủ thông tin về quy trình thủ tục thực hiện dịch vụ, các giấy tờ cần
thiết,các bước tiến hành,thời gian thực hiện, chi phí thực hiện dịch vụ.
Mức độ 2: ngoài thông tin đầy đủ như mức độ 1 cổng thông tin điện tử cho phép người sử dụng tải về các mẫu
đơn, hồ sơ để người sử dụng có thể in ra giấy, hoặc điền vào mẫu đơn.
Mức độ 3: ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1 và các mẫu đơn, hồ sơ cho phéo tải về như ở mức độ 2, cổng
thông tin điện tử cho phép người sử dụng điền trực tiếp vào các mẫu đơn, hồ sơ, và gửi trực tiếp các mẫu đơn,
hồ sơ sau khi điền xong tới cơ quan và người thụ lý hồ sơ. Các giao dịch trong quá trình thụ lý hồ sơ và cung
cấp dịch vụ được thực hiện qua mạng.
Mức độ 4: ngoài thông tin đầy đủ như ở mức độ 1, các mẫu đơn, hồ sơ cho phép tải về nư ở mức độ 2, gửi trực
tiếp hồ sơ và thực hiện các giao dịch qua mạng như ở mức độ 3, việc thanh toán chi phí sẽ được thực hiện trực
tuyến, việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến hoặc gửi qua đường bưu điện.


Cục Ứng dụng CNTT, Bộ TT&TT vừa tiến hành điều tra, khảo sát về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mức độ ứng dụng

CNTT, hiệu quả ứng dụng CNTT tại các doanh nghiệp trên địa bàn cả nước năm 2012.
Kết quả cho thấy, trong số các dịch vụ công trực tuyến đang được cung cấp cho doanh nghiệp, những dịch vụ
được sử dụng nhiều nhất là dịch vụ đăng ký kê khai thuế trực tuyến, đăng ký kinh doanh trực tuyến, đăng ký kê
khai thuế trực tuyến, đăng ký khai báo hải quan từ xa và đấu thầu trực tuyến.
Chương trình triển khai dịch vụ công trực tuyến của Tổng cụ thủy sản được triển khai theo 4 mức độ trên và
tính theo thời điểm hiện tại, Tổng cục đã cung cấp các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và 3.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp hoàn toàn không biết đến dịch vụ công trực tuyến. Cụ thể, có tới
17,4% doanh nghiệp được hỏi không biết đến dịch vụ đăng ký kinh doanh trực tuyến, 7,93% doanh nghiệp
không nằm thông tin về dịch vụ đăng ký kê khai thuế trực tuyến, 22,5% doanh nghiệp không biết có dịch vụ
đăng ký khai báo hải quan từ xa và 25,94% doanh nghiệp không có thông tin về đấu thầu trực tuyến.
Dịch vụ có số doanh nghiệp không sử dụng nhiều nhất là đấu thầu trực tuyến (59,26%), tiếp đến là đăng ký khai
báo hải quan từ xa (57,24%), đăng ký kinh doanh trực tuyến (50%) và đăng ký kê khai thuế trực tuyến
(22,68%).
Khảo sát về ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp cũng cho thấy khá nhiều thông tin đáng chú ý khác. Chẳng
hạn, về ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý, điều hành, thì phần mềm quản trị nguồn lực doanh nghiệp
(ERP) và phần mềm quản lý quan hệ khách hàng (CRM) có số lượng doanh nghiệp sử dụng ít nhất.
Ngoài ra, 82,66% doanh nghiệp được hỏi đã có trang thông tin điện tử (website), 50% trong số đó đã đưa mục
thu thập thông tin khách hàng lên website như 1 kênh thông tin mới, nhưng số lượng doanh nghiệp đưa dịch vụ
hỗ trợ khách hàng qua mạng lên website lại chỉ bằng ¼ so với năm trước đó.
Quy mô điều tra hiện trạng ứng dụng CNTT nêu trên bao gồm các doanh nghiệp thuộc đa dạng các loại hình sở
hữu như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngành nghề
kinh doanh của các doanh nghiệp đa dạng, chủ yếu là CNTT, viễn thông, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, y tế,
giáo dục, xây dựng và dịch vụ. Kết quả khảo sát vừa được Cục Ứng dụng CNTT công bố trong Báo cáo Ứng
dụng CNTT năm 2012
Số liệu thống kê trong Sách Trắng CNTT-TT Việt Nam năm 2012 cho thấy cả nước đã có 9.800 dịch vụ công
trực tuyến được cung cấp ở mức độ 1 và 2 (công bố thủ tục và form mẫu, người dân có thể tải form mẫu hồ sơ
thủ tục về điền); 860 dịch vụ công trực tuyến mức 3 (người dân có thể tải form mẫu và nộp hồ sơ qua mạng) và
11 dịch vụ cấp 4 (mọi hồ sơ được gửi và trả qua mạng, người dân không cần đến tận cơ quan Nhà nước). Có thể
thấy số lượng các dịch vụ công trực tuyến tại Việt Nam đã phát triển rất mạnh.
Thế nhưng, theo một khảo sát do Cục Ứng dụng CNTT - Bộ TT&TT tiến hành năm 2011 về mức độ người dân

tham gia các hoạt động dịch vụ công trực tuyến thì những con số thống kê thu được không mấy khả quan. Theo
ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Ứng dụng CNTT, có tới gần 60% người dân nói rằng chưa từng sử
dụng dịch vụ công trực tuyến.
Trong các nguyên nhân dẫn tới hiện trạng ít người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đáng lưu ý nhất là sự
thiếu hiểu biết của người dân về vấn đề này. "Có tới 25% người dân tham gia khảo sát của Cục Ứng dụng
CNTT nói rằng không biết có dịch vụ công trực tuyến. Nhiều người khác không biết phải tìm các dịch vụ công
trực tuyến ở đâu, chỉ nghe mang máng là có dịch vụ như thế. Và cũng không ít người vẫn lo ngại cho sự an toàn


của hồ sơ gửi trên mạng, chẳng hạn gửi cả quyển sổ đỏ thì không biết người nhận xử lý thế nào" hay thiếu thốn
về trang thiêt bị tin học
Nhận thức rất rõ vai trò của người dân trong việc triển khai hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến nói riêng và
triển khai Chính phủ điện tử nói chung, một số địa phương đã mạnh dạn đi tiên phong trong việc hình thành
công dân điện tử.
Điển hình như tại Trà Vinh, “may mắn” được chọn là 1 trong 3 địa phương thí điểm triển khai dự án của Quỹ
Bill & Melinda Gates, tỉnh này đã tổ chức đào tạo CNTT-TT cho 1.800 nông dân gồm nông dân sản xuất giỏi,
những người có uy tín ở xóm, ấp, những người có khả năng truyền đạt lại cho người khác.
Cũng tại Trà Vinh, Sở TT&TT còn triển khai dự án đầu tư máy tính cho hơn 33 điểm ở các hợp tác xã, những
vùng có khu vực nuôi trồng thủy sản tập trung, làng nghề truyền thống làm ăn tốt... Trong tháng 6 vừa rồi đã
đào tạo cho hơn 500 người thuộc các thành phần nông dân, đoàn thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh...
Một gương điển hình tiên phong khác là Cần Thơ. Theo lời của Giám đốc Sở TT&TT Nguyễn Trung Nhân, Cần
Thơ đang phối hợp với Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) triển khai các xe lưu động trang bị 20 máy tính
để đào tạo sử dụng Internet cho nông dân, phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh,... Đây là động thái tích cực để
dần từng bước đào tạo các công dân điện tử. Mặt khác, Sở TT&TT Cần Thơ cũng đã xây dựng xong đề án hỗ
trợ người dân tham gia Chính phủ điện tử thông qua hệ thống Internet, trong đó có hướng dẫn các điểm cung
cấp dịch vụ Internet công cộng hỗ trợ người dân truy cập dịch vụ công trực tuyến, chẳng hạn như chỉ rõ cách
thức điền các biểu mẫu hồ sơ trên mạng...
Thời gian qua, nhiều đơn vị trên địa bàn TP Hà Nội đã áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 (điền và gửi
trực tuyến các mẫu văn bản qua internet) nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại cho tổ chức, công dân.
Câu 13.Nêu hiểu biết về dịch vụ công trực tuyến (câu 12)? Phân tích những khó khăn thách thức trong

việc triển khai dịch vụ công tực tuyến ở Việt Nam?
Khó khăn:
+ Cơ chế xác nhận người dùng,nếu không kiểm tra được người đang sử dụng dịch vụ trực tuyến có phải là
người có nhu cầu tực sự hay không sẽ dẫn đến lãng phí thời gian của người thụ lý hồ sowkhi phải nhận các hồ
sơ không có thực.
+ Nếu không kiểm tra được rằng người có nhu cầu sử dụng dịch vụ cung cấp thông tin của họ có phải thông tin
thực hay không có thể dẫn đến việc cung cấp cho những người không đủ điều kiện nhận dịch vụ.
+ Thói quen và nhận thức của các cán bộ trong cơ quan cung cấp dịch vụ. Vì thế cần thay đổi thói quen và nhận
thức của cán bộ cần thời gian và những cơ chế chính sách về thưởng phạt hợp lý.
+ Thói quen và nhận thức của người sử dụng, tâm lý người dân chưa quen sử dụng giao dịch hành chính trên
môi trường mạng, nguyên nhân chính khiến dịch vụ công trực tuyến chưa thực sự phát huy hết hiệu quả là do có
quá ít "công dân điện tử". Việc người dân chưa có thói quen giao dịch hành chính qua internet nên chưa yên tâm
sử dụng dịch vụ là trở ngại lớn nhất hiện nay. Theo một khảo sát do Cục Ứng dụng CNTT - Bộ TT&TT tiến
hành năm 2011 về mức độ người dân tham gia các hoạt động dịch vụ công trực tuyến thì những con số thống kê
thu được không mấy khả quan. Theo ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Ứng dụng CNTT, có tới gần
60% người dân nói rằng chưa từng sử dụng dịch vụ công trực tuyến.


Trong các nguyên nhân dẫn tới hiện trạng ít người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đáng lưu ý nhất là sự
thiếu hiểu biết của người dân về vấn đề này. "Có tới 25% người dân tham gia khảo sát của Cục Ứng dụng
CNTT nói rằng không biết có dịch vụ công trực tuyến. Nhiều người khác không biết phải tìm các dịch vụ công
trực tuyến ở đâu, chỉ nghe mang máng là có dịch vụ như thế. Và cũng không ít người vẫn lo ngại cho sự an toàn
của hồ sơ gửi trên mạng, chẳng hạn gửi cả quyển sổ đỏ thì không biết người nhận xử lý thế nào" hay thiếu thốn
về trang thiêt bị tin học
+ Internet chưa sẵn sàng ở mọi lúc, mọi nơi ở Việt Nam, hệ thống mạng đôi khi còn chậm hoặc thông tin khai
báo của công dân, doanh nghiệp còn chưa chính xác, dẫn đến việc khó khăn trong quá trình thụ lý hồ sơ. Đặc
biệt, nhiều loại TTHC có thành phần hồ sơ phức tạp nên chưa thể áp dụng hoàn toàn trên môi trường mạng…
thủ tục liên quan đến lĩnh vực QH-KT có nhiều thông tin về giải trình, nhiều tài liệu đi kèm phải nộp trực tiếp
nên khó thực hiện hoàn toàn trên môi trường internet. Vì vậy triển khai các dịch vụ công trực tuyến trước hết ở
các thành phố lớn, nơi có trình độ dân trí tương đối phát triển, mật độ người sử dụng internet cao, sau khi thành

công sẽ rút kinh nghiệm để nhân rộng ở những nơi khác.
+ Chưa có khả năng thanh toán trực tuyến (ở mức đọ 4), mức độ an toàn, bảo mật đòi hỏi cao
Câu 14: Việc phát triển các hệ thống dịch vụ công điện tử tại việt Nam đang gặp những khó khăn gì.nêu
ra hướng khắc phục những khó khăn đó?
Khó khăn:
+ Cơ chế xác nhận người dùng,nếu không kiểm tra được người đang sử dụng dịch vụ trực tuyến có phải là
người có nhu cầu tực sự hay không sẽ dẫn đến lãng phí thời gian của người thụ lý hồ sowkhi phải nhận các hồ
sơ không có thực.
+ Nếu không kiểm tra được rằng người có nhu cầu sử dụng dịch vụ cung cấp thông tin của họ có phải thông tin
thực hay không có thể dẫn đến việc cung cấp cho những người không đủ điều kiện nhận dịch vụ.
Giải pháp:khi ở Việt Nam các cơ sở dữ liệu này có hoặc chưa hoàn chỉnh, trong giai đoạn trước mắt, để kiểm tra
tính trung thực của dũ liệu thì người sử dụng phải gửi bản sao của các giấy tờ như Chứng minh thư nhân dân,
Hộ khẩu để thụ lý hồ sơ kiểm tra như khi giải quyết các thủ tục bằng giấy tờ.
+ Thói quen và nhận thức của các cán bộ trong cơ quan cung cấp dịch vụ.
Giải pháp: cần thay đổi thói quen và nhận thức của cán bộ cần thời gian và những cơ chế chính sách về thưởng
phạt hợp lý.
+ Thói quen và nhận thức của người sử dụng, tâm lý người dân chưa quen sử dụng giao dịch hành chính trên
môi trường mạng, nguyên nhân chính khiến dịch vụ công điện tử chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, có quá ít
"công dân điện tử".
Giải pháp: cần có sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, cán bộ, tổ chức,… ttong việc tuyên truyền quảng
cáo cho các dịch vụ công điện tử.
+ Internet chưa sẵn sàng ở mọi lúc, mọi nơi ở Việt Nam
Giải pháp: triển khai các dịch vụ công điện tử trước hết ở các thành phố lớn, nơi có trình độ dân trí tương đối
phát triển, mật độ người sử dụng internet cao, sau khi thành công sẽ rút kinh nghiệm để nhân rộng ở những nơi
khác.


Câu 15: Mô tả các dịch vụ công trực tuyến ở việt nam mà anh chị biết? theo anh chị, những dịch vụ công
này đã đáp ứng được yêu cầu của chính phủ điện tử hay chưa?vì sao?
Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp

cho tổ chức,cá nhân trên môi trường mạng.
Thời gian qua, nhiều đơn vị trên địa bàn TP Hà Nội đã áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 (điền và gửi
trực tuyến các mẫu văn bản qua internet). Cơ chế một cửa quốc gia là một hệ thống tích hợp gồm Cổng thông
tin Hải quan một cửa quốc gia, hệ thống thông quan của cơ quan Hải quan, các hệ thống cấp phép của Bộ Công
Thương, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) và một số Bộ khác. Cơ chế một cửa quốc gia đã được chính thức khai
trương ngày 12/11/2014. hệ thống CNTT của Bộ GTVT phục vụ thí điểm cơ chế một cửa quốc gia (hệ thống
MT Gateway) do Công ty CP Công nghệ Hanel DTT xây dựng, đã hoàn thành phân hệ dịch vụ công trực tuyến
cho các thủ tục thuộc phạm vi hàng hải, gồm 3 thủ tục: nhập cảnh, xuất cảnh và quá cảnh tàu biển kết nối với hệ
thống một cửa quốc gia.
Ba dịch vụ công trực tuyến mức 4 lĩnh vực Đăng kiểm vừa được kết nối tham gia cơ chế một cửa quốc gia gồm
có: Cấp giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật yvà bảo vệ môi trường xe máy chuyên dùng nhập khẩu;
Cấp giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe mô tô, xe gắn máy nhập khẩu và
động cơ nhập khẩu sử dụng để sản xuất, lắp ráp xe mô tô, xe gắn máy; Cấp giấy chứng nhận chất lượng an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu.
Hầu hết tất cả các dịch vụ công trực tuyến của Bộ đều được cung cấp trực tuyến ở mức độ I, II và III, được đăng
tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Điển hình như hệ thống đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biểu) của Cục
Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm chính thức đi vào hoạt động từ ngày 19/3/2012 đến nay đã tạo một bước
ngoặt quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính. Phần mềm đăng ký trực tuyến mạng lại cho người yêu
cầu đăng ký những tính năng ưu việt như: Tự đăng ký trực tuyến, tự tra cứu thông tin miễn phí, nhanh chóng
trong 03 giây; Giao diện đăng ký được thiết kế đơn giản, dễ thao tác; Việc đăng ký được thực hiện trong suốt
24/24 giờ mà không phụ thuộc vào giờ làm việc của các Trung tâm đăng ký. Phần mềm mang đến những tính
năng tiện ích lớn nhất là công khai và minh bạch hóa tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, tiết kiệm thời gian,
công sức, chi phí cũng như tạo điều kiện tối đa cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu thông tin được kịp
thời, nhanh chóng. Hiện nay, hệ thống đăng ký trực tuyến đã triển khai ở cấp độ III về cung cấp dịch vụ công
trực tuyến như:
Đăng ký kinh doanh qua điện tử: gồm tạo hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, kê khai thông
tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp( nhập các thông tin trong hồ sơ và kiểm tra các thông tin), tải văn bản
điện tử của bộ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, ký số/ xác thực hồ sơ đăng ký, thanh toán điện tử,
sửa đổi bổ sung hồ sơ trong trường hợp cần sửa đổi bổ sung.

NHư vậy ta thấy các dịch vụ công trực tuyến đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của chính phủ điện tử với mục
tiêu đưa chính phủ tới người dân, và dân gần vs cphu, giúp hoạt động của chính phủ hoạt động có hiệu quả
trong quản lý và phục vụ dân, tạo môi trường kinh doanh tốt hơn, khách hàng trực tuyến…
Câu 16 : Thế nào là dịch vụ công trực tuyến ?Kể tên một số dvc trực tuyến ở VN ? Một số dvc trực
tuyến cấp độ 3,4 ở VN ?
a. Dịch vụ công trực tuyến


Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp
cho tổ chức, các nhân trên môi trường mạng.
Tại điều 3, Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/07/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông nêu rõ quy
định các mức độ dịch vụ công trực tuyến của cơ quan hành chính nhà nước cung cấp cho tổ chức, cá nhân trên
môi trường mạng bao gồm:
Mức 1: là dịch vụ công trực tuyến đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin về quy trình, thủ tục, hồ sơ, thời hạn,
phí và lệ phí thực hiện dịch vụ.
Mức 2: là dịch vụ công trực tuyến mức 1và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn
thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi được hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ
quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Mức 3: là dịch vụ công trực tuyến ở mức 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản
đến các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí( nếu
có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Mức 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí(nếu có ) được thực
hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện cho
người sử dụng.

b. Một số dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.
- Làm chứng minh thư nhân dân.
- Đăng kí kinh doanh
- Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch
- Cấp giấy phép lái xe

- Khiếu nại tố cáo
- Cấp giấy phép xây dựng
- Đà Nẵng và TP.Hồ Chí Minh là 2 địa phương đi đầu trong cả nước trong việc triển khai dịch vụ công trực
tuyến, đặc biệt là dịch vụ công ở mức độ 4 với mức độ sử dụng và hài lòng cao của người dân và doanh nghiệp.
c.Một số dịch vụ công cấp độ 3,4 ở Việt Nam
*Cấp độ 3 :
-Thủ tục đăng ký tàu biển
-Cấp giấy phép về xây dựng, văn hóa, lao động, hộ tịch, khai sinh,chứng tử… ở TP HCM
*Cấp độ 4 :
-Cục Thuế Hà Nội đã triển khai dịch vụ công là nộp thuế qua mạng cấp độ 4


-Bộ Y tế cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4
Theo đó, dịch vụ này cho phép người dân, doanh nghiệp, cán bộ thực hiện tất cả các khâu của thủ tục hành
chính như nộp tiền, xử lý hồ sơ... hoàn toàn trên internet.
-Ở sở Thông tin và Truyền thông TP.Hồ Chí Minh
Chấp thuận hội thảo ,họp báo
Cấp phép Nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh
Cấp phép Trang thông tin điện tử tổng hợp trên internet
- Hướng đến năm 2015, CQNN cung cấp hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến tối thiểu mức độ 3 tới
người dân và doanh nghiệp; cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ
chức cung cấp dịch vụ.

Câu 17:Phân tích những yếu tố cấu thành CPĐT ?Liên hệ thực tế ?
Thực chất, CPĐT bao gồm 3 thành tố chủ yếu:
1. Các dịch vụ công: CP tập trung vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ, cung cấp cho các đối tác
liên quan như doanh nghiệp, người dân, các tổ chức phi CP. Điều đó được thực hiện thông qua các kênh khác
nhau. Đây là một hình thức giao dịch khác ngoài những hình thức đang tồn tại hiện nay là gặp trực tiếp (face to
face), chẳng hạn qua Internet, các ki-ốt (trạm giao dịch điện tử) và thậm chí qua điện thoại di động. Mục đích là
để tạo thuận lợi cho khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ của CP mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ, một công dân có

thể đăng ký làm hộ chiếu và gửi ảnh qua Internet.
2. Tiếp cận thông tin: CP phải mở rộng việc kết nối với các đối tác liên quan. Họ có thể kết nối vào hệ thống
thông tin của CP thông qua Internet và qua các ki-ốt. Mọi người không phải tới các cơ quan quản lý nhà nước
để lấy thông tin. Thay vào đó, người ta sẽ tiếp cận thông tin theo phương thức tự phục vụ. CPĐT giúp những
người quản lý có trách nhiệm hơn vì tính minh bạch cao hơn; giảm thiểu những gì không hiệu quả và tệ quan
liêu. Một trong những thách thức lớn nhất đối với các CP là tổ chức lại quy trình hoạt động hiện tại để khai thác
các lợi ích của CNTT-TT. Đồng thời, CP phải xem xét và cải tổ lại chính sách hành chính, đào tạo lại cán bộ
nhà nước về CNTT và kỹ năng hành chính công mới.
3. Sự tương tác giữa chính phủ và công chúng: CNTT sẽ làm cho CP quản lý cởi mở và dễ tiếp cận hơn bằng
việc cho phép công chúng cùng tham gia vào các công việc của các cơ quan nhà nước. CPĐT cũng tạo thêm cơ
hội phát triển cho các đối tác liên quan, đặc biệt là cộng đồng người nghèo ở những nước kém phát triển hay
những người ở nông thôn. Nhờ hiệu quả của CNTT-TT, CP có thể vươn tới cả những đối tượng ở khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa.
Các cụm từ liên quan đến CPĐT như G2G, G2B... là các cụm từ chung để xác định cơ hội về CNTT-TT trong
CPĐT. Tuy nhiên, các cụm từ này cũng có khi gây ra sự hiểu lầm trong người dân rằng CPĐT đơn thuần chỉ là
CNTT-TT. Ở đây, cần hiểu G2G (Government to Government) nghĩa là nâng cao sự phối hợp và giao dịch giữa
các cơ quan nhà nước với nhau; G2E (Government to Employees) là sử dụng CNTT để xử lý thông tin và nâng
cao hiệu quả làm việc của cán bộ nhà nước; G2B (Governemnt to Business) là cung cấp những thông tin trực


tuyến và các dịch vụ điện tử cho doanh nghiệp; G2C (Government to Citizens) nghĩa là cung cấp thông tin trực
tuyến và dịch vụ cho người dân.

Câu 18 :Yêu cầu về hạ tầng công nghệ trong quá trình xây dựng CPĐT ?
Hạ tầng công nghệ bao gồm :CNTT-TT, công nghệ Internet,công nghệ điện tử (CNĐT),tiêu chuẩn công nghệ .
- CNĐT và công nghệ viễn thông (CNVT): là hai điều kiện tiên quyết để thực hiện CPĐT.Hạ tầng CNTT bao
gồm phần cứng ,phần mềm ,các dịch vụ để áp dụng và phát triển CPĐT nhằm mang lại hiệu quả kinh tế
Hạ tầng CNVT đòi hỏi công nghệ cao,dung lượng lớn ,liên kết các mạng viễn thông quốc gia ,kết nối trực tiếp
với đường truyền quốc tế với nhiều loại hình dịch vụ viễn thông với chất lượng dịch vụ cao và giá thành hợp lí
.

- Công nghệ Internet: được xem là hết sức quan trọng trong tổng thể chiến lược phát triển CPĐT. Việt nam
đang có nhiều thuận lợi cho phát triển CPĐT: các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động Internet và dịch vụ
thông qua mạng Internet ở Việt Nam đang ngày một hoàn thiện. Ngày càng nhiều doanh nghiệp được cấp phép
và đi vào kinh doanh dịch vụ Internet và cung cấp đường truyền Internet. Ngày càng có nhiều thông tin và dịch
vụ bằng tiếng việt được đưa lên mạng Internet. Nhiều công nghệ mới cho phép Internet đạt tốc độ cao và cho
phép truyền tải các dịch vụ với nội dung vô cùng phong phú, đa dạng.
Để phát triển Internet bên canh việc xây dựng cơ sở hạ tầng Internet hiện đại phải nhanh chóng phổ cập
Internet cơ bản, cách thức sử dụng Internet cụ thể và thiết thực cho việc tìm kiếm, thu thập thông tin bổ trợ
cho việc học tập, kinh doanh, chăm lo sức khoẻ và khai thác được tài nguyên tri thức trên Internet của cả thế
giới với chi phí thấp nhất. Truy cập Internet tốc độ cao và cả Internet di động sẽ được tăng tốc độ truy cập
trong thời gian tới.
- Tiêu chuẩn công nghệ: Muốn hội nhập được với thế giới, một mặt cần xây dựng các chuẩn quốc gia, mặt
khác cần thừa nhận và áp dụng các chuẩn của thế giới.Cần tuân thủ các chuẩn trong việc thanh toán, vận
chuyển, hải quan, tài chính, trao đổi dữ liệu điện tử, trong khu vực toàn cầu.
- Công nghệ điện tử(CNĐT): giúp cho việc chủ động sản xuất các linh kiện, phụ kiện và thiết bị cần thiết cho
CNTT, viễn
Câu 19 :Yêu cầu về nguồn nhân lực trog quá trình xây dựng CPĐT ?Liên hệ thực tế ?
a

Các yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực trong hoạt động của Chính phủ điện tử:
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng, có tính chất quyết định đến sự thành bại trong hoạt động của
Chính phủ điện tử, chính vì vậy các thành viên tham gia Chính phủ điện tử cần có kiến thức và kỹ năng sử
dụng máy tính và sử dụng mạng. Họ phải có những hiểu biết cần thiết về các luật: giao dịch điện tử, thanh
toán điện tử, kinh tế thương mại và ngoại ngữ. Phải xây dựng đội ngũ chuyên gia gia, tiếp cận, hiểu biết và phát
triển những công nghệ tiên tiến trên thế giới:



Nguồn nhân lực Công nghệ thông tin có chất lượng cao.
Trong hoạt động của Chính phủ điện tử, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực công nghệ thông tin đầy đủ trình độ

và kỹ năng để tư vấn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng các chủ trương, chính
sách ứng dụng CNTT, xây dựng các văn bản hướng dẫn về xây dựng hệ thống CNTT, quản lý, chia sẻ tài
nguyên, dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước

-

Yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ công chức là sự năng động, nhạy bén trong ứng dụng công nghệ thông
tin để quá trình này được tiến hành nhanh và hiệu quả hơn.
- Yêu cầu về thay đổi nhận thức:
Trong công tác ứng dụng CNTT phục vụ Cải cách hành chính..... cần phải giải thích cho họ vì sao cần thay
đổi, đặc biệt là trong chương trình triển khai Chính phủ điện tử..


-

Đào tạo và thay đổi các kỹ năng cho nhân viên Chính phủ. Đào tạo là công việc quan trọng để giúp nhân
viên làm quen với các kỹ năng mới cần thiết cho CPĐT. Các khóa học như hành chính công hiện đại, thay đổi
quy trình nghiệp vụ, thay đổi cách quản lý , CNTT-TT và CPĐT... rất quan trọng trong việc tiến tới CPĐT.
Một nền hành chính hiện đại không có chỗ cho sự trì trệ, thụ động trong bộ máy hành chính nhà nước, mà đòi
hỏi bản thân mỗi cán bộ công chức phải thể hiện tư duy năng động để thích ứng kịp thời với những tiến bộ
không ngừng của công nghệ cũng như những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội vì vậy đội ngũ cán bộ công chức
cần ý thức rõ về vấn đề trách nhiệm, nâng cao trình độ năng lực để kịp thời thích ứng với yêu cầu mới đặt ra.
b

Liên hệ thực tế.

Trong quá trinh xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử Việt Nam thì thực trạng nguồn nhân lực CNTT
“Thừa vẫn thừa, thiếu vừa thiếu”… Đó là chưa nói có cả yếu.Thừa, do không bố trí được công việc phù hợp.
Thiếu do không tìm được con người cho một vị trí, cho một yêu cầu cụ thể. Và yếu là yếu về kỹ năng, đặc biệt
là yếu về ngoại ngữ.

Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho nguồn nhân lực trong hoạt động của Chính phủ điện tử Việt Nam là nguồn
nhân lực phải được đào tạo để sẵn sàng vận hành Chính phủ điện tử tại mỗi địa phương và cả nước
Triển khai CPĐT phải cân nhắc việc hiện đại hóa và cải cách hành chính CP. Việc phân định rõ ràng
quyền và trách nhiệm của từng ban ngành trong CP để tránh sự chồng chéo là một trong những cải cách. Cần
cải cách để loại bỏ các thói quen làm việc và tư tưởng cố hữu trong quan chức CP.Bên cạnh đó chất lược đầu
vào cũng rất quan trong nên phải nâng cao chất lượng công tác thi tuyển công chức theo phương thức cạnh
tranh.
Nâng cao số lượng, trình độ các cán bộ chuyên trách về CNTT nhiều nơi, đặc biệt là cấp huyện tại các địa
phương.

Câu 20 :Hiểu biết về cổng thông tin điện tử ?Liên hệ thực tiễn?
a Hiểu biết về Cổng thông tin điện tử:
• Khái niệm:

+ Cổng thông tin điện tử - Portal là một thuật ngữ tin học xuất hiện từ năm 1998. Cổng thông tin điện tử là một
trang web mà người sử dụng có thể dễ dàng truy cập các trang web và các dịch vụ thông tin khác trên mạng
máy tính.
+Cổng thông tin điện tử là địa chỉ tổng hợp các ứng dụng của một tổ chức như thư điện tử, chia sẻ tài liệu, lịch
công tác thông qua giao diện Web. Đây là mô hình tổng hợp nhiều chức năng, ngày càng được ưa chuộng vì sự
đa dạng cũng như ưu điểm mà nó mang lại.
• Phân loại:
1.Cổng thông tin công cộng:
Yahoo, loại cổng thông tin này được sử dụng để ghép nối các thông tin lại với nhau từ nhiều nguồn, nhiều ứng
dụng và từ nhiều người, cho phép cá nhân hoá các web theo tuỳ từng đối tượng sử dụng.
2.Cổng thông tin doanh nghiệp:
được xây dựng để cho phép các thành viên của doanh nghiệp sử dụng và tương tác trên các thông tin và ứng
dụng nghiệp vụ tác nghiệp của doanh nghiệp.
3 Cổng giao dịch điện tử:
ví dụ như eBay và ChemWeb, cổng thông tin này là nơi liên kết giữa người bán và người mua.
4.Cổng thông tin ứng dụng chuyên biệt: ví dụ như SAP portal, cổng thông tin loại này cung cấp các ứng dụng

chuyên biệt khác nhau.
• Tính năng:
Cổng thông tin điện tử có một số tính năng sau:


Khả năng cá nhân hoá: cho phép cài đặt các thông tin khác nhau cho các loại đối tượng sử dụng khác
nhau theo yêu cầu.
Tích hợp nhiều loại thông tin: cho phép xây dựng nội dung thông tin từ nhiều nguồn khác nhau cho
nhiều đối tượng sử dụng.
Sao lưu thông tin: thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, cung cấp cho người dùng thông qua
các phương pháp thích hợp.
Hỗ trợ nhiều môi trường hiển thị thông tin: cho phép hiển thị cùng một nội dung thông tin trên nhiều
loại thiết bị khác nhau như: máy tính, thiết bị di động, sử dụng cho bản fax…. một cách tự động
Khả năng bảo mật và đăng nhập một lần: cho phép dịch vụ xuất bản thông tin hoặc các dịch vụ khác
của portal lấy thông tin về người dùng khi hoạt động mà không phải yêu cầu người dùng phải đăng nhập lại.
Quản trị portal: xác định cách thức hiển thị thông tin cho người dùng cuối.
Quản trị người dùng: cung cấp các khả năng quản trị tuỳ thuộc vào đối tượng sử dụng của portal. Tại
đây, người sử dụng có thể tự đăng ký trở thành thành viên tại một công thông tin công cộng (như Yahoo,
MSN…).
• ưu điểm:
Truy cập đơn giản.
Đảm bảo khả năng bảo mật đối với dữ liệu và các chương trình ứng dụng cho người dùng.
Khả năng giao tiếp cao cấp, tự động và riêng tư.
Cho phép tuy cập dễ dàng nhiều dịch vụ Internet trên cùng một trang chủ.
Được sử dụng miến phí một số ứng dụng do cổng thông tin điện tử cung cấp như: công cụ tìm kiếm, thư
điện tử, dịch vụ nhắn tin, phòng chát và các diễn đàn.
Giúp người dùng có thể tận dụng tối đa những tài nguyên có sẵn, nâng cao giá trị của thông tin.
Người dùng có thể thực hiện không hạn chế các chức năng, ứng dụng được cung cấp tại cổng thông tin
điện tử.
• hạn chế:

Hạn chế lớn nhất của Cổng thông tin điện tử đó là việc xây dựng một Cổng thông tin điện tử thực thụ là
việc rất khó, do:
Việc xây dựng một cổng thông tin đòi hỏi đầu tư lớn.
Công tác quản lý cần phải có sự chuyên nghiệp hơn các mô hình khác.
b Liên hệ thực tế:
1.Đây là một mô hình tổng hợp nhiều chức năng và ngày nay càng được ưa chuộng vì sự đa dạng
cũng như ưa điểm nổi trội của nó. Vì thế ở Việt nam, việc sử dụng cổng thông tin điện tử không còn xa lạ nữa,
mà nó gắn liền với các hoạt động của đời sống.
2.Ngày nay, do nhu cầu của mỗi ngành, nghề lĩnh vực là khác nhau, nên việc xây dựng cổng thông tin
điện tử cũng có sự khác nhau. Các chuyên gia của các lĩnh vực khác nhau sẽ xây dựng riêng cho mình một
cổng thông tin điện tử phục vu duy nhất cho một lĩnh vực mà mình quan tâm. Chính vì thế mà hàng loạt cổng
thông tin chuyên môn được ra đời.
3.Trong khu vực nhà nước, các cổng thông tin điện tử được xây dựng phục vụ riêng cho một chính
phủ, cho tỉnh, thành phố, bộ hay ban ngành,…, nhất định. Trong đó, ngoài vai trò như một trang thông tin
trực tuyến, nơi đây còn có đầy đủ các sở ban ngành, cổng thông tin điện tử sẽ cho phép người dân làm nhưng
việc như đăng ký kinh doanh qua mạng, nộp thuế,… và có thể thực hiện được các giao dịch, dịch vụ hành
chính khác theo nhu cầu của mình. Mọi đối tượng để có thể tìm kiếm và khai thác thông tin đa dạng một các
dễ dàng, qua một giao diện thống nhất. ví dụ như một số cổng thông tin điện tử sau:
- Cổng thông tin điện tử Chính phủ .
- Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế .
- Cổng thông tin điện tử Bộ Xây dựng .
- Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp .
- Cổng giao tiếp điện tử TP Hà nội .
4.Trong khu vực tư nhân, đặc biệt là các tập đoàn, doanh nghiệp. Họ cũng tạo ra cho mình mô hình
riêng phục vụ cho việc kinh doanh của doanh nghiệp mình. Cổng thông tin điện tử có thể hỗ trợ hộ trong
việc giải quyết công việc, truyền thông và tương tác giữa các cá nhân, bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp. các
ứng dụng đa dạng của cổng thông tin điện tử là một công cụ không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong


thời đại CNTT là chìa khóa thành công, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có nhiều bộ phận phân bố trong

một không gian rộng. Cổng thông tin điện tử còn cung cấp một công cụ giao tiếp hữu hiệu với bên ngoài
doanh nghiệp về việc thực hiện các giao dịch với khách hàng, với đối tác hay với nhà nước. ví dụ như một
số cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp Việt Nam:
Cổng thông tin doanh nghiệp Việt Nam .
Tập đoàn điện lực Việt Nam: .
Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel: .
Tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt nam: .
22. Xây dựng Chính phủ điện tử, tại sao phải quan tâm đến vấn đề an toàn và bảo mật thông tin? Hãy lấy
ví dụ một hoặc vài trường hợp cụ thể.
1. Hiểm họa về mất an toàn thông tin (ATTT)
- Các hoạt động tin tặc liên tục tăng;
- Mức độ nguy hiểm ngày một gia tăng, tính tự động ngày càng cao;
- Đa dạng về kiểu tấn công;
- Xu hướng tấn công vào các tổ chức tài chính, ngân hàng, các cơ quan chính phủ.
2. Tầm quan trọng của bảo mật thông tin
Hệ thống thông tin là thành phần thiết yếu trong mọi cơ quan, tổ chức, đem lại khả năng xử lý thông tin, nhưng
hệ thống thông tin cũng chứa rất nhiều điểm yếu. Do máy tính được phát triển với tốc độ rất nhanh để đáp ứng
nhiều yêu cầu của người dùng, các phiên bản được phát hành liên tục với các tính năng mới được thêm vào
ngày càng nhiều, điều này làm cho các phần mềm không được kiểm tra kỹ trước khi phát hành và bên trong
chúng chứa rất nhiều lỗ hổng có thể dễ dàng bị lợi dụng. Thêm vào đó là việc phát triển của hệ thống mạng,
cũng như sự phân tán của hệ thống thông tin, làm cho người dùng truy cập thông tin dễ dàng hơn và tin tặc
cũng có nhiều mục tiêu tấn công dễ dàng hơn.
Song song với việc xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, đáp ứng nhu cầu của các cơ quan, tổ chức cần phải
bảo vệ hệ thống thông tin, đảm bảo cho hệ thống đó hoạt động ổn định và tin cậy. An toàn và bảo mật thông tin
là thiết yếu trong mọi cơ quan, tổ chức.
An toàn thông tin có ý nghĩa sống còn đối với CPĐT.
Theo hiệp hội an toàn máy tính quốc gia NCSA (National Computer Security Association) vấn đề an toàn
CPĐT gồm các khía cạnh:
+ Tính xác thực: Trong giao thức TCP/IP, phương tiện để nhận diện một người sử dụng là mật mã. Các địa chỉ
IP có thể được lọc để phát hiện truy nhập trái phép, nhưng không thể nhận dạng khi một gói tin thực sự được

gửi từ một miền nhất định. Thông qua công nghệ gọi là sảo thuật IP, kẻ đột nhập có thể gửi một mẩu tin đến từ
một miền xác định nào đó, trong khi mẩu tin đó không có thật. Hoặc kẻ đột nhập có thể thay thế một tên miền
trên một tràn web và như vậy các lần truy nhập sau đó người dùng truy nhập với nội dung khác mà chúng đã
thay đổi.
+ Tính riêng tư: Các hành vi vi phạm tính riêng tư có thể xuất hiện trong và sau khi chuyển giao thông tin. Khi
một mẩu tin được nhận, người gửi phải đảm bảo rằng nội dung của mẩu tin đó hoàn toàn bí mật. Ở đây thuật
ngữ “nội dung” được hiểu theo nghĩa rộng nhất.


Ví dụ một người truy cập vào một tràn web, thì giao dịch được nghi lại. Bản nghi lại các thông tin ngày tháng,
thời gian, địa chỉ của người sử dụng và tên miền của trang trước mà người sử dụng vừa truy nhập. Nếu người sử
dụng đang truy cập vào trang web thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thì nhà cung cấp dịch vụ
Internet có thể giữ mọi trang mà người sử dụng vừa truy cập. Với cùng đặc điểm đó, nhiều trang web thương
mại sử dụng tính năng lưu dấu vết để lưu lại thông tin của người sử dụng (mặc dù hầu hết các trường hợp, việc
lưu dấu vết đựơc sử dụng hợp pháp). Tuy nhiên nhiều nhà quảng cáo đã sử dụng tính năng lưu dấu vết vô
nguyên tắc để theo dõi các thói quen của người sử dụng. Sự đe doạ lớn nhất đối với tính riên tư không phải là
các thông tin được lấy từ sự lừa lọc mà từ sự thoả hiệp trong việc tự do cung cấp thông tin của người sử dụng.
+ Tính trung thực: TCP/IP có vai trò truyền các gói dữ liệu trong văn bản thuần tuý. Vì các gói tin liên quan đến
một mẩu tin cụ thể thường được truyền khi chúng đi từ trạm đến máy chủ và ngược lại, do đó chúng rất dễ bị
nắm bắt và mô phỏng trong quá trình di chuyển.
Ví dụ kẻ đột nhập có thể mô phỏng địa chỉ mà ở đó các nội dung của trang web sẽ được đệ trình. Người sử dụng
điền đầy đủ thông tin về thẻ tín dụng của họ vào một mẩu khai báo và gửi đi mà không biết rằng thông tin đó sẽ
được chuyển sang máy chủ của kẻ đột nhập.
23. Hãy trình bày thực trạng Chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay?
Quá trình triển khai Chính phủ điện tử (CPĐT) ở nước ta đã kéo dài 15 năm nhưng cho đến nay các dịch vụ
công được đưa vào sử dụng mới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Để đánh giá việc triển khai CPĐT nhanh hay chậm,
chúng ta không thể nhìn nhận theo hướng chủ quan từ một phía mà phải dựa vào thực tế, từ sự tương quan của
Việt Nam trên bản đồ CNTT thế giới. Nhìn vào bản đồ này có thể thấy rằng thứ bậc CPĐT của Việt Nam đã
được cải thiện đáng kể trong các năm gần đây. Cụ thể, năm 2004 xếp thứ 112, năm 2005 xếp thứ 105 và năm
2008 tăng hẳn 16 bậc - vươn lên xếp hạng thứ 91.

Cho dù có nhiều dự án, nhiều chương trình chưa thành công hay chưa đạt được mục tiêu đặt ra, thì thực tế việc
ứng dụng CPĐT ở các bộ, ngành, các cấp ở địa phương vẫn đang tiến triển, vẫn đang đi lên và bước đầu cũng
đã đạt được một số kết quả nhất định. Đó là đã có tới 2/3 các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã triển khai họp giao ban
trực tuyến tới các đơn vị trực thuộc, trong khi đó con số này tại các tỉnh thành chỉ có 38%. Các dịch vụ hành
chính công đã dần được đưa lên các cổng thông tin điện tử. Hiện có gần một nửa tỉnh, thành phố đã triển khai
mô hình một cửa liên thông ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, sự nhích lên này vẫn chưa làm thỏa mãn nhu cầu
người dùng trong nước, những người luôn khát khao sớm có được các dịch vụ công trực tuyến nhiều hơn nữa.
• Rào cản và nguyên nhân trong quá trình triển khai CPĐT
+ Nhận thức
Việc thực hiện CPĐT đã được nhà nước lên giây cót từ rất lâu nhưng không phải có thể thực hiện trong một
sớm một chiều. Sở dĩ như vậy là bởi vì CPĐT trước hết là để mang lại lợi ích cho người dân được tiếp cận với
các dịch vụ công trực tuyến và giảm thiểu các thủ tục hành chính phức tạp. Vì vậy, để có thể tiếp cận các dịch
vụ của CPĐT thì người dân cũng cần phải có một trình độ hiểu biết nhất định về CNTT
+ Thiếu sự đồng thuận từ hệ thống hành chính công.
Sự thiếu đồng thuận từ hành chính công đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc triển khai chính phủ điện tử. Một
trong số đó là việc nền hành chính công thiếu sự đồng thuận, không thống nhất, còn nhiều ý kiến trái chiều
trong việc triển khai chính phủ điện tử.


+ Chiến lược và kế hoạch không đầy đủ.
Một trong những khó khăn trong việc ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước là tâm lý "chùng" xuống của
những người làm CNTT sau thất bại của Đề án 112. Mạng truyền số liệu chuyên dùng cho các cơ quan Đảng và
Nhà nước triển khai chậm và không đồng bộ gây ra lãng phí, đồng thời hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
ứng dụng CNTT đang đòi hỏi phải nhanh chóng bổ sung, như sớm ban hành quy chế đầu tư cho ứng dụng
CNTT, định mức kinh tế - kỹ thuật cho xây dựng phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu...
24. Anh/chị hãy phân tích những giải pháp để phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam?
CPĐT ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, vì vậy nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt Nam là phải thực hiện
những bước đi hợp lí, thực hiện các biện pháp cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng phát triển hơn nữa CPĐT
phục vụ nhân dân và xã hội. Để đạt được mục tiêu đó cần có những giải pháp để phát triển CPĐT như sau :
a. Đổi mới cách thức làm việc của chính phủ.

Ứng dụng G2G điện tử có mục đích cải tổ cách thức hoạt động nội bộ của Chính phủ nhằm tăng cường
hiệu quả.
xác.

Những hệ thống báo cáo của chính quyền trung ương và địa phương được kết nối, mang lại sự chính

Tạo ra việc chia sẻ thông tin giữa các cơ quan Chính phủ theo cách thức chia sẻ dữ liệu cơ sở. Điều này
sẽ mang lại hiệu quả.
-

Tạo ra việc chia sẻ sáng kiến và nguồn lực giữa các cơ quan Chính phủ.

-

Cộng tác trong việc đưa ra quyết định là khả thi thông qua hội nghị truyền hình.

Tài liệu số sử dụng trong các cơ quan Chính phủ và tiến đến một Chính phủ không cần giấy tờ là sáng
kiến của G2C. Thay đổi tài liệu sang hình thức tài liệu điện tử được hi vọng là sẽ mang lại một chính quyền
đáng tin cậy, an ninh và hiệu quả.
Hệ thống G2G yêu cầu phải đáp ứng các vấn đề sau:
-

Hình thành quy trình làm việc điện tử

-

Quy trình tài liệu điện tử

-


Hệ thống quản lý tri thức.

b. Đổi mới dịch vụ hành chính cho người dân (G2C) doanh nghiệp (G2B).
Dịch vụ G2C bao gồm việc phổ biến thông tin tới công chúng và các dịch vụ cơ bản dành cho người dân
trong khi G2B là bao gồm các dịch vụ giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp.
Các dịch vụ G2C điện tử hoặc liên quan đến công nghệ ICT tiêu biểu cho hệ thống chia sẻ thông tin rộng
lớn của Chính phủ và các ứng dụng mới dựa trên Internet là dịch vụ cho phép người dân truy nhập vào hệ thống
thông tin và các dịch vụ khác thông qua một cổng thông tin điện tử duy nhất. Những cổng thông tin điện tử như
thế này có thể cung cấp cho người dân các dịch vụ sau:
-

Xử lý và phát hành một loạt các giấy phép và chứng chỉ.


-

Thông tin pháp luật và hành chính

-

Các dịch vụ trả tiền, bao gồm hoàn thuế và các khoản phúc lợi xã hội

-

Cơ hội tham gia vào các cơ quan Chính phủ thông qua việc yêu cầu và bỏ phiếu điện tử

Để tạo một cổng chia sẻ hệ thống thông tin cho người dân và xã hội, hệ thống dữ liệu trong vấn đề dăng
ký cư trú, bất động sản, phương tiện giao thông, thuế và bảo hiểm cần phải được thống nhất.
Cung cấp hệ thống G2B điện tử cần một mẫu theo kiểu dịch vụ một cửa cho kinh doanh thương mại:
Hệ thống thủ tục điện tử hợp nhất. Ví dụ như hệ thống thủ tục hành chính một cửa bao gồm tất cả các

quy trình liên quan đến thủ tục hành như: đăng ký, bỏ thầu, hợp đồng và thanh toán đều được thực hiện thông
qua Internet.
Một hệ thống hải quan điện tử có thể sắp xếp hợp lý hóa hệ thống quản lý hải quan trong ngành công
nghiệp xuất – nhập khẩu và hình thành một hành lang chống buôn lậu hiệu quả.
-

Thương mại điện tử để hỗ trợ việc mua bán hàng hóa và dịch vụ trực tuyến.

c. Đổi mới quản lý nguồn thông tin:
Chính phủ tạo ra khối lượng lớn thông tin, mà hầu hết các thông tin đều có ích đối với cá nhân và doanh
nghiệp. Vì vậy, muốn quản lý nguồn thông tin của mình, cũng như có thể chuyền tải thông tin này nhanh chóng
hơn và trực tiếp tới công dân thì cần phải đổi mới trong quản lý nguồn thông tin như sau:
-

Phải có chiến lược để có thể có trong tin trực tuyến và thông tin phải phù hợp.

-

Cung cấp thông tin có ích cho người dân hàng ngày, chú ý tới ngôn ngữ địa phương.

Có quy định để mỗi công chức có trách nhiệm cung cấp thông tin trực tuyến của lĩnh vực mình chịu
trách nhiệm.
-

Thiết kế những trang Web dễ sử dụng, luôn cập nhật thông tin trên trang Web của Chính phủ.

Xây dựng một môi trường tin cậy lẫn nhau trong việc trao đổi thông tin giữa công dân và Chính phủ và
ngược lại.
d. Cải cách hệ thống pháp luật về Chính phủ điện tử
Cần phải đặt một kế hoạch về thời gian và nỗ lực trong việc thay đổi luật pháp để có thể đạt được sự ủng hộ

trong việc triển khai.
25. Hãy trình bày hướng dẫn (trình tự thực hiện, thủ tục hồ sơ, cơ sở pháp lý…), nộp hồ sơ, tra cứu hồ sơ
Thủ tục cấp công hàm nhập cảnh các nước cho cán bộ, công chức qua mạng. Liên hệ thực tế cho ví dụ tại
một địa phương cụ thể ở Việt Nam.
Theo CTT-ĐT tp Đà Nẵng – sở ngoại vụ tp Đà Nẵng www.danangcity.gov.vn việc hướng dẫn, nộp HS và tra
cứu HS thủ tục cấp công hàm nhập cảnh các nước cho cán bộ, công chức qua mạng như sau:
1. Trình tự thực hiện


×