Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

PHÂN TÍCH CHẤT VÀ LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA, GIẢI PHÁP LÀM TĂNG TÍNH CẠNH TRANH CHO HÀNG HÓA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.99 KB, 16 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn những nhu cầu
nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Tìm hiểu về hàng
hoá, bên cạnh điều kiện ra đời, tồn tại và đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hoá
và các thuộc tính của nó, chúng ta cũng cần quan tâm đến lượng giá trị của hàng
hoá. Từ góc độ lí luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hoá, ta có thể đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp
trên thị trường. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, xây dựng
nền kinh tế thị trường có điều tiết, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường ngày càng tăng cao, đặc biệt là cạnh tranh về giá cả của hàng hoá. Khi
nước ta đã làm thành viên của WTO, bên cạnh những thuận lợi, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức đòi hỏi phải
nâng cao năng lực cạnh tranh để xác lập một thị trường vững chắc. Nắm bắt
được lí luận của C.Mác về lượng giá trị của hàng hoá sẽ giúp các doanh nghiệp
Việt Nam tìm ra những giải pháp nhằm tăng chất lượng của sản phẩm và hạ giá
thành của sản phẩm làm ra, nói cách khác là tăng năng lực cạnh tranh về giá của
sản phẩm.

1


B.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HÓA THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
1.1.

Khái niệm giá trị hàng hóa.


Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao
để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian
lao động. Lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá
biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao
động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra
một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với
một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và
một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó. Chỉ có lượng lao động xã hội
cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa,
mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy.
1.2. Mặt chất của hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau
ở mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Nhưng bất kì một hàng hoá nào
cũng mang hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
+ Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người
Ví dụ: Công dụng của lương thực là cung cấp năng lượng cho con người.
Bất kì một vật phẩm nào cũng có một công dụng nhất định và công dụng đó
do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Ngày nay khi khoa học kĩ
2


thuật phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ làm cho thuộc tính mới
của vật phẩm xuất hiện ngày càng nhiều và qua đó tạo ra được những giá trị
sử dụng mới
Ví dụ:

+ Ánh sáng mặt trời ngày nay là nguồn năng lượng quý giá cho sản
xuất ,gọi là nguồn năng lượng sạch cho các nhà máy chạy năng lượng mặt
trời.
+Gió cũng được coi là một nguồn năng lượng sạch và là nguồn năng
lượng dồi dào có trong tự nhiên.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung
vật chất của của cải và là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng trình bày ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá nó
không phải giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất ra nó mà là giá trị sử
dụng cho người khác, cho xã hội thông qua quá trình trao đổi mua bán.
Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi
+ Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao
đổi chính là quan hệ tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị
sử dụng khác. Ví dụ: 1m vải có thể đổi lấy 10kg thóc và ngược lại, vải và
thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng hoàn toàn khác nhau về chất, vải dùng
để may quần áo mặc còn thóc xay lấy gạo để nấu cơm ăn, nhưng tại sao
chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo một tỉ lệ nào đó.
Như vậy có thể khẳng định giữa vải và thóc tồn tại một cơ sở chung nào đó,
cái chung ấy đương nhiên không phải giá trị sử dụng nhưng sự khác biệt về
giá trị sử dụng của chúng chính là điều kiện cần thiết để chúng có thể trao
đổi được với nhau. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng
hoá. Ta có thể gạt bỏ giá trị sử dụng của hàng hoá sang một bên khi đó giữa
vải và thóc chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi và cái
chung đó là vải và thóc đều được tạo ra từ quá trình lao động sản xuất. Để
sản xuất ra vải hay thóc người sản xuất phải hao phí lao động một lượng nhất
định, chính sự hao phí lao động này đã ẩn dấu trong hàng hoá làm cho chúng
có thể so sánh được với nhau. Khi trao đổi và quá trình trao đổi này tuân

3



theo một tỉ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn lại có thể đổi lấy một lượng
thóc nhiều hơn. Sở dĩ như vậy là vì lượng hao phí lao động để tạo ra 1m vải
tương đương với lượng háo phí lao động để sản xuất ra 10kg thóc. Như vậy
lao động hao phí ẩn dấu trong hàng hoá chính là giá trị của hàng hoá.
Vậy giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá. Từ đó có thể thấy được chất của hàng hoá chính là lao
động của người sản xuất. Vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người
sản xuất chứa đựng trong đó thì không có giá trị. Sự hao phí lao động để sản
xuất ra một sản phẩm càng nhiều thì giá trị của chúng càng lớn và ngược lai.
Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi là hình thức
biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau những
người trao đổi đã ngầm so sánh lao động ẩn dấu trong hàng hoá với nhau.
Thực chất của quá trình này là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của
mình chứa đựng trong các hàng hoá mình sản xuất ra vì vậy giá trị là biểu
hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá, giá trị là phạm trù lịch sử
( tức là nó có thể giảm dần hoặc mất đi theo thời gian ) gắn liền với nền sản
xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc
tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy hàng hoá là sự thống nhất của hai thụôc tính giá trị sử dụng và giá
trị nhưng đó là sự thống nhật của hai mặt đối lập. Đối lập với người sản xuất
hàng hoá họ tạo ra giá trị sử dụng nhưng mục đích của họ không phải là giá
trị sử dụng vì hàng hoá họ sản xuất ra không phải để thỏa mãn nhu cầu của
họ, mục đích mà họ muốn đạt được chính là giá trị. Họ quan tâm tới gí trị sử
dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại đối với người mua
cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu của mình, nhưng
để đạt được giá trị sử dụng đó họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra hàng
hóa đó. Như vậy trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của
nó nếu không thực hiện được giá trị thì sẽ không thực hiện được giá trị sử

dụng và đồng nghĩa với không đạt được giá trị sử dụng của hàng hoá.
Tại sao hàng hoá có hai thuộc tính như vậy sở dĩ quá trình lao động sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá

4


quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá
+ Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối
tượng riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng. Ví dụ lao động cụ thể của
người nông dân, mục đích là sản xuất ra lương thực, thực phẩm, đối tượng
lao động là đất đai canh tác, phương pháp của người nông dân là các phương
pháp reo mầm chăm bón và thu hoạch, phương tiện là cái cày, con trâu ...kết
quả tạo ra lương thực thực phẩm. Mỗi một lao động cụ thể tạo ra một giá trị
sử dụng nhất định, lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều giá trị
sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể tạo thành hệ thống phân công lao
động xã hội.
Các hình thức lao động cụ thể ngày càng phong phú và đa dạng do chịu sự
tác động của sự phát triển khoa học công nghệ. Lao động cụ thể là phạm trù
vĩnh viễn là điều kiện không thể thiếu trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội
nào, cần chú ý rằng hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi.
+ Lao động trừu tượng
Là lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao phí sức lao động
nói chung của con người không kể đến các hình thức cụ thể của nó như thế
nào thì gọi là lao động trừu tượng. Lao động của người thợ rèn và của người
nông dân, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau nhưng nếu
gạt bỏ tất cả sự khác nhau ấy sang một bên thì giữa hai loại lao động trên có
một cái chung duy nhất là đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần

kinh của con người xét về mặt sinh lý, nhưng không phải sự hao phí sức lao
động nào về mắt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng
chỉ có trong nền sản xuất hàng hoá do mục đích của sản xuất là để trao đổi vì
vậy sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau không thể so
sánh được với nhau thành thứ lao động đồng chất tứ là lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra sự ngang bằng trong trao đổi do nó tạo ra giá trị
nếu không có sản xuất hàng hoá không có trao đổi thì không cần phải quy
các lao động cụ thể thành các lao động trừu tượng. Vì vậy lao động trừu
tượng là phạm trù lich sử nó chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá.
5


Nếu bạn hiểu là có hai thứ lao động khác nhau thì hoàn toàn sai chỉ có một
thứ lao động duy nhất là lao động của người sản xuất nhưng nó mang tính
hai mặt: vừa là lao động cụ thể vừa là lao động trừu tượng. Việc phát hiện ra
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất lớn về mặt lý
luận, nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực
sự. Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự
vận động trái ngược khối lượng của cải ngày càng tăng lên đi liền với giá trị
của nó ngày càng giảm xuống hay không đổi.
Tính hai mặt của sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tự nhiên và tính chất
xã hội của người sản xuất hàng hoá. Trong nền sản xuất hàng hoá sản xuất
như thế nào sản xuất cái gì là việc riêng của mỗi người, họ là người sản xuất
độc lập lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân. Đồng thời lao động của
mỗi người sản xuất hàng hoá nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung tức là
lao động trừu tượng thì nó luôn là bộ phận của lao động xã hội thống nhất
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là
hình thức biểu hiện của lao động xã hội. Lao động tư nhân và lao động xã
hội có mâu thuẫn với nhau đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá
“giản đơn” nó biểu hiện:

- Sản xuất do người sản xuất nhỏ tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu
của xã hội
- Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn
hao phí lao động xã hội chấp nhận

1.3.

Cấu thành lượng giá trị hàng hoá.

Để sản xuất ra hàng hoá cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá
khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật
liệu và lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản
6


phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai
trò bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ
phận giá trị cũ trong trong sản phẩm (kí hiệu là c), còn lao động trừu tượng
(biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) có
vai trò làm tăng giá trị sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới trong sản phẩm (kí
hiệu là v+m). Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hoá bao gồm hai bộ phận: giá
trị cũ tái hiện và giá trị mới.
1.4.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

Tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều
ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa. Chúng ta xem xét ba yếu tố cơ bản:
năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao
động.

 Năng suất lao động
Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao
động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng
suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và
ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
 Cường độ lao động
Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong
một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng
thẳng của lao động.

7


Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh
trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng
thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc
khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên
tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường
độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao
động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
 Mức độ phức tạp của lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị
của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành
lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không
cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao

động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.
1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá trị hàng hóa.
Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa là thật sự cần thiết, thứ nhất là để
xác định được giá cả của hàng hóa làm ra, thứ hai là để tìm ra được những nhân
tố tác động đến nó, từ đó có thể tìm ra cách để làm giảm giá cả sản xuất (ví dụ
tăng năng suất, đầu tư khoa học công nghệ hiện đại...) mà vẫn giữ nguyên hoặc
làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh tranh trên thị trường, đây chính là điều mà
các nhà làm kinh tế luôn hướng tới nhằm đạt được lợi nhuận cao.
2. THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA VÀO SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
2.1.

Khái niệm năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp.
8


Từ trước tới nay, khái niệm năng lực cạnh tranh được nhắc đến rất nhiều
nhưng đến nay khái niệm này vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Bởi lẽ
năng lực cạnh tranh cần phải đặt vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nước
trong từng thời kỳ. Đồng thời năng lực cạnh tranh cũng cần thể hiện khả năng
đua tranh, tranh giành giữa các doanh nghiệp và cần được thể hiện ra bằng
phương thức cạnh tranh phù hợp. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra định nghĩa cụ
thể về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản
phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản
xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
2.2.


Thực tiễn sản xuất hàng hóa ở Việt Nam

Nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam có nhiều ưu điểm để nâng cao giá trị
của hàng hóa. Tuy nhiên bên cạnh đó còn không ít những hạn chế làm cho sức
cạnh tranh của hàng Việt Nam còn chưa cao ở thị trường trong nước và quốc tế.
2.2.1. Ưu thế


Ưu thế của nền sản xuất hàng hóa của nước ta đó là có nguồn lao động dồi

dào, giá rẻ. Năm 2005, dân số hoạt động kinh tế ở nước ta là 42,53 triệu người,
chiếm 51,2% tổng dân số

(1)

. Với mức tăng nguồn lao động hiện nay, mỗi năm

nước ta có thêm hơn 1 triệu lao động. Người lao động nước ta cần cù, sáng tạo,
có kinh nghiệm sản xuất phong phú gắn liền với truyền thống dân tộc được tích
luỹ qua nhiều thế hệ. Giá nhân công của nước ta lại rẻ, đây chính là điều kiện
thuận lợi làm cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam rẻ hơn so với
các nước khác.


Nguyên vật liệu ở nước ta rẻ, lại rất dồi dào, (nhất là nguyên liệu cho các

ngành sản xuất thực phẩm, vật liệu xây dựng…) như vậy, nếu biết tận dụng sẽ
tiết kiệm được chi phí mua nguyên liệu. Giảm chi phí sản suất sẽ làm giảm giá cả
của hàng hóa, sẽ làm cho hàng hóa tăng thêm sức cạnh tranh về giá.
9



2.2.2. Bất lợi


Nguồn nhân lực của nước ta tuy dồi dào nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là

lao động thủ công, tác phong công nghiệp còn hạn chế. Năm 2005, lao động đã
qua đào tạo của nước ta chỉ đạt 25%

(2)

, quá thấp so với yêu cầu của một nước

đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Phần lớn các doanh nghiệp đều
phải tự đào tạo nghề cho công nhân. Công nhân không lành nghề dẫn đến chất
lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không cao, sản phẩm làm ra sẽ không
nhiều trong cùng một đơn vị thời gian.


Tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và

chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Phần lớn các doanh nghiệp của nước
ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với các nước trên thế giới từ 2-3 thế hệ. 8090% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ nhập khẩu, 76% máy móc (3)
−−−−−−−−−−−−−−−−−−−
(1), (2), (3): Theo Atlas Địa lý Việt Nam năm 2010, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, trg. 11, trg. 16.

dây chuyền công nghệ nhập khẩu thuộc thập niên 50-60, 50% là đồ tân trang…
Sự lạc hậu về công nghệ và kĩ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp, không
ổn định. Điều này sẽ gây cho hàng hoá của chúng ta rất nhiều hạn chế trong cạnh

tranh về giá.


Sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là hàm lượng tri

thức và và công nghệ trong sản phẩm không cao, điều đó làm giảm đi chất lượng
của sản phẩm.


Chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho

sản xuất. Ngay cả các sản phẩm là thế mạnh của nước ta vẫn thì vẫn phải nhập
nguyên liệu như dệt may, da giày, thực phẩm… Nhiều sản phẩm có giá thành
không ổn định cũng là do phụ thuộc vào tính chất bấp bênh của nguồn nguyên
liệu.

10


Từ những hạn chế trên cần phải có một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới,
nhất là trong thời kì hội nhập như hiện nay.
2.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của

các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp
phải tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi đó giá thành phải hạ.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần có những biện pháp để tăng năng

suất lao động (năng suất lao động tăng làm cho sản phẩm làm ra trong một đơn
vị thời gian nhiều hơn, giá cả hàng hoá từ đó sẽ giảm xuống) và tăng mức độ
phức tạp của lao động (lao động phức tạp tao ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt,
đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng). Ngoài ra còn có nhiều biện pháp khác có thể
nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cho sản phẩm.
2.3.1. Giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động của các doanh
nghiệp
 Ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất. Bản thân các doanh
nghiệp vừa phải nỗ lực cải tiến, hoàn thiện công nghệ hiện có, vừa phải tranh thủ
tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm có chất
lượng, giảm chi phí sản xuất. Đổi mới công nghệ phải căn cứ vào chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp và xu thế phát triển của công nghệ thế giới để lựa
chọn công nghệ thích hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trên cơ sở tiết
kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng dây
chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng, tránh đầu tư lan man. Dây
chuyền máy móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm hơn, đồng đều hơn, giảm bớt
sức lao động chân tay trong mỗi sản phẩm. Như vậy giá thành cũng có thể hạ.

11


 Đầu tư đổi mới công nghệ phải đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới
và đồng bộ, tiến hành tổ chức lại quản lý. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kĩ thuật và
đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, sử dụng công nghệ hiệu quả nhất.
Để đầu tư đổi mới công nghệ, nhà nước cần có cơ chế và chính sách khuyến
khích nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, tiến bộ như: hỗ trợ kinh
phí cho các chương trình, đề tài nghiên cứu sản xuất ra máy móc thiết bị trong
nước, lập quỹ dự trữ đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, giảm thuế một số năm
đối với những doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ
mới trong sản xuất.

 Tận dụng hiệu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên
để tăng năng suất doanh nghiệp như sử dụng hợp lí các nguồn nguyên liệu sẵn
có, giá rẻ ở trong nước để đưa vào chế biến, đặt nhà máy ở nơi có vị trí địa lí
thuận lợi (như gần nguồn nguyên liệu, gần trục giao thông, gần nơi tiêu thụ…)
để giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất mà vẫn đảm bảo năng suất. Chi phí
sản suất giảm đồng nghĩa với việc giá thành sản phẩm cũng giảm theo.
 Mở rộng quy mô sản xuất và tăng hiệu suất của tư liệu sản xuất.
2.3.2. Giải pháp nhằm tăng mức độ phức tạp trong lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá
trị của hàng hoá. Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá
trị hơn lao động giản đơn. Tăng chất lượng của sản phẩm cần làm cho lao động
phức tạp kết tinh trong sản phẩm nhiều hơn.
 Một sản phẩm làm ra có chất lượng tốt đòi hỏi lao động kết tinh trong đó
phải phức tạp, tỉ mỉ. Vì vậy, tay nghề của lao động rất quan trọng. Đào tạo nghề
cho lao động ở nước ta là một trong những giải pháp cần thiết vì lao động nước
ta chủ yếu là lao động thủ công, tay nghề chưa cao. Người lao động Việt Nam
cần cù, chăm chỉ, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học - kĩ thuật tuy nhiên lại chưa
dược đào tạo đúng mức. Nâng cao chất lượng nguồn lao động đồng nghĩa với
12


việc mở các trường dạy nghề, tập huấn kỹ thuật, cho người lao động tiếp cận với
những tiến bộ của khoa học công nghệ… Trong nền sản xuất hàng hoá hiện nay,
sự phân công lao động xã hội đã tạo nên sự chuyên môn hoá lao động, dẫn tới sự
chuyên môn hoá sản xuất. Vì vậy mỗi công nhân phải thành thạo một ngành
nghề của mình để tạo ra một sản phẩm có chất lượng.
 Ngoài bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kĩ năng, tay nghề còn phải nâng
cao trình độ tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Cần
thông qua các chương trình đào tạo cụ thể để phù hợp với từng đối tượng, từng
ngành nghề. Ngoài ra còn có thể phổ biến cho công nhân các kiến thức liên quan

đến chất lượng sản phẩm, giá cả thị trường và kiến thức về khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của nước ta nhằm
tạo ta một lực lượng lao động có đủ khả năng tiếp thu, thích ứng với môi trường
kinh doanh hiện nay.
Như vậy, khi trình độ của người lao động tăng cao cũng có nghĩa lao động
phức tạp kết tinh trong hàng hoá tăng lên, làm cho sản phẩm làm ra ngày càng có
chất lượng, mẫu mã phù hợp, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Đây là một
trong những điều kiện để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị
trường trong nước và trên thế giới.
2.3.3. Chính sách của nhà nước
Sự cạnh tranh thành công về giá của các doanh nghiệp còn liên quan đến
các chính sách của Nhà nước, trong đó cần coi trọng các vấn đề:
 Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các chính sách định lượng về quản lí
giá cả, giúp các doanh nghiệp có thêm căn cứ để xác định giá cả cho phù hợp.
 Thực hiện các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng
cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trong đó có các chính sách về thuế,
chính sách về nhập khẩu công nghệ, chính sách ưu đãi với những doanh nghiệp
cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động.
13


 Bên cạnh đó nhà nước cần tạo điều kiện tổ chức các cuộc triển lãm về cải
tiến chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để các doanh nghiệp học tập kinh
nghiệm lẫn nhau, tham khảo về giá cả lẫn nhau. Đồng thời cần chủ động thường
xuyên mời các chuyên gia nước ngoài đến để tổ chức các khoá tập huấn về quản
lí chất lượng, trao đổi công nghệ mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
2.3.4. Một số giải pháp khác
Ngoài ra, chúng ta còn có nhiều biện pháp khác để làm giảm giá thành sản
phẩm mà vẫn bảo đảm chất lượng. Ví dụ như tận dụng nguồn nguyên liệu dồi
dào, giá rẻ ở trong nước sẽ làm giảm chi phí sản xuất, chi phí sản xuất càng thấp

sẽ làm giá cả càng hạ. Mở rộng việc quảng bá, tiếp thị hàng Việt Nam để đông
đảo người dân tiếp cận với hàng trọng nước, loại bỏ tâm lí “sính ngoại” của
nhiều người. Để làm được điều này ta có thể mở những gian hàng giới thiệu
hàng Việt Nam chất lượng cao, đưa hàng Việt về nông thôn, tổ chức các tuần lễ
khuyến mãi với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra còn
phải xây dựng thương hiệu cho hàng Việt Nam để có chỗ đứng trong lòng người
tiêu dùng, làm cho người tiêu dùng tin tưởng vào chất lượng và giá cả của hàng
trong nước.
Như vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của hàng hoá của các
doanh nghiệp Việt Nam thì phải thực hiện đồng bộ các biện pháp trên. Tuy nhiên
vẫn phải ưu tiên hàng đầu cho các giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động
và tăng mức độ phức tạp của lao động. Vì đây chính là yếu tố quyết định đến giá
thành và chất lượng sản phẩm.
A. KẾT LUẬN
Việt Nam đã trở thành một thành viên của WTO, các doanh nghiệp Việt
Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp cận với nền sản xuất hiện đại trên thế giới,
14


hàng hoá của nước ta cũng có nhiều cơ hội đến với thị trường nước ngoài. Gia
nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc hàng hoá của nước ngoài sẽ tràn vào thị
trường của nước ta với những ưu điểm nổi trội như chất lượng cao, mẫu mã đẹp,
giá thành rẻ… Như vậy, để tồn tại và phát triển trên thị trường khắc nghiệt này,
các doanh nghiệp Việt Nam phải có những chiến lược cụ thể nhằm nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá. Học thuyết về lượng giá trị của C.Mác chính là cơ sở
để các doanh nghiệp tìm ra lối đi cho mình, để biến thách thức thành cơ hội để
tăng lợi nhuận cho mình, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

2.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

3.

TS. Lê Minh Nghĩa, TS. Phạm Văn Sinh, Hỏi và đáp môn “Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010.

4.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa địa lý lớp 12 – Nâng cao, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2008.

5.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Atlas Địa lý Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2010.

6.


Anh Thư, Làm thế nào để tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp
một cách có hiệu quả?, Báo Tuổi trẻ, số ra ngày 18/07/2009.

16



×