Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tài liệu bảo lãnh và cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.46 KB, 25 trang )

NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH VÀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH

PHẦN I:NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH.
1.Các khái niệm liên quan.
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng , khi khách
hàng không thực hiện nghĩa vụ đúng như cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên:

-Bên bảo lãnh.
-Bên được bảo lãnh
-Bên hưởng bảo lãnh.

Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của
ngân hàng là người được bảo lãnh, và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.

2.bản chất của bảo lãnh ngân hàng.
Là hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể
tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền
ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng.
Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản
“xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa
đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng
như khi cho vay.
3.Ý nghĩa của bảo lãnh ngân hàng.



+Tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính
trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách
hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt
hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
+Tạo nguồn thu cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh được tính
theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh, ngân hàng có thể thu một lần hoặc chia
làm nhiều lần thu. Ngoài phí , ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ ,
tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất rất thấp.
+Góp phần mở rộng các dịch vụ khác của ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ, tư
vấn, thanh toán,...

II.PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG.
1. Phân loại theo đối tượng hưởng bảo lãnh:
Bảo lãnh trong nước: : Doanh nghiệp có nhu cầu được ngân hàng đứng ra
bảo lãnh để thực hiện các cam kết trong giao dịch kinh tế với các đối tác trong
nước.
Bảo lãnh ngoài nước: Doanh nghiệp có nhu cầu được ngân hàng đứng ra bảo
lãnh để thực hiện các cam kết trong giao dịch kinh tế với các đối tác nước
ngoài.
2. Phân loại theo hình thức sử dụng:
Bảo lãnh vô điều kiện : là loại bảo lãnh mà việc thanh toán sẽ được thực

hiện ngay khi ngân hàng nhận được yêu cầu đầu tiên bằng văn bản của người
hưởng thụ thông bóa rằng người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Xem yêu
cầu này như một mệnh lệnh thanh toán đơn giản không đòi hỏi phải có chứng
từ kèm theo.:


Bảo lãnh có điều kiện : là loại bảo lãnh mà việc thanh toán chỉ được tiến hành khi
người hưởng thụ xuất trình kèm theo thư bảo lãnh một số giấy tờ hay giấy chứng

nhận được quy định trước.
3. Phân loại theo cách mở bảo lãnh:
Bảo lãnh trực tiếp: người phát hành thư bảo lãnh cũng chính là người thanh

toán
Bảo lãnh gián tiếp: người phát hành thư bảo lãnh không đồng thời là người

thanh toán
4. Phân loại theo nguồn hình thành
Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu: Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư
(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm
các quy định trong hợp đồng dự thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất
thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam
kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước: Là cam kết của ngân hàng về việc
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp
(người được bảo lãnh) không trả.
Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng (người mua hàng hóa dịch vụ) phải
đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên
cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc
người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung
cấp hàng, đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải
có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng trước


Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng: Là cam kết của ngân hàng
về việc sẽ bồi thường cho bên hưởng bảo lãnh khi khách hàng của ngân hàng
không thực hiện đúng thỏa thuận về chất lượng sản phẩm.
Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán

tiền theo đúng hợp đồng toán cho người thụ hưởng, nếu khách hàng của ngân hàng
không thanh toán đủ.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay (bảo lãnh vay vốn): Là cam kết của ngân
hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân,...) về việc trả gốc và lãi
đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
5. Các loại bảo lãnh khác:
Thư tín dụng dự phòng(Stand-by L/C): Ngân hàng thay mặt người nhập khẩu
(người mua hàng hóa) cam kết với người xuất khẩu (người cung cấp hàng hóa) sẽ
trả tiền trong thời gian qui định khi người xuất khẩu xuất trình những chứng từ phù
hợp với quy định trong L/C đã được ngân hàng mở theo yêu cầu của người nhập.
Bảo lãnh nhận hàng: Để thuận tiện cho doanh nghiệp nhận hàng nhập

khẩu, ngân hàng cung cấp dịch vụ Bảo lãnh nhận hàng dựa trên hạn mức tín
dụng dành cho doanh nghiệp cũng như phương án mở L/C của khách hàng.
Người nhập khẩu có thể làm thủ tục nhận hàng ngay khi hàng cập cảng mà bộ
chứng từ chưa được xuất trình tại ngân hàng bằng cách ký hậu vận đơn (trong
trường hợp khách hàng có vận đơn gốc) hoặc sử dụng thư bảo lãnh nhận hàng
(trong trường hợp khách hàng không có vận đơn gốc).
Bảo lãnh thuế quan: Là cam kết của ngân hàng đối với cơ quan quản lý thuế về
việc nộp thay cho khách hàng các khoản thuế xuất, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt và thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu nếu hết thời gian nộp
thuế mà khách hàng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Bảo lãnh hối phiếu: Là sự cam kết của ngân hàng trả cho người hưởng lợi khi
hối phiếu đến hạn trả tiền.


Bảo lãnh phát hành chứng khoán: là việc ngân hàng cam kết với tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một
phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số
chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ

chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.

Theo Điều 5 nghị định 26 ban hành ngày 26/6/2006 ngoài 5 loại bảo lãnh
trên còn có:
Bảo lãnh vay vốn : là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, về việc
sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không
trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của của tổ chức tín dụng với
bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất
lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp
khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo
lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực
hiện thay.
“Bảo lãnh đối ứng” là cam kết của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh đối ứng) với
bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong trường
hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên bảo
lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
“Xác nhận bảo lãnh” là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng (bên xác nhận
bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng. Các loại bảo lãnh khác pháp luật
không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế.
III.QUY TRÌNH BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Ngân hàng
( Bên bảo lãnh)


(5)

(2)


Khách hàng của ngân hàng
( bên được bảo lãnh)

( 3)
(1)

(4)
Người thứ 3
( bên hưởng bảo lãnh)

(1) Khách hàng ký hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng, vay vốn…Bên

thứ ba yêu cầu có bảo lãnh của ngân hàng;
(2) Khách hàng làm đơn được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân
tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu
đồng ý, ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo
lãnh;
(3) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba;
(4) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng cũng như bên thứ ba, ngân hàng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra;
 Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính với ngân hàng (trả nợ gốc, lãi, phí) Ngân
hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh khi có đầy đủ các điều
kiện bảo lãnh sau đây:
1. Trong thời hạn của bảo lãnh, bên bảo lãnh hoặc bên xác nhận bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh xuất trình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh và các tài liệu, chứng từ kèm theo (nếu có), thoả mãn đầy đủ các điều kiện đã
quy định trong cam kết bảo lãnh.
2. Trường hợp các bên thoả thuận áp dụng các quy tắc, tập quán, thông lệ quốc tế
về bảo lãnh ngân hàng thì trình tự thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh phải tuân thủ theo

các quy tắc, tập quán và thông lệ quốc tế đó.
3. Ngay sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tổ chức tín dụng thông báo và ghi nợ
cho khách hàng hoặc tổ chức tín dụng đề nghị bảo lãnh (gọi chung là bên nợ) số
tiền tổ chức tín dụng đã trả thay, sau khi trừ phần thu hồi số tiền ký quỹ (nếu có).
4. Bên nợ có nghĩa vụ hoàn trả ngay số tiền tổ chức tín dụng đã trả thay. Trong
trường hợp chưa hoàn trả được cho tổ chức tín dụng, bên nợ phải chịu lãi suất
phạt đối với khoản nợ tổ chức tín dụng đã trả thay, tối đa bằng 150% lãi suất


trong hợp đồng vay vốn giữa khách hàng và bên nhận bảo lãnh (trường đang áp
dụng, kể từ ngày tổ chức tín dụng thực hiện trả thay.
IV.MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
1.Bên cấp bảo lãnh
Các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc
tế được thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân
nước ngoài.

2. Đối tượng bảo lãnh (theo điều 4 NĐ26 ngày 26/6/2006)
Tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đáp ứng các yêu cầu sau:
Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự;
Mục đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp;
Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh
trong thời hạn cam kết;
Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các điều
kiện nêu trên phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam.
Đối tượng không được bảo lãnh
Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó
Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;



Cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đó thực hiện thẩm định, quyết định bảo
lãnh;
Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc);
Việc áp dụng quy định tại điểm c Khoản này đối với người được bảo lãnh là bố,
mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do
tổ chức tín dụng xem xét quyết định.


3. Giới hạn bảo lãnh (mức bảo lãnh):là tổng giá trị hợp đồng và các giá trị cam kết
của khách hàng được ngân hàng bảo lãnh.
Ở Việt Nam: tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng
không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Mức bảo lãnh cho một khách hàng:tính theo giá trị hợp đồng mà bên yêu cầu
bảo lãnh đề nghị.
4.Phí bảo lãnh
Bên bảo lãnh (ngân hàng) thoả thuận mức phí bảo lãnh đối với khách hàng,
phù hợp với chi phí của tổ chức tín dụng và mức độ rủi ro của nghiệp vụ này. Các
ngân hàng thường niêm yết mức phí bảo lãnh cụ thể cho từng loại hình bảo lãnh.
Các yêu tố ảnh hưởng tới mức phí bảo lãnh:
- thời hạn bảo lãnh
- mức độ trách nhiệm của ngân hàng
- giá trị bảo lãnh
- tỉ lệ kí quỹ
- tài sản đảm bảo
-loại hình bảo lãnh
5.Quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia bảo lãnh

Bên bảo lãnh (ngân hàng)

Bên được bảo lãnh (khách hàng)

* Quyền

* Quyền:

-chấp nhận hoặc từ chối bảo lãnh

-Đề nghị tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh
cho mình;

-đề nghị xác nhận bảo lãnh
-yêu cầu khách hàng cung cấp tài
liệu, thông tin cần thiết

-Yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện
đúng cam kết bảo lãnh và các thoả thuận
trong Hợp đồng cấp bảo lãnh;


- Yêu cầu khách hàng có các biện
pháp bảo đảm cho nghĩa vụ được tổ
chức tín dụng bảo lãnh (nếu cần)

-Khởi kiện theo quy định của pháp luật
khi tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ
đã cam kết;


-thu phí bảo lãnh theo như thỏa thuận

-Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ
của mình nếu được các bên có liên quan
chấp thuận bằng văn bản.

- Hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách
hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoàn
trả số tiền mà bên bảo lãnh đã trả
thay.
-Xử lý tài sản bảo đảm của khách
hàng theo thoả thuận và quy định của
pháp luật.
-Khởi kiện theo quy định của pháp
luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối
ứng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết;
-Có thể chuyển nhượng quyền, nghĩa
vụ của mình cho tổ chức tín dụng
khác nếu được các bên có liên quan
chấp thuận bằng văn bản.
* Nghĩa vụ
-thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh theo
hợp đồng đã thỏa thuận
- hoàn trả tài sản bảo đảm và các giấy
tờ có liên quan cho khách hàng khi
thanh lí hợp đồng bảo lãnh.

* Nghĩa vụ:
-Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung
thực các tài liệu và các thông tin theo

yêu cầu của tổ chức tín dụng bảo lãnh;
-Thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ
đã cam kết với bên nhận bảo lãnh;
-Thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo
lãnh cho tổ chức tín dụng theo thoả
thuận;
-Nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền tổ chức tín dụng đã trả thay,
bao gồm cả gốc, lãi và các chi phí trực
tiếp phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh;
-Chịu sự kiểm tra, kiểm soát và báo cáo
tình hình hoạt động có liên quan đến
giao dịch bảo lãnh cho tổ chức tín dụng
bảo lãnh.

6.Thời gian bảo lãnh
Thời hạn bảo lãnh được xác định từ khi phát hành bảo lãnh cho đến thời điểm
chấm dứt bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh hoặc thời điểm nghĩa vụ bảo
lãnh chấm dứt


Nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh;
-Tổ chức tín dụng đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh;
- Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết;
- Bên nhận bảo lãnh đồng ý miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh
hoặc nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật;
- Theo thoả thuận của các bên.Việc gia hạn bảo lãnh do các bên thỏa thuận

7.Tài sản thế chấp
+ Động sản và bất động sản: Phải có Giấy Chứng nhận Quyền sở hữu (bản
gốc), có chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước, có thể Chuyển nhượng
được dễ dàng;
+ Trái phiếu, tín phiếu...: Còn thời hạn thanh toán, Người phát hành là các tổ
chức có tín nhiệm, có thể chuyển nhượng được dễ dàng, thuộc quyền thụ hưởng
của doanh nghiệp xin bảo lãnh;
+Vàng đá quý: Phải được Kiểm định của ngân hàng bảo lãnh hoặc cơ quan chuyên
môn do ngân hàng bảo lãnh chỉ định; doanh nghiệp xin bảo lãnh tự đóng gói, niêm
phong, có sự chứng kiến của ngân hàng bảo lãnh trước khi giao cho ngân hàng bảo
lãnh.
Riêng đối với các doanh nghiệp Nhà nước, việc sử dụng tài sản hình thành bằng
nguồn vốn ngân sách Nhà nước để thế chấp phải được Cơ quan tài chính cùng
cấp (Chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu tài sản) đồng ý bằng văn bản.
8.Một số điều khoản khác
Trong thời gian bảo lãnh, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm giữ gìn, bảo quản
những tài sản thế chấp được tiếp tục quản lý hay sử dụng; nếu bị mất mát hư hỏng
thì phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Trong thời gian bảo lãnh, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm giữ gìn, bảo quản
những tài sản thế chấp được tiếp tục quản lý hay sử dụng; nếu bị mất mát hư hỏng
thì phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Trường hợp tài sản thế chấp là các chứng từ có giá hết hạn trước thời hạn bảo
lãnh, thì doanh nghiệp phải đổi tài sản đủ tiêu chuẩn để thế chấp, nếu không đủ tài
sản thế chấp để thay thế thì doanh nghiệp được bảo lãnh phải chịu phạt với mức
bằng 1%/tháng tính trên giá trị tài sản thế chấp còn thiếu.
Trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh, doanh nghiệp phải chịu sự kiểm tra,
giám sát mọi hoạt động có liên quan đến nghĩa vụ được bảo lãnh, đồng thời có
trách nhiệm cung cấp theo yêu cầu của ngân hàng bảo lãnh những tài liệu, thông

tin cần thiết cho công tác kiểm tra, giám sát đó.
V.HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI VIỆT NAM.
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy
thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này
không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của bạn mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ
có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp của bạn hơn. Với vai trò như vậy, bảo lãnh đã
trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy
các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng
mà cả trong dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm.
Nghiệp vụ bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng thương mại mới “nổi” trong
khoảng thời gian gần đây, khi Việt Nam trở thành một phần của nền Kinh tế thế
giới, khi các thương vụ diễn ra mà không thể thiếu sự xuất hiện của các Ngân Hàng
thương mại. Có thể nói đây chính là thời cơ để các NHTM chứng tỏ với các
“thượng đế” của mình về chất lượng của các dịch vụ nói chung và đối với dịch vụ
Bảo Lãnh nói riêng.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các Ngân hàng phải đối mặt với những
khó khăn như: hệ thống chính sách, văn bản Pháp luật của nước ta chưa được hoàn
thiện, chưa đồng bộ. Chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào về bảo lãnh ở Việt
Nam. Các cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới diễn ra có ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động bảo lãnh của các Ngân hàng.
Bảo lãnh là một dịch vụ mới mẻ của các Ngân hàng, vì vậy trình độ chuyên
môn của đội ngũ nhân viên luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu. Hiện nay, hầu hết
các nhân viên Ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm làm việc, nhất là đối với nghiệp


vụ Bảo lãnh – luôn có những biến đổi theo thời gian. Trình độ thẩm định của các
Ngân hàng cũng không được cập nhật liên tục, không được thường xuyên bổ sung.
Do đó, khi thẩm định một dự án lớn thường phải thuê các chuyên gia bên ngoài =>
gây tốn kém, lãng phí.
Các giải pháp:

Xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp trong từng thành
phần kinh tế.
Để đảm bảo kế hoạch này được thành công thì ngân hàng cần xác định được nhu
cầu kinh tế,khả năng của ngân hàng về tài chính,nhân lực,…xác định được những
mặt hạn chế khiếm khuyết của hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng để trên nền tảng
đó có những giải pháp thực hiện,bố trí,sắp xếp đội ngũ cán bộ phù hợp,nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
Đẩy mạnh công tác tổ chức đào tạo cán bộ.
Đẩy mạnh nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,nâng cao trình độ ngoại
ngữ.
Tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch,thực hiện “ văn minh giao tiếp” trong cán
bộ,nhân viên trong ngân hàng.
Mở các khóa tập huấn về nghiệp vụ bảo lãnh để phổ biến,cập nhật những qui
định mới về bảo lãnh,sử dụng hiệu quả hệ thống máy móc trang thiết bị phục vụ
nhanh cho công việc
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định.
Cần phát huy hoạt động của tổ chức thẩm định tại ngân hàng.Người thẩm định
dự án cần phải biết kết hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh đối
chiếu đảm bảo tính chính xác về nguồn thông tin nhận được.Sau đó,xử lí các thông
tin đó để phân tích,đánh giá và quyết định đồng ý hay từ chối bảo lãnh.
Ứng dụng marketing vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
NHTM ngoài nghiên cứu về nhu cầu của khách hàng thì cần nghiên cứu về các
đối thủ cạnh tranh.Tức là nghiên cứu về sức cung-cầu của thị trường và tình hình
hoạt động bảo lãnh của các đối thủ cạnh tranh.Đồng thời,nghiên cứu tất cả những
nhân tố tác động đến thị trường ngân hàng,có thực hiện việc nghiên cứu thị trường
thì mới có thể đưa ra được chính sách phù hợp cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.


Trên cơ sở của việc nghiên cứu thị trường thì ngân hàng cần phải có chính sách

marketing tác động tới thị trường:
Chính sách sản phẩm: Ngân hàng cần đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh,hoàn
thiện và đổi mới nghiệp vụ bảo lãnh cho phù hợp với nhu cầu và xu thế của thị
trường.
Chính sách về giá cả: Giá cả của hoạt động bảo lãnh mức phí bảo lãnh.Mức phí
này phải đảm bảo bù đắp chi phí và mức độ rủi roc ho NH khi bảo lãnh đồng thời
thu hút được khác hàng.
Chính sách khác hàng: NH phải tiến hành rà soát,sàng lọc,phân loại DN để có
hướng đầu tư tập trung khai thác vào các DN làm ăn có hiệu quả,có tín nhiệm với
NH đồng thời kiên quyết giảm dư nợ bảo lãnh đối với những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ,tài chính yếu kém,dự án kém hiệu quả.
Mở rộng thu hút khách hàng mới nhưng phải có sự rằng buộc đồng thời duy trì
củng cố quan hệ khách hàng.Trong quan hệ khách hàn,NH cần thường xuyên có
những cuộc điều tra để có thông tin phản hồi từ khách hàng về chất lượng dịch vụ
bảo lãnh của NH đồng thời có thể tư vấn hỗ trợ khách hàng giải quyết những khó
khăn vướng mắc nhu cầu hiện tại và khơi dậy tiềm năng của khách hàng.
Chính sách khuyến trương: thông qua các hình thức như hoạt động tuyên
truyền,quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng,…
Tăng cường công tác kiểm tra,kiểm soát,quản lý.
NH cần phải tổ chức kiểm tra tất cả các món bảo lãnh hiện hành,hoàn chỉnh hồ sơ
đánh giá tiến độ thực hiện hợp đồng quản lý chặt chẽ,quá trình thực hiện hợp
đồng,nắm bắt được hoạt động của DN.Bên cạnh việc kiểm tra,kiểm soát khách
hàng thì còn phải kiểm tra,kiếm soát nội bộ về thực hiện quá trình bảo lãnh và có
trách nhiệm rõ ràng với từng bộ phận,cá nhân.
Tăng vốn điều lệ của Ngân hàng.NH cần tăng vốn điều lệ để tăng khả năng tham
gia bảo lãnh đối với các dự án lớn.Đồng thời tăng tiềm lực tài chính cho bản thân
ngân hàng.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Nghiên cứu xây dựng hạn mức bảo lãnh thường xuyên cho các khách hàng.
PHẦN II.NGHIỆP VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH

I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.Khái niệm:


Theo nghị định số 95/2008/NĐ-CP sữa đổi nghị định số 16/2001/NĐ-CP của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở
hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài
sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đãđược hai bên thoả
thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê
hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính,
ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.





Để hiểu rõ hơn về cho thuê tài chính chúng ta cần phân biệt giữa cho thuê tài
chính và cho thuê hoạt động:
Cho thuê hoạt động (operating leases) là loại cho thuê ngắn hạn và trong nội
dung hợp đồng thuê tài sản không thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản.
Cho thuê tài chính (financial leases) là loại cho thuê dài hạn và trong nội
dung hợp đồng thuê tài sản có thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích
gắn liền quyền sở hữu tài sản.

Phân biệt cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính.
Cho thuê hoạt động
Cho thuê tài chính
* Thời hạn cho thuê ngắn so với thời * Thời hạn cho thuê tương đối dài so
gian hữu dụng của tài sản.
với thời gian hữu dụng của tài sản
* Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi* Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro
ro liên quan đến tài sản.
liên quan đến tài sản.
* Không có cam kết bán lại tài sản.
* Thông thường, bên cho thuê có cam
kết bán lại tài sản cho bên thuê khi hết
* Hiện giá của các khoản chi trả tiền thời hạn hợp đồng.
thuê thông thường nhỏ hơn nhiều so* Hiện giá của các khoản tiền chi trả
tiền thuê gần bằng với giá trị của tài
với giá trị của tài sản thuê.
sản thuê.


2.Đặc điểm, bản chất pháp lý của cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là
một dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng quyền sử
dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện khách hàng phải
trả tiền thuê. Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào của tổ chức
tín dụng cũng được coi là cho thuê tài chính. Xét về mặt bản chất, giao dịch cho
thuê tài chính có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một
tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín
dụng chuyển giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính,
tổ chức tín dụng tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng

(bên thuê) một tài sản cụ thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải
hoặc động sản khác) để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê
có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của
giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Tổ chức
tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với khoản tín
dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê. Cũng tương tự như pháp luật
một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài chính là
hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của đối tượng
cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ
một năm trở lên.
Thứ hai, cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng
của chủ sở hữu (bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình
thức thuê tài sản thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động
cho thuê tài chính, bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với
tài sản cho thuê (quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho
thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản
cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Điều này được lý giải
bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính: Tổ chức tín dụng chỉ quan
tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc sử dụng khoản
tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng (bên thuê). Đặc điểm này đã
được Uỷ ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ghi nhận: “Cho thuê tài chính là loại
cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền
với quyền sở hữu tài sản”.


Cụ thể hoá những đặc trưng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định của
pháp luật hiện hành ghi nhận giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong những
dấu hiệu sau đây:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;

- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời
điểm mua lại;
- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản thuê;
- Tổng số tiền thuê tài sản theo thoả thuận ít nhất phải tương đương với giá
trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
3.Phân loại:
Cho thuê tài chính được phân loại thành nhiều phương thức tuỳ theo từng tiêu
chí phân loại. Một số tài liệu phân loại cho thuê tài chính dựa theo nguồn gốc sở
hữu hoặc nguồn gốc tài chính của tài sản thuê mà theo đó, cho thuê tài chính bao
gồm: Cho thuê đơn giản, cho thuê hợp vốn, cho thuê bắc cầu, bán và cho thuê lại
v.v… Tuy nhiên để làm nổi bật bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính có
thể được phân loại như sau:
Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài chính
mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê.
Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần
thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền
thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng và
khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh nghĩa
thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao.
Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà
theo đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm
dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá
trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền


thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê. Giá chuyển nhượng (nếu có) sẽ được các bên
thương lượng dựa trên giá trị còn lại của tài sản thuê.






II.NỘI DUNG
1.Quy trình nghiệp vụ cho thuê (Giáo trình trang 129)
 Ngân hàng mua tài sản để cho thuê:
(1) Khách hàng làm đơn gửi NH nêu yêu cầu về tài sản cần thuê. Sau khi phân tích
dự án và tình hình tài chính của khách hàng, NH ký hợp đồng thuê-mua với khách
hàng.
(2) Ngân hàng tìm kiếm nhà cung cấp để ký hợp đồng mua (hoặc do người thuê chỉ
định nhà cung cấp)
(3) KH có thể gặp nhà cung cấp để nêu yêu cầu về quy cách, chất lượng ài sản
thuê, nhận tài sản thuê, nhà cung cấp có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê
(4) NH kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê, hoặc thu hồi tài sản
nếu thấy người thuê vi phạm.
Ngân hàng mua tài sản của người đi thuê để cho thuê lại:
Trong những trường hợp KH có TSCĐ song lại có nhu cầu mua nguyên nhiên vật
liệu. KH có thể bán tài sản cho NH (lấy tiền) với cam kết sẽ thuê lại tài sản đó.
Tron gtrowngf hợp này NH phải thẩm định kĩ giá trị của tài sản, hiệu quả sử dụng
tài sản, thời gian cho thuê lại…
Ngân hàng thuê tài sản để cho thuê hoặc mua trả góp tài sản để cho thuê:
Tùy theo những yêu cầu cụ thể của người đi thuê với NH hoặc giữa NH với người
cung cấp mà NH có thể đi thuê tài sản hoặc mua trả góp để cho thuê.
Nếu KH yêu cầu thuê với thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản, tài sản
đó Nh lại khó cho thuê lại, NH có thể chọn hình thức đi thuê để cho thuê.
Nếu NH khó khăn về nguồn vốn để mua tài sản cho thuê, NH có thể sử dụng hình
thức mua trả góp để cho thuê.
2.Những vấn đề chủ yếu:
- Trong nghiệp vụ cho thuê, NH phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và

sau thời gain nhất định phải thu đủ gốc và lãi.
-Thời hạn cho thuê có thể gồm hai phần: thời hạn cơ bản và thời hạn gia hạn
thêm. Thời hạn cơ bản là thời hạn người đi thuê không được phép hủy hợp đồng,
thời hạn gia hạn thêm là thời hạn NH có thể cho KH tiếp tục thuê hoặc KH mua
lại, trả lại tài sản.


- NH không cam kết cung cấp dịch vụ bảo dưỡng tài sản, không chịu trách nhiệm
về những thiệt hại đối với tài sản cho thuê.
-Lãi suất cho thuê thương cao do bao gồm chi phí tìm kiếm người cung cấp, chi
phí dàn xếp, và phụ thuộc vào thời hạn thuê.
- NH có quyền thu hồi tài sản nếu thấy KH không thực hiện đúng hợp đồng. Song
NH cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại, đảm bảo chất lượng của tài sản
đó.
-NH gặp rủi ro khi KH kinh doanh không hiệu quả, không trả được tiền thuê đầy
đủ và đúng hạn. Nhiều tài sản cho thuê mang tính chất khó bán, khó cho thuê lại,
khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao…nên rủi ro cho thuê rất cao đối với NH. Do vậy
khi cho thuê NH phải tiến hành phân tích tín dụng đồng thời phân tích thị trường
tài sản cho thuê, đánh giá nhà cung cấp, lựa chọn nhà cho thuê thích hợp. NH yêu
cầu KH phải mua bảo hiểm tài sản.
-NH có thể lập Phòng cho thuê hoặc Công ty cho thuê để thực hiện và quản lý
hoạt động cho thuê.
3.Lợi ích của cho thuê tài chính
Thuê tài chính mang lại nhiều lợi ích cho cả cá nhân và doanh nghiệp...
Các doanh nghiệp thiếu vốn có thể lựa chọn giải pháp thuê tài chính, thay vì
mua phương tiện, máy móc thiết bị hay dây chuyền sản xuất.
Thuê tài chính giúp cho bạn tiếp cận được với rất nhiều loại tài sản, từ những
thiết bị văn phòng như máy photocopy, máy tính, đến các phương tiện và các dây
chuyền sản xuất hiện đại. Mặc dù thuê tài chính không trực tiếp chuyển vốn cho
bạn, nhưng hình thức này hoàn toàn có thể giúp bạn giảm lượng tiền bạn cần để

khởi sự hoặc mở rộng doanh nghiệp.
Thuê tài chính cũng giúp doanh nghiệp bắt kịp với công nghệ. Điều này đặc
biệt quan trọng nếu ngành kinh doanh của bạn phải dựa nhiều vào các công nghệ
tân tiến như thế hệ máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công
nghệ mới hoặc các thiết bị khác. Nhiều hợp đồng thuê ngắn hạn có thể sẽ tiết kiệm
hơn là việc sau một hai năm lại mua thiết bị mới.
Nếu bạn cần có máy móc, thiết bị ngay lập tức, việc đi thuê sẽ được chấp
thuận nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín dụng, và không cần nhiều thủ tục
giấy tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng cũng dễ chịu hơn. Nhất là với các doanh
nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu, việc thuê tài chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so với
việc đi vay ngân hàng.
Cho thuê tài chính đặc biệt có lợi với những công ty có ý định giữ lại tài sản


sau khi hết thời hạn thuê. Trong một hợp đồng thuê tài chính, tài sản sẽ hiện dần
lên trong bảng cân đối và khoản nợ thì sẽ được hoàn trả dần trong thời gian thuê.
Khi bạn lựa chọn thuê thiết bị thay vì mua, bạn tránh được một khoản tiền trả
ngay lớn. Bằng cách dãn khoản thanh toán ra theo vòng đời của tài sản, bạn có thể
bù đắp được chi phí thiết bị với các khoản sinh lời từ việc đầu tư đó. Thêm vào đó,
việc trả các khoản thanh toán cố định hàng tháng giúp cân đối được các khoản phải
trả dự tính, tạo thuận lợi cho việc thu xếp nguồn vốn và báo cáo số liệu.
Sau cùng, việc thuê tài sản cũng có thể sẽ tốn kém hơn việc đi mua, nhưng
nếu dòng tiền là một vấn đề quan trọng, vậy thì thuê tài chính sẽ là một lựa chọn
rất hấp dẫn.
4. Một số quy định về công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
4. 1.Các văn bản pháp luật đang có hiệu lực:
- Nghị định: 16/2001; bổ sung : 65/2005, 95/2008
- Hướng dẫn thi hành: Thông tư 06/2005, Quyết định 731/2004
4.2.Khái quát về cho thuê tài chính:
 Khái niệm:


Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản
cho thuê.
Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
được hai bên thoả thuận.
 Điều kiện để được coi là một giao dịch cho thuê tài chính:

Thỏa mãn 1 trong các điều kiện sau:
a) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;


b) Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời
điểm mua lại;
c) Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản thuê;
d) Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít
nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
- Hoạt động cho thuê tài chính trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện qua các
công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

III. CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH:
 Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân

Việt Nam .

 Loại hình doanh nghiệp:
Công ty thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau:
Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Công ty cho thuê tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Công ty cho thuê tài chính cổ phần
Công ty cho thuê tài chính liên doanh :
Công ty cho thuê tài chính liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài:
Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn”.
 Thời hạn hoạt động:
+ Thời hạn hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam tối đa là 50 năm.
Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động phải được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận. Mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.
+ Đối với những công ty cho thuê tài chính đã được thành lập và cấp Giấy phép
hoạt động trước khi Nghị định này có hiệu lực, thời hạn hoạt động được áp dụng
như quy định trong Giấy phép hoạt động đã cấp.


1. Hoạt động của công ty cho thuê tài chính:
Huy động vốn từ các nguồn sau:
a) Được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo các
quy định của Ngân hàng Nhà nước;


b) Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn
trên một năm để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận;
c) Được vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước;

d) Được nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Cho thuê tài chính.
Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (dưới đây gọi tắt là
mua và cho thuê lại). Theo hình thức này, công ty cho thuê tài chính mua lại
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản thuộc sở hữu
của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử
dụng phục vụ cho hoạt động của mình.
• Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho
thuê tài chính.
• Thực hiện các dịch vụ ủy thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến
hoạt động cho thuê tài chính.
• Được thực hiện nghiệp vụ cho thuê vận hành theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
• Được bán các khoản phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính cho các tổ
chức và cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
• Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
• Hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam
Cho thuê tài chính được xem là giai đoạn phát triển cao của hoạt động tín dụng
thuê mua và được đánh giá là một hình thức mới để đầu tư vốn vào tài sản sản
xuất. Với những ưu thế nổi bật như hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí, thủ tục tương
đối đơn giản, không phải thế chấp ... CTTC ngày nay đang là một loại hình kinh
doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển.



So với các dịch vụ tài chính khác, cho thuê tài chính còn khá mới ở Việt Nam. Mặc
dù là một loại hình tổ chức tín dụng mới ra đời (xuất hiện ở Việt Nam từ năm
1998) song hoạt động của các công ty cho thuê tài chính trong thời gian qua đã



phần nào làm giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong
việc cung ứng vốn đối với các do anh nghiệp, đặc biệt là vốn trung, dài hạn.
2.THỰC TRẠNG
2.1. Thực trạng thị trường cho thuê tài chính
 Chủ thể tham gia
Tính đến thời điểm tháng 10 năm 2008 thì chỉ có 13 công ty cho thuê tài chính
đang hoạt động chính thức trên thị trường thuê mua ở Việt Nam Vốn điều lệ của
các công ty cho thuê tài chính trung bình chỉ khoảng 150 tỷ.
Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường cho thuê tài chính là các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh,... và cá nhân hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, thực tế thì khách hàng đi thuê
chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng.
 Hàng hóa trên thị trường cho thuê tài chính
Thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Hiện nay, tài sản cho thuê tài chính chủ
yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so
với nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ
cũng chỉ đáp ứng được 34% so với nhu cầu của nền kinh tế. Máy móc, thiết bị của
một ngành khác được tài trợ bằng phương thức thuê tài chính như thiết bị ngành in,
máy móc công trình sử dụng cho hoạt động xây dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ
trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh tế.
Mặt khác tài sản cho thuê chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết
bị… có chất lượng và mức độ công nghệ có trình độ trung bình, dây chuyền công
nghệ cao và máy móc thiết bị hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng thấp trong
hoạt động cho thuê của các công ty CTTC. Các công ty CTTC chưa áp dụng tài sản
cho thuê là bất động sản.
 Phương thức cho thuê tài chính
Tuy có nhiều phương thức giao dịch cho thuê tài chính nhưng trên thị trường cho
thuê tài chính Việt Nam hiện nay phổ biến có 3 phương thức:
- Phương thức giao dịch CTTC 3 bên.Phương thức giao dịch CTTC 2 bên.
- Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại (bán và tái thuê).

 Giá cả cho thuê tài chính

Giá cả CTTC hiện nay thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, chưa
hấp dẫn được các khách hàng thuê. Lãi suất CTTC cao hơn so với lãi suất cho vay


trung dài hạn từ 20% đến 25% và cao hơn 10% nếu tài sản được mua sắm trực tiếp
từ nhà sản xuất.

3.Cơ hội và thách thức
3.1. Cơ hội
- Mặc dù cho thuê tài chính đã xuất hiện ở Việt Nam trên 10 năm nhưng vẫn chưa
có những văn bản luật cũng như chính sách đồng bộ nhằm khuyến khích loại hình
này thực sự phát huy hết hiệu quả. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã biết đến loại hình dịch vụ này và đã bắt đầu sử
dụng cho thuê tài chính như một công cụ tài chính phục vụ nhu cầu phát triển kinh
doanh của mình.
- Đặc biệt trong vòng từ hai đến ba năm trở lại đây khi nền kinh tế Việt Nam thực
sự chuyển mình và trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư thì cho thuê
tài chính đã có cơ hội để thể hiện hết những ưu điểm của mình. Cũng như nhiều
ngành nghề khác, ngành cho thuê tài chính đang chứng kiến những cơ hội ngàn
năm có một để phát triển lên một tầm cao mới.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã là động cơ thúc đẩy các doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, hiện đại hóa các dây chuyền và công nghệ sản
xuất sẽ làm cho thị trường cho thuê tài chính của Việt Nam phát triển nhanh trong
một vài năm tới đây
- Hơn thế nữa để nâng cao tính chuyên môn hóa trong các dịch vụ của ngân hàng
và giảm thiểu rủi ro thì các Ngân hàng Thương mại sẽ tiến tới việc tập trung phát
triển các dịch vụ của mình và chuyển dần hoạt động cho vay đầu tư thiết bị cho các
công ty cho thuê tài chính trực thuộc sẽ là động lực cho sự phát triển của ngành

cho thuê tài chính của Việt Nam
- Thêm vào đó với sự hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam cũng như việc cải cách
chu trình cấp giấy phép kinh doanh, trong vòng 5 năm tới số lượng doanh nghiệp
mới thành lập sẽ ra tăng nhanh chóng và đây chính là nhân tố kích thích sự tăng
trưởng của thị trường cho thuê tài chính Việt Nam.
3.2.Thách thức
Thứ nhất là việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó
pháp luật Việt Nam quy định số vốn đầu tư cho các DN đi vay không được vượt
quá 30% vốn điều lệ của công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản


trở cho hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC. Bởi vì với quy định như trên
phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các DN có quy mô vừa và nhỏ. Việc huy động
được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của các công ty CTTC là rất khó khăn
trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần như không thực
hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Thứ hai, hoạt động CTTC của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh
mún chưa có định hướng chiến lược phát triển trong tương lai, trong đó vấn đề nhu
cầu thị trường chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy
động vốn. Không những thế hoạt động thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn khá
đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và phần lớn các công ty CTTC đều chưa
thành lập được hệ thống các chi nhánh. Điều đó cũng giải thích tại sao tuy ra đời từ
khoảng năm 1997 nhưng đến nay cả nước mới chỉ có 9 công ty CTTC.
Thứ ba,các công ty CTTC chưa thiết lập được một mối quan hệ sâu rộng đến
các cơ sở cung ứng máy móc, thiết bị...Và đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu
những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều
này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường.
Thứ tư, việc phân biệt giữa giao dịch CTTC và các giao dịch cho thuê thông
thường khác (cho thuê vận hành) chưa thật sự rõ ràng. Hoạt động CTTC là hình
thức tín dụng trung và dài hạn thông qua hợp đồng CTTC, còn hợp đồng cho thuê

vận hành là hình thức tín dụng ngắn hạn thông qua hợp đồng cho thuê tài sản. Nếu
hợp đồng cho thuê tài sản nào không đáp ứng được yêu cầu của CTTC thì được
xem là hợp đồng cho thuê vận hành. Với quy định như vậy hợp đồng cho thuê vận
hành của các công ty CTTC chịu sự quản lý của NHNN còn có rất nhiều các DN
khác cho thuê vận hành tài sản có giá trị rất lớn nhưng lại không chịu sự quản lý
như tren
Thứ năm là thị trường CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến. Có thể nói
mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng nhìn chung
các công ty CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt
Nam hiện nay rất nhiều DN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc
thiết bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này
lại tìm đến ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để
được vay vốn khó hơn rất nhiều. Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay
đổi của các DN ở Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh
doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt Nam.
Đặc biệt pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định đối tượng CTTC là các
máy móc...và các động sản khác chứ chưa quy định đối tượng cho thuê là các bất
động sản. Điều này trái với thông lệ quốc tế và nhu cầu của thị trường, vì thế chúng
ta cần nhanh chóng nghiên cứu và điều chỉnh những quy định này.



×