Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tài liệu cho vay tiêu dùng và bao thanh toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.41 KB, 19 trang )

Cho vay tiêu dùng và bao thanh toán
A. TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
I.

Khái niệm
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay nhằm đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu và mua sắm tiện nghi sinh hoạt
gia đình nhằm nâng cao đời sống dân cư. Khách hàng vay là người có thu nhập không cao nhưng ổn
định, chủ yếu là công nhân viên chức, hưởng lương và có việc làm ổn định và số lượng khách hàng thì
rất đông.

II.

Đặc điểm của cho vay tiêu dùng.
+ Về mục đích vay: thì cho vay tiêu dùng chỉ tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân chứ không phải tài
trợ cho nhu cầu kinh doanh, sản xuất.
+ Về đối tượng vay: các cá nhân và hộ gia đình là khách hàng của loại hình cho vay tiêu dùng trong
khi đó cho vay kinh doanh lại là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
+ Về nguồn trả nợ: nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng là các tài sản thế chấp hay các khoản thu nhập
có được khác như: lương, thưởng, bán cổ phiếu, bán nhà, bán quyến sử dụng đất... còn đối với cho vay
kinh doanh thì nguồn trả nợ là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
+ Về rủi ro: với phương thức cho vay tiêu dùng thì nó chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong danh mục các
tài sản của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là vì nguồn trả nợ là thu nhập thường xuyên của người vay. Mà
những khoản thu nhập này lại phụ thuộc vào sức khỏe và công việc của người vay. Do đó khi bị mất
việc hoặc ốm đau, tai nạn... người vay khó có thể trả được nợ. Hơn nữa việc thẩm định khả năng trả nợ
của cá nhân và hộ gia đình cũng khó khăn khăn hơn. Bởi đối với các hãng kinh doanh, ngân hàng có
thể thẩm định khả năng trả nợ thông qua các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập, còn đối với
người tiêu dùng thì ngân hàng chỉ có thể dựa vào tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác.
Để có được khoản vay, khách hàng có thể giấu các thông tin về tình hình sức khoẻ và công việc trong
tương lai của mình nên các ngân hàng rất khó xác định được rủi ro khi cho vay tiêu dùng.
Việc cho vay tiêu dùng phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng ổn định về thu nhập và đảm bảo việc làm
bởi nó cho phép người tiêu dùng mua được hàng hoá và dịch vụ ngày hôm nay dựa trên thu nhập của


ngày mai. Vì vậy khi nền kinh tế có xu hướng mở rộng thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng cao và ngược lại
khi nền kinh tế suy thoái nhu cầu vay tiêu dùng cũng bị giảm sút theo.
Lý do giải thích cho việc tại sao lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn các khoản cho vay khác của
ngân hàng! Đó là để bù đắp cho chi phí ( về thời gian và nhân lực để thẩm định, quản lý các khoản vay
với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn, chi phí trên một đơn vị cho vay lớn ) và rủi ro cao mà ngân hàng có
thể gặp phải khi cho vay tiêu dùng.
Bởi vì các khoản cho vay tiêu dùng có tỷ lệ rủi ro cao nhất nên các ngân hàng thường yêu cầu phải có
tài sản bảo đảm khi vay và yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm cho
hàng hoá đã được mua bởi khoản vay.
Thêm một đặc điểm khác của cho vay tiêu dùng là người vay thường chỉ vay một lần, ít khi có nhu cầu
vay lại; không giống như các khoản cho vay thương mại: nhu cầu phát sinh theo chu kỳ sản xuất kinh
1


doanh, lặp đi lặp lại. Do đó nếu không có các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng thì ngân hàng sẽ
dần mất đi nguồn khách hàng tiềm năng này.
+ Về quy mô khoản vay: hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị không lớn trừ những khoản
vay để mua quyền sử dụng đất, mua nhà, mua ôtô sang trọng, đi du học, mua sắm những đồ dùng xa xỉ
nhưng số lượng các món vay tiêu dùng lại khá nhiều( vì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng).
+ Lãi suất cho vay tiêu dùng : Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định
mức lãi suất phù hợp với khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà phần lớn lãi suất được xác định dựa
trên lãi suất cơ bản ,phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro,công thức tính tổng quát như sau:
Lãi
suất
CVTD

=

Chi phí
huy động

vốn

+

Chi phí
huy động
khác

+

Rủi ro
tổn thất
chủ kiến

+

Phần bù khấu hao
với các khoản cho +
vay dài hạn

Lợi
nhuận
cận biên

Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất các loại cho vay trong các lĩnh vực
khác.Ngoài ra chi phí của nó cũng thường cao hơn so với các khoản cho vay khác do phải bù đắp rủi
ro có thể xảy ra đối với khoản vay.
Cho vay tiêu dùng từ khi ra đời và phát triển đã đem lại cho các ngân hàng lợi nhuận lớn ,lãi suất cho
vay tiêu dùng thường được cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn hiện
nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất của cho vay tiêu dùng đã có

sự thả nổi nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn .Khi đưa ra mức lãi suất cho vay cố định đó ,các
ngân hàng thường phải dự tính đến yếu tố lãi suất huy động đầu vào sẽ thay đổi như thế nào để làm căn
xứ đưa ra lãi suất cho vay tiêu dùng .Vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng không linh hoạt như các khoản
cho vay kinh doanh khác . Đây cũng là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất huy động tăng.
Ngoài ra ta có thể thấy nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất .Đối với
đối tượng khách hàng này, điều khiến họ quan tâm hơn hết là số tiền mà họ phải trả hàng tháng hơn là
lãi suất mà họ phải chịu, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô
số tiền phải trả này.
III.

Các loại hình cho vay tiêu dùng
1. Căn cứ mục đích cho vay:

1.1.Cho vay tiêu dùng bất động sản :
Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, cải tạo nhà cho khách hàng (cá
nhân hay hộ gia đình). Đặc điểm của những món vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài. Việc
đánh giá giá trị tài sản tài trợ có vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong cho vay
tiêu dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan trọng để ngân hàng quyết
định có cho vay hay không thì trong cho vay nhà ở, giá trị và tình hình biến động giá của tài sản được
tài trợ là yếu tố mà ngân hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ cho loại tài sản này có giá trị
lớn, nên sự biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ dẫn tới những thiệt hại rất lớn cho ngân hàng.
1.2.Cho vay tiêu dùng thông thường :

2


Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng,
du lịch, học hành, y tế hoặc giải trí ... Đặc điểm của những khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ,
thời gian tài trợ ngắn. Do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản cho vay
tiêu dùng bất động sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định cho vay hay không là khả năng trả

nợ của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị tài sản đảm bảo.
Ví dụ: Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cung cấp sản phẩm vay mua nhà.


Đặc tính:
-

Mức vay lên đến 100% giá trị mua/ nhận chuyển nhượng bất động sản.

- Thời hạn vay tối đa 30 năm.
- Chấp nhận tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành từ vốn vay.


Điều kiện và thủ tục:
- Bản chính giấy đề nghị vay vốn theo mẫu của Sacombank.
-Bản sao CMND/hộ chiếu; Hộ khẩu/Giấy xác nhận tạm trú của người vay và của người hôn phối,
người bảo lãnh (nếu có).
-Chứng từ thể hiện nguồn thu nhập.
-Hồ sơ về bất động sản dự định mua/nhận chuyển nhượng (Hợp đồng mua bán, hợp đồng đặt cọc, bảng
báo giá, ...)
-Hồ sơ tài sản bảo đảm.

2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả:

3


2.1. Cho vay trả góp:
- KN: Là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng nhiều lần theo kì
hạn nhất định trong thời hạn cho vay.Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay không đủ

khả năng thanh toán hết 1 lần số nợ vay.
-

Khi cho vay trả góp cần quan tâm tới các vấn đề:

+Số tiền phải trả trước:Khi mua tài sản ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải thanh toán trước 1
phần giá trị tài sản nhằm hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.Số tiền trả trước ít hay nhiều phụ thuộc vào loại
tài sản thị trường tiêu thụ về tài sản đó ngay sau khi sử dụng
+Chi phí tài trợ: Chi phí này phải được trang trải được chi phí vốn, rủi ro.
+Điều khoản thanh toán:Số tiền thanh toán mối kì giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn
số tiền tài trợ còn lại,kỳ hạn phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng, thời hạn tài trợ không quá
dài.
+Số tiền khách hàng phải trả thanh toán cho NH phải phù hợp với khả năng về thu nhâp,hài hòa với
các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
2.2. Cho vay từng lần:
Vay từng lần, hay còn gọi là vay theo món là hình thức vay, theo đó người vay sẽ phải làm hồ sơ vay
vốn cho từng lần vay với lãi suất, thời hạn trả tiền và số tiền vay xác định. Ưu điểm của hình thức này
là thủ tục rõ ràng,ngân hàng chủ động trong việc cho vay. Nhưng nhược điểm là thủ tục rường rà,
doanh nghiệp không linh động trong việc sử dụng vốn do phải lập hồ sơ cho từng lần vay, chỉ thích hợp
với doanh nghiệp có nhu cầu vốn không định kì. Nhìn chung, hình thức này rất phổ biến ở Việt Nam vì
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả,không cần vốn thường xuyên, trong khi ngân hàng với nghiệp
vụ chưa cao nên cho vay theo hình thức này ít rủi ro hơn.
2.3. Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Vay hạn mức tín dụng: người vay chỉ lập hồ sơ 1 lần cho nhiều khoảng vay, ngân hàng cấp cho khách 1
hạn mức, chỉ giới hạn dư nợ, không giới hạn doanh số. ví dụ, vay hạn mức 50tr 1 tháng, bạn có thể vay
tối đa 50tr, nếu trả 20tr trong tháng có thể vay tiếp 30tr, miến sao số dư cuối tháng không vượt quá 50tr.
Đây là hình thức vay tiên tiến, có nhiều ưu điểm, lợi ích cho doanh nghiệp như chủ động vốn, thủ tục
đơn giản...nhưng không phổ biến ở Việt nam do các doanh nghiệp không có nhu cầu vốn thường
xuyên, hành lang pháp lí chưa chặt chẽ dẫn đến việc ngân hàng khó xử lí trong việc phạt nợ quá hạn...
vì vậy ngân hàng ít cung cấp dịch vụ này.

2.4. Các phương thức cho vay khác:
Tùy theo tình hình thực tế, Ngân hàng còn áp dụng các phương thức cho vay sau: - Cho vay theo
dự án đầu tư. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Cho vay theo hạn
mức tín dụng dự phòng. - Cho vay hợp vốn. - Cho vay theo hạn mức thấu chi. - Các phương thức cho
vay khác.
3. Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ

4


3.1. Cho vay tiêu dùng gián tiếp
-Là hình thức cho vay trong đó NH mua các khoản nợ phát sinh do những công tybán lẻ đã bán chịu
hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng
-Ưu điểm :
+Cho phép NH tăng nhanh về dư nợ cho vay tiêu dùng
+Giúp NH giảm được chi phí trong cho vay tiêu dùng
+Là nguồn gốc của việc mở rộng mối quan hệ với khách hàng và các hoạt độngkhác của NH
+Trong trường hợp có quan hệ với các công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho
vay tiêu dùng trực tiếp
-Nhược điểm
+NH không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu
+Thiếu sự kiểm soát của NH khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa
+Kỹ thuật và nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao
3.2.Cho vay tiêu dùng trực tiếp
-Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp
thu nợ từ người này
-Ưu điểm
+NH có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng vì quyết định của nhân viên tín dụng NH
thường có chất lượng cao hơn nhân viên tín dụng của cửa hàng bán lẻ. Ngoài ra trong hoạt động của
mình nhân viên tín dụng NH có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có chất lượng

cao trong khi nhân viên của công ty bán lẻ thường chỉ chú trọng đến việc bán được nhiều hàng .Bên
cạnh đó tại các điểm bán hàng các quyết định tín dụng thường đưa ra rất vội vàng
+Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp
+Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với NH có rất nhiều lợi thế phát sinh có khả năng làm thỏa mãn
quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lấn NH.
4. Dựa vào tài sản đảm bảo
4.1. Cho vay có tài sản đảm bảo.
Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên các bảo đảm như thế chấp, cầm cố, kí quỹ, đặt
cọc, kí cược hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm cho phép các ngân hàng cóđược nguồn thu
nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất từ quá trình sản xuất kinh doanh của
khách hàng không đủđể trả nợ ngân hàng. Hình thức này thường áp dụng với các khách hàng chưa có
uy tín, hoặc uy tín không cao đối với ngân hàng.
4.2. Cho vay tín chấp( không cần tài sản đảm bảo)

5


Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 sửa đổi khoản 2, điều 52
như sau: “Tổ chức tín dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không
có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình…”. Như vậy, có thể kết luận rằng, trước ngày 01/10/2004, cho vay tín
chấp chưa được thừa nhận trong hệ thống pháp luật về tín dụng, ngân hàng ở nước ta.Vay tín chấp là
hình thức vay tiền ngân hàng và các tổ chức tín dụng được bảo đảm bằng sự tín nhiệm, không cần có
tài sản thế chấp.Tất nhiên, tài sản thế chấp được đề cập ở đây là một tài sản hữu hình hoặc một bất
động sản đầu tư. Khái niệm trên cho thấy, vay tín chấp không phải là việc cho vay không có bảo đảm
mà cao hơn, tài sản bảo đảm là sự tín nhiệm giữa người cho vay (các ngân hàng, tổ chức tín dụng) và
người vay, thông thường là các doanh nghiệp. Từ những phân tích trên, có thể thấy,
vay tín chấp có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, vay tín chấp không thể thực hiện được trong giai đoạn đầu của mối quan hệ giữa người cho vay
và người vay. Để có được sự tín nhiệm, quan hệ vay – cho vay phải trải qua một thời gian nhất định.

Hai là, thế chủ động trong việc quyết định cho vay tín chấp thuộc về người cho vay. Bởi lẽ, khi và chỉ
khi người cho vay có được độ tin cậy rất cao đối với người vay mới có thể quyết định cho vay tín chấp.
Ba là, người vay (các doanh nghiệp) đóng một vai trò to lớn trong quá trình tạo ra sự tín nhiệm để có
thể vay tín chấp. Trong nhiều trường hợp, chính hoạt động kinh doanh có hiệu quả và sự minh bạch của
doanh nghiệp lại là nhân tố quyết định để ngân hàng và các tổ chức tín dụng quyết định cho vay tín
chấp.
Bốn là, sự tín nhiệm (“tài sản” đảm bảo tiền vay) lại là loại tài sản vô hình, không thể đem đấu giá để
thu hồi vốn cho vay. Vì vậy, quyết định cho vay tín chấp của các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần đặc
biệt cẩn trọng và vì vậy, khó khăn là lẽ đương nhiên.
Trên thực tế, thường thì các ngân hàng phân loại sản phẩm cho vay tiêu dùng của mình theo hình thức
này. Cũng có thể kết hợp chia nhỏ các sản phẩm tín dụng ra thành nhiều loại.
Và cũng tùy vào cách phân loại của từng ngân hàng mà có những sản phẩm cho vay tiêu dùng khác
nhau. Ví dụ techcombank có các loại sản phẩm: cho vay tiêu dùng( cho vay tiêu dùng trả góp không có
tài sản đảm bảo, ứng trước tài khoản cá nhân có tài sản đảm bảo và không có tài sản đảm bảo,vay
nhanh bằng cầm cố chứng từ có giá, cho vay du học)
IV.

Quy trình cho vay tiêu dùng
Quy trình cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại gồm các bước sau

đây:

+ Tiếp nhận hồ sơ tín dụng và kiểm tra các thông tin khách hàng đưa ra trên hồ sơ
+ Thẩm định tín dụng
+ Xét duyệt và quyết định cho vay
+ Hoàn tất các thủ tục pháp lý trước khi giải ngân
+ Kiểm tra sau khi giải ngân và phát hiện nhu cầu mới của khách hàng
+ Thu nợ và xử lý nợ quá hạn.

6



Cụ thể chúng ta tìm hiểu ví dụ về quy trình cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam:
"Quy trình nghiệp vụ Tín dụng khách hàng cá nhân" do Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương ban
hành ngày 31/12/2001 quy định về quy trình xử lý các bước trong một quá trình cấp tín dụng cho một
khách hàng cá nhân nhằm đảm bảo tính chất nhất quán trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, tuân thủ các
quy định của pháp luật.
Qui trình cho vay đối với các món vay tiêu dùng gồm 8 bước và được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Tiếp nhận, thẩm định và xét duyệt khoản vay.
- Bước1: Tìm kiếm, tiếp nhận nhu cầu, thông báo cho khách hàng biết các chính sách cho vay mà SGD
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện đang áp dụng, tư vấn hồ sơ và hướng dẫn khách hàng lập hồ
sơ vay vốn. Bộ hồ sơ vay vốn bao gồm các tài liệu được phân nhóm sau:
+ Hồ sơ pháp lý
+ Hồ sơ khoản vay
+ Hồ sơ tài sản đảm bảo
+ Các hồ sơ khác có liên quan.
- Bước2: Thẩm định khoản vay.
+ Thẩm định khách hàng: Thẩm định năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, tư cách người
vay.
+ Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, ngành kinh doanh: mục đích vay vốn, tính khả thi, hiệu
quả; nguồn trả nợ, khả năng trả nợ.
+ Thẩm định nguồn trả nợ và khả năng trả nợ.
+ Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay: thẩm định tài sản đảm bảo, điều kiện tài sản đảm bảo và giá trị
tài sản đảm bảo, xác định các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Sau đó, CBTD lập tờ trình thẩm định. Nếu không đủ điều kiện cho vay thì cũng không báo ngay cho
khách hàng bằng văn bản.
Cán bộ hỗ trợ tín dụng kiểm tra lại điều kiện, hồ sơ vay vốn của khách hàng, chấm lại điểm tín nhiệm
khách hàng và nêu ý kiến khác (nếu có).
- Bước3: Trình duyệt hồ sơ vay vốn và phán quyết cho vay.

CBTD tiếp nhận hồ sơ và trình hồ sơ vay vốn cho trưởng phòng Khách hàng cá nhân/ Giám đốc chi
nhánh cấp 1,2 lấy ý kiến về khoản vay. Mức phán quyết và thẩm quyền ký duyệt tín dụng sẽ được
HĐQTT và Tổng giám đốc ban hành theo từng thời kỳ áp dụng đối với mỗi đơn vị cho vay.
+ Đồng ý cho vay: Giám đốc đơn vị cho vay ghi rõ đồng ý cho vay, các điều kiện cho vay (nếu có), có
thể ghi thêm yêu cầu về điều kiện trước khi giải ngân.

7


+ Yêu cầu tái thẩm định: Một số trường hợp nhằm tăng độ tin cậy của các nội dung cần thẩm định
Giám đốc đơn vụ cho vay có thể yêu cầu chuyển qua Phòng quản lí tín dụng các cấp thực hiện tái thẩm
định.
+ Từ chối cho vay: Trong trường hợp này, Giám đốc đơn vị cho vay ghi rõ lý do không đồng ý cho vay
và chuyển lại cho CBTD để lập thông báo gửi khách hàng.
Giai đoạn 2: Thực hiện cho vay.
- Bước 4: Lập, đàm phán và kí kết các hợp đồng liên quan đến việc cấp tín dụng.
Khi khoản vay được phê duyệt đồng ý cho vay cùng các điều kiện có liên quan, CBTD tiến hành soạn
thảo các hợp đồng và giấy tờ liên quan đến giải ngân.
+ Hợp đồng tín dụng.
+ Hợp đồng thế chấp/ Cầm cố/ Bảo lãnh bằng tài sản.
+ Giấy đề nghi vay vốn kiêm khế ước nhận nợ.
Trường hợp có phản hồi từ khách hàng về việc không đồng ý hoặc không rõ các điều khoản trong hợp
đồng thì CBTD trao đổi thêm với khách hàng để làm rõ, nếu khách hàng chưa đồng ý thì báo cáo
trưởng phòng khách hàng cá nhân giải quyết.
Đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản thế chấp, cầm cố trong trường hợp thoả thuận là Ngân hàng đăng
ký.
Giám đốc đơn vị cho vay ký hợp đồng.
Giao nhận giấy tờ, tài sản bảo đảm tiền vay.
- Bước 5: Kiểm tra hồ sơ giải ngân và trình duyệt giải ngân.
- Bứoc 6: Giải ngân.

Sau khi hồ sơ tín dụng đã hoàn tất, các bộ phận liên quan tiến hành thực hiện việc cấp tín dụng cho
khách hàng phù hợp với quyết định của ban tín dụng.
- Bước 7: Giám sát và theo dõi khoản vay.
Cán bộ hỗ trợ tín dụng thường xuyên quản lý, theo dõi khoản vay trên máy tính và trên sổ theo dõi
khách hàng để cập nhật thông tin và đôn đốc khách hàng thực hiện đúng theo các cam kết.
CBTD kiểm tra khách hàng vay vốn, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, tình hình sử dụng vốn vay, tài sản
bảo đảm của khoản vay và các giấy tờ sổ sách có liên quan.
Thu nợ và xử lý các vấn đề phát sinh.
- Bước 8: Tất toán khế ước, thanh lý hợp đồng, giải chấp, lưu hồ sơ.
2.2.1.2. Đối tượng cho vay và điều kiện cho vay.
Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cho vay tiêu dùng đối với tất cả các cá nhân và hộ gia
đình thoả mãn những điều kiện nhất định của ngân hàng. Cụ thể khách hàng vay tiêu dùng tại SGD
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải thoả mãn những điều kiện sau:

8


- Có hộ khẩu thường trú (hoặc diện KT3) tại cùng địa bàn hành chính Tỉnh, thành phốn nơi có trụ sở
hoặc các chi nhánh của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- Cá nhân, chủ hộ hoặc người đại diện cho chủ hộ của hộ gia đình trong giao dịch với SGD Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam phải có đủ năng lực hành vi dân sự.
- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có vốn tự có tham gia vào phương án vay vốn.
- Có nguồn thu ổn định đảm bảo khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Thực hiện việc bảo đảm tiền vay phù hợp với quy định của pháp luật và của Sở giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam.
V.Thực trạng cho vay tiêu dùng của các NHTM
1. Đánh giá thời cơ
* Nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam khá cao và GDP bình quân đầu người đang tăng lên

Năm

2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Tốc độ tăng trưởng(%)

7,04 7,34 7,69 8,4

7,8

8,48 6,23 5,32

GDP bình quân đầu người(USD)

439

754

835

481

514

638

960

9



Dân số Việt Nam hiện nay là 85,8 triệu người, với cơ cấu dân số trẻ: lực lượng lao động chiếm khoảng
2/3 dân số. Theo dự báo của Bộ Thương mại: chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người trên tháng tại
Việt Nam 2006-2010 tăng khoảng 10,57%/năm, đến năm 2010 thì chỉ tiêu này đối với cả nước là
657800 đ/người/tháng, với khu vực thành thị là 1054700đ/người/tháng
* Mặt khác ,tuy có nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng nhưng khách hàng không có đủ khả năng tài chính .
Theo đánh giá của Techcombank, nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm gia dụng như TV, tủ
lạnh, máy giặt, xe máy… là rất lớn do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và tốc độ cải thiện
mức sống. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể có khả năng tài chính để đáp ứng ngay các nhu cầu
này.
Đối với dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, họ không thể đợi cho đến già mới tiết
kiệm đủ tiền để mua nhà, mua ôtô và các đồ dùng gia đình khác. Tín dụng tiêu dùng giúp họ có được
một cuộc sống ổn định ngay từ khi còn trẻ, bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động
lực to lớn để làm việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái
Các lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển sáng sủa:
+ Ô tô: ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ xe ô tô mới đạt 8 xe/1000 dân trong khi đó tại Trung Quốc là 24
xe/1000 dân, Thái Lan là 152 xe/1000 dân. Với đà tăng trưởng kinh tế và lộ trình giảm thuế khi gia
nhập WTO thì chắc chắn nhu cầu mua ô tô sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới.
+Nhà đất: theo quy hoạch tổng thể định hướng phát triển đô thị đến năm 2020 dân số đô thị sẽ chiếm
45% dân số cả nước, dẫn đến nhu cầu nhà ở nhất là ở các thành phố trung tâm sẽ tăng cao.
+Lĩnh vực du học: cùng với sự nâng cao mức sống và dân trí, nhu cầu nhập khẩu dịch vụ du học càng
tăng cao, nhu cầu vay vốn để du học theo đó cũng sẽ tăng
* Cơ chế chính sách đang có những thay đổi có tác động tích cực đến việc phát triển cho vay tiêu
dùng:
Từ giữa năm 2008, khi lạm phát tăng cao và lãi suất biến động mạnh, các ngân hàng thương mại thắt
chặt cho vay tiêu dùng. Sau nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, ngày
23/1/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến đã ký ban hành Thông tư số
01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu
vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Văn bản trên
chính thức tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại nối lại và thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng,

một hoạt động đã bị siết chặt trong hơn nửa năm trước đó.
Hiện Bộ Công Thương đang soạn thảo đề án “Hỗ trợ mua sắm, kích cầu tiêu dùng hàng hóa sản xuất
trong nước”. Theo dự thảo này, một đối tượng chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội là nông dân sẽ được Chính
phủ cho vay với lãi suất ưu đãi để mua hàng trả góp, trả chậm không tính lãi. Chương trình này đề nghị
cho phép sử dụng hình thức tín chấp cho người dân nông thôn vay ưu đãi hoặc thế chấp bằng tài sản
được mua.
* Cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ chuyên môn của hệ thống ngân hàng ngày càng được nâng cao
và hoàn thiện hơn giúp cho ngân hàng có thể đánh giá khách hàng , kiểm soát các khoản vay tốt hơn.
2.Thách thức
10


Hiện nay dư nợ cho vay tiêu dùng bình quân khoảng 900.000 đồng/người, so với thu nhập quốc dân
bình quân đầu người khoảng 17 triệu đồng là rất thấp. Tương tự, tỷ lệ cho vay tiêu dùng chỉ chiếm
6,54%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là quá thấp, hoặc tỷ lệ 4 người trưởng thành mới có 1 tài khoản
ở NH. Điều này cho thấy phần lớn người VN không có quan hệ với NH, nó cũng chứng tỏ hệ thống
thanh toán món nhỏ, lẻ còn rất sơ khai và chi trả tiền mặt của dân cư là rất lớn kể cả tiền điện, nước,
điện thoại, học hành, chữa bệnh. Việc phát triển mở rộng dịch vụ cho vay tiêu dùng của các NHTM còn
gặp phải nhiều khó khăn thách thức:
* Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng còn chưa rộng khắp, chủ yếu tập trung ở Hà Nội,
TP HCM. Ở nhiều nước châu Âu và các thành phố lớn châu Á, bình quân từ 1.000 đến 1.500 dân có
một chi nhánh NHTM là để phát triển hệ thống NH bán lẻ (tín dụng tiêu dùng) trong khi ngay cả
TP.HCM và Hà Nội hiện nay bình quân từ 8.800 đến 10.000 dân mới có một chi nhánh hoặc điểm giao
dịch NH.
* Mặc dù nhu cầu vay tiêu dùng không nhỏ nhưng số lượng người tiêu dùng đáp ứng được các yêu cầu
vay vốn còn ít. Nguyên nhân là do người tiêu dùng không có hộ khẩu hoặc không chứng minh được
nguồn thu. Lãi suất cho vay tiêu dùng hiện ở mức khá là cao: phổ biến ở mức 16 - 21% và điều kiện
cho vay ngặt nghèo. Một số công ty tài chính có “cửa" vay thông thoáng hơn thì lãi suất lên tới… trên
30%, và không phải khách hàng nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vốn.
* Hệ thống quản lý thông tin cá nhân còn kém phát triển, và còn bởi một phần tâm lý e ngại tiết lộ

thông tin của người dân dẫn đến việc ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cá nhân của
khách hàng.
* Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện: một số quy định pháp luật và cơ chế quản lý trong nhiều lĩnh
vực ví dụ như thủ tục cấp sổ đỏ, cấp đăng kí xe ô tô…còn khó khăn, phức tạp, gây tâm lý e ngại cho
người tiêu dùng và khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định tài sản đảm bảo.
* Môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển ổn định: giá cả hàng hóa, nhà đất, ô tô thay đổi biến động
liên tục. Lãi suất cũng lên xuống thất thường, trong khi các khoản vay tiêu dùng chủ yếu là trung dài
hạn.
* Môi trường VH-XH:
+ Tâm lý của người dân vẫn e ngại vay nợ ngân hàng, thường vay anh em họ hàng hoặc ngoài chợ đen.
+Thói quen dùng tiền mặt mà chưa quen thanh toán bằng thẻ, qua Internet. Ít doanh nghiệp trả lương
qua tài khoản (trong khi đây là điều kiện bắt buộc với một số hình thức cho vay)
B. TỔNG QUAN VỀ BAO THANH TOÁN

I. Những lý luận chung về bao thanh toán
1. Khái niệm (điều 2 chương 1)
- Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thoả thuận trong hợp đồng
mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

11


- Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng
cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
2. Các chủ thể tham gia trong hoạt động BTT
- Đơn vị bao thanh toán – Factor: là người thực hiện việc mua bán các khoản nợ và các dịch vụ khác
liên quan đến mua bán nợ, bao gồm: ngân hàng(Ngân hàng thương mại nhà nước;Ngân hàng thương
mại cổ phần; ;Ngân hàng liên doanh ;Ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam theo Luật

Tổ chức tín dụng;Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;) và Công ty tài chính;Công ty cho thuê tài chính
- Người bán - Client, Seller, Exporter: là các đơn vị sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ, là người sở
hữu hợp pháp những khoản nợ chưa đến hạn thanh toán
- Người mua - Debtor, Buyer, Importer: là các đơn vị sản xuất kinh doanh, đó chính là người mua hàng
hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng, là người phải trả cho các khoản nợ
3. Phân loại ( điều 11 chương 2)
a. Theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro
- Bao thanh toán truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng
khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
- Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng
không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền
đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán khoản
phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì
một lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng.
b. Theo phạm vi thực hiện
- Bao thanh toán trong nước: Bao thanh toán trong nước là loại hình BTT dựa trên hợp đồng mua bán
hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là những đơn vị cư trú trong nước.
- Bao thanh toán xuất nhập khẩu: Bao thanh toán xuất nhập khẩu là loại hình BTT dựa trên hợp đồng
xuất nhập khẩu hàng hóa, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là những đơn vị cư trú ở hai quốc
gia khác nhau.
4. Phương thức bao thanh toán
- Bao thanh toán từng lần: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và ký
hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu của bên bán hàng.
- Bao thanh toán theo hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận và xác định một hạn
mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện hoạt động bao thanh toán
cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ
chức đồng bao thanh toán.
5. Lợi ích và hạn chế
a. Lợi ích

12


*Về phía người bán
- Người bán có thể thu tiền ngay thay vì phải đợi tới kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng.
- Tăng lợi thế cạnh tranh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh hưởng
đến nguồn vốn kinh doanh của mình.
- Được sử dụng khoản phải thu đảm bảo cho tiền ứng trước, do đó tăng được (một cách gián tiếp)
nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính vì dự đoán được dòng tiền vào.
- Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi thu hồi các khoản trả chậm này.
- Tiện ích của dịch vụ BTT rất quan trọng đối với nhà sản xuất, bởi hiện nay các nhà nhập khẩu qui mô,
ưu thế chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến
các DN VN dễ mất đơn hàng xuất khẩu nếu không có khả năng về vốn. Còn nếu chấp nhận hình thức
trả sau, DN sẽ khó khăn trong việc quay vòng vốn, nhất là những đơn vị xuất khẩu các mặt hàng luôn
biến động giá như cà phê, gạo, tiêu . . . Trong khi đó, NH cũng không dễ cho DN kéo dài thời gian
thanh toán nếu thanh toán theo phương thức trả sau. Vì thế, dịch vụ BTT xuất khẩu ra đời sẽ giúp DN
giải quyết được những khó khăn này.
- Đa phần các DN vừa và nhỏ rất thích dịch vụ BTT, bởi thông thường những DN này có tổng tài sản
không lớn nên rất khó để NH xem xét các hạn mức tín dụng. Với BTT họ dễ dàng được cấp hạn mức
tín dụng hơn.
- Các DN khi đã biết về dịch vụ bao thanh toán thường rất thích sử dụng vì BTT có nhiều hình thức
khác nhau, rất đa dạng để phục vụ cho các DN. Các DN có thể sử dụng các hình thức như : BTT chiết
khấu hóa đơn, BTT trung gian, BTT đến hạn, BTT thu hộ, BTT truy đòi, BTT miễn truy đòi.
- Phạm vị hoạt động BTT cũng rất đa dạng : Về địa lý thì có BTT trong nước và BTT quốc tế; Trong
hoạt động xuất nhập khẩu thì có BTT xuất khẩu và BTT nhập khẩu; Có BTT số lượng hóa đơn của
người bán hoặc BTT toàn bộ hay BTT một phần; Có BTT kín và BTT công khai... Khách hàng có thể
sử dụng BTT trực tiếp và BTT hệ hai đại lý, hay khách hàng cũng có thể sử dụng liên kết của các hợp
đồng BTT với BTT giáp lưng. Phương thức BTT từng lần hoặc BTT theo hạn mức.
-đặc biệt 1 số NHTM ở VIệt Nam không yêu cầu tài sản bảo đảm đối với bao thanh toán trong nước

như ACB ,Sacombank…
* Về phía NH
- Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng
- So với việc cấp hạn mức tín dụng,NH thích làm dịch vụ BTT hơn. Vì nếu cấp vốn lưu động cho DN,
NH phải giám sát rất vất vả, trong khi với BTT các khoản phải thu rất rõ, việc sử dụng cũng đã rõ, các
DN đã chứng minh với NH về uy tín trên thị trường khi đã bán được hàng.
- Có thể nói , bao thanh toán là loại dịch vụ cả hai bên cùng có lợi. Nhưng DN có lợi hơn NH. Khi cung
cấp dịch vụ này NH phải gánh chịu về mình những rủi ro khi người mua mất khả năng thanh toán. Do
vậy, NH phục vụ người bán, nhà xuất khẩu, nếu không chắc chắn về khả năng tài chính của người mua
thường hay tư vấn cho khách hàng của mình tới NH phục vụ người mua, nhà nhập khẩu yêu cầu dịch
13


vụ bao thanh toán. Những NH thực hiện dịch vụ BTT cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng
nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm
b. Hạn chế:
- Người mua phải chấp nhận một mức giá mua hàng hóa cao hơn so với các phương thức khác.
- Người mua phải thanh toán cho đơn vị BTT khi hai bên không có quan hệ hợp đồng ràng buộc.
- BTT là hình thức tài trợ dựa trên hóa đơn và hợp đồng mua bán hàng hóa nên dễ dẫn tới trường hợp
giả mạo
III. Hợp đồng BTT
1. Khái niệm( theo điều 21 chương III)
-

Hợp đồng bao thanh toán là văn bản thoả thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng về việc
mua lại các khoản phải thu phù hợp với các quy định của pháp luật.

-

Hợp đồng bao thanh toán có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nếu các bên liên quan có thoả

thuận

2. Nội dung hợp đồng BTT ( điều 22 chương III)

Hợp đồng bao thanh toán bao gồm các nội dung chính sau:
1.

Tên, địa chỉ, điện thoại, Fax… của các bên ký hợp đồng bao thanh toán;

2. Giá trị các khoản phải thu được bao thanh toán, quyền và lợi ích liên quan đến khoản phải thu theo
hợp đồng mua, bán hàng;
3.

Lãi và phí bao thanh toán;

4. Giá mua, bán khoản phải thu: được xác định trên cơ sở giá trị khoản phải thu sau khi trừ đi lãi và
phí bao thanh toán.
5.Số tiền ứng trước và phương thức thanh toán;
6.Thông báo về việc bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có liên quan;
7.Hình thức bảo đảm cho đơn vị bao thanh toán truy đòi lại số tiền đã ứng trước, giá trị tài sản làm bảo
đảm;
8.Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán;
9.Quyền và nghĩa vụ của các bên;
10.Phương thức chuyển giao hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng, quyền, lợi ích và các giấy tờ
liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán;
11.Quy định về việc truy đòi của đơn vị bao thanh toán;
12.Giải quyết tranh chấp phát sinh;
13. Các thoả thuận khác
IV. Quyền và nghĩa vụ của các bên


14


1. Quyền và nghĩa vụ của đơn vị BTT( điều 23 chương 4)
1.1 Quyền của đơn vị bao thanh toán:
a. Được yêu cầu bên bán hàng cung cấp các thông tin và tài liệu liên quan đến khoản phải thu, khả năng
tài chính và tình hình hoạt động của bên bán hàng;
b. Được yêu cầu bên bán hàng chuyển giao toàn bộ bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán
hàng, quyền, lợi ích và các giấy tờ có liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán;
c. Có quyền đòi nợ đối với bên mua hàng theo giá trị khoản phải thu được bao thanh toán và được
hưởng các quyền và lợi ích khác mà người bán hàng được hưởng theo quy định tại hợp đồng mua, bán
hàng;
d. Được chuyển quyền đòi nợ, trừ trường hợp các bên trong hợp đồng bao thanh toán có thoả thuận
không được chuyển giao quyền đòi nợ.
1.2. Nghĩa vụ của đơn vị bao thanh toán:
a. Thông báo cho bên mua hàng và các bên có liên quan theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 13 của
Quy chế này;
b. Thanh toán cho bên bán hàng theo giá mua khoản phải thu đã được thoả thuận trong hợp đồng bao
thanh toán;
c. Chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải
thu trong trường hợp thực hiện bao thanh toán không có quyền truy đòi.
d. Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
2. Quyền và nghĩa vụ của bên bán hàng( điều 24 chương 4)
2.1. Quyền của bên bán hàng:
Nhận tiền thanh toán của đơn vị bao thanh toán theo giá mua, bán khoản phải thu đã thoả thuận trong
hợp đồng bao thanh toán;
2.2. Nghĩa vụ của bên bán hàng:
a. Cung cấp đầy đủ, chính xác và trung thực thông tin, tài liệu và báo cáo theo yêu cầu của đơn vị bao
thanh toán;
b. Thông báo cho bên mua hàng và các bên có liên quan theo quy định tại điểm d, khoản 1, của Quy

chế này;
c. Chịu rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu
trong trường hợp bao thanh toán có quyền truy đòi.
d. Chuyển giao đầy đủ và đúng hạn cho đơn vị bao thanh toán hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán
hàng, quyền, lợi ích và các giấy tờ khác có liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán theo thoả
thuận trong hợp đồng bao thanh toán;
e. Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán và hợp đồng
mua, bán hàng.
15


3. Quyền và nghĩa vụ của bên mua hàng( điều 25 chương IV)
3.1. Quyền của bên mua hàng:
a. Được thông báo về việc bao thanh toán;
b. Không thay đổi về quyền lợi và nghĩa vụ quy định tại hợp đồng mua, bán hàng, ngoại trừ bên nhận
tiền thanh toán khoản phải thu. Việc điều chỉnh các điều khoản quy định tại hợp đồng mua, bán hàng
phải được bên mua hàng chấp thuận bằng văn bản.
3.2. Nghĩa vụ của bên mua hàng:
a. Xác nhận bằng văn bản về việc đã nhận được thông báo và cam kết thanh toán theo quy định tại
điểm đ, khoản 1, Điều 13; trường hợp từ chối thanh toán phải có lý do xác đáng và phải thông báo bằng
văn bản ngay cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán.
b. Thanh toán cho đơn vị bao thanh toán theo đúng các điều khoản quy định tại hợp đồng mua, bán
hàng.
c. Không được đòi lại số tiền đã thanh toán cho đơn vị bao thanh toán trong trường hợp bên bán hàng
không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ các điều khoản quy định tại hợp đồng mua, bán
hàng, trừ trường hợp đơn vị bao thanh toán cố tình thanh toán khoản chi trả của bên mua hàng cho bên
bán hàng sau khi đã được bên mua hàng thông báo về việc bên bán hàng có hành vi vi phạm hợp đồng
mua, bán hàng.
V. Phân biệt bao thanh toán với nghiệp vụ cho vay đảm bảo các khoản phải thu và nghiệp vụ chiết
khấu thương phiếu

a. Bao thanh toán và nghiệp vụ cho vay đảm bảo các khoản phải thu
Đặc điểm:
- Thời gian cho vay: Thời hạn cho vay phụ thuộc vào khoản phải thu của khách hàng.
- Mức cho vay: Tùy vào nhu cầu, khả năng trả nợ của khách hàng và kết quả thẩm định của ngân hàng.
- Lãi suất: Theo lãi suất quy định hiện hành của ngân hàng.
- Phương thức trả nợ: Theo loại hình cho vay và phù hợp với điều kiện khách hang.
b. Bao thanh toán và nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại, thực hiện bằng việc
ngân hàng mua lại thương phiếu chưa đáo hạn của khách hàng. Đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng này là
khoản lãi phải trả ngay khi nhận vốn. Do đó, khoản lợi tức này sẽ được khấu trừ ngay tại thời điểm
chiết khấu.
-Bản chất:
+ Chiết khấu thương phiếu(CKTP):là hình thức tài trợ vốn thuần túy thông qua hành vi mua bán khoản
nợ.
+ Còn Bao thanh toán(BTT) là kết hợp của tài trợ vốn ,dịch vụ giữ sổ sách và thu nợ.
-Chứng từ :
16


+ CKTP: Các khoản nợ được ghi trên thương phiếu, được chuyển nhượng.
+ còn BTT ghi trên hóa đơn, chứng từ ghi sổ, không được chuyển nhượng.
-Khả năng đảm bảo thanh toán:
+ CKTP: khoản nợ thoát ly khỏi GD cơ sở ban đầu,có nhiều người liên đới chịu trách nhiệm trả nợ.
+ Còn BTT:món nợ luôn gắn với 1 GD hàng hóa cụ thể,có 2 chủ thể liên đới chịu trách nhiệm trả nợ
(người mua và người bán).
-Kỷ thuật tài trợ :
+CKTP: tính phần NH hưởng và trừ đi khỏi giá trị chứng từ và chuyển giao cho khách hàng phần còn
lại.
+ BTT: ứng trước 1 tỷ lệ/giá trị chứng từ cho KH.sau khi khoản nợ thanh toán,thu lãi và chi phí chuyển
phần chênh lệch còn lại cho KH.

-Phương thức:
+ CKTP:thực hiện cho từng GD.
+ BTT:có thể thực hiện từng lần hoặc theo hạn mức.
-Lãi và Phí:
+ CKTP: tính trên GT khoản phải thu, thời gian tài trợ và lãi suất tái chiết khấu nên lãi suất hiệu dụng
cao hơn lãi suất chiết khấu.
+ BTT: lãi tính trên số tiền ứng trước, thời gian tài trợ và lãi suất.Phí tính trên giá trị khoảnphải thu.
-Quyền truy đòi:
+ CKTP :Được quyền truy đòi theo pháp luật.
+ BBT:có thể truy đòi hoặc miền truy đòi tùy thỏa thuận hợp đồng.
VI.Việc sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán ở VN
Nghiệp vụ bao thanh toán ở VN hoạt động theo của quyết định 1096/2004/QĐ – NHNN Nhưng do tồn
tại những bất cập và hạn chế nên đã được sửa đổi và bổ sung bởi quyết định 30/2008/QĐ-NHNN ngày
16 tháng 10 năm 2008 của NHNN.
Tính đên năm 2006 mới chỉ có 9 tổ chức tín dụng đăng ký và triển khai việc cung cấp dịch vụ bao
thanh toán, trong đó có 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia bao gồm ngân hàng Deutsche Bank
của Đức, ngân hàng Far East National Bank (FENB) của Mỹ, Ngân hàng Nhật UFJ Bank Limited, và
có 6 ngân hàng trong nước gồm có Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Phương Đông
(OCB), Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN (TCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank),
Ngân hàng TMCP Hàng hải (MSB), Công ty tài chính dầu khí (PVFC).
Tuy nhiên, cho đến ngày 7 tháng 7 năm 2005 mới chỉ có một số tổ chức tín dụng trong nước tham gia
vào mạng lưới bao thanh toán quốc tế, đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Sài Gòn Thương tín, Ngân
hàng Kỹ thương VN, Ngân hàng Phương Đông thực hiện sản phẩm này với tư cách là đại lý cho Ngân
hàng Far East National Bank – Sino Pac.

17


Đến nay thì con số ấy cũng tăng lên không đáng kể.Cụ thể là trong “tứ đại ngân hàng” thì mới chỉ có
Agribank và Vietcom bank cung cấp dịch vụ bao thanh toán.

Kể từ khi quyết định về quy chế hoạt động bao thanh toán được ban hành cho đến khi nghiệp vụ bắt
đầu được triển khai là cả một thời gian dài im hơi lặng tiếng, sau đó là những hoạt động cầm chừng và
nặng về hình thức hơn là chất lượng dịch vụ. Sau gần một năm kể từ ngày thống đống NHNN ký quyết
định, theo như thống kê ở trên thì VN hiện nay chỉ mới có 9 tổ chức tín dụng tham gia đăng ký cung
cấp dịch vụ, trong đó hết 3 tổ chức là chi nhánh ngân hàng nước ngoài, còn 6 tổ chức còn lại là ngân
hàng VN mà doanh số giao dịch vẫn còn rất khiêm tốn, đối tượng khách hàng thì hạn chế trong phạm
vi một số khách hàng quen thuộc (hay còn gọi là khách hàng “ruột”) của ngân hàng. Tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu (ACB), hoạt động bao thanh tóan là khá nhất, nhưng trong vòng 2 tháng
(tháng 9 và 10.2005) chỉ phục vụ được 8 khách hàng với doanh số bao thanh tóan là 32 triệu đồng, một
con số khá khiêm tốn so với mong đợi .
Hạn chế
+Nghiệp vụ bao thanh toán ở VN theo định nghĩa của các văn bản là “việc cấp tín dụng thông qua việc
mua lại các khoản phải thu”, định nghĩa như vậy liệu có chính xác không? Quan hệ tín dụng là một
quan hệ tách bạch riêng, khác với quan hệ mua bán, nếu trong khái niệm đưa ra hai cụm từ vừa là quan
hệ tín dụng, vừa là quan hệ mua bán thì sẽ rất nhập nhằng và gây khó hiểu cho người đọc cũng như
người sử dụng những thuật ngữ này. Ngoài ra, trong các văn bản pháp luật liên quan đều đề cập chi tiết
là việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán phải được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận từ
trước trong hợp đồng, liệu điều này có hạn chế phạm vi hoạt động của các tổ chức bao thanh toán cũng
như quyền lợi được tham gia vào nghiệp vụ này của những công ty bán hàng không có thỏa thuận từ
trước không.
+trong hoạt động bao thanh toán sẽ diễn ra một bước quan trọng: “chuyển giao quyền đòi nợ” từ người
bán hàng sang đơn vị bao thanh toán nhưng lại không thấy có quy định liên quan nào xác lập mối quan
hệ này, như vậy việc chuyển giao này có được thừa nhận không, và trong trường hợp không được thừa
nhận thì phải xử lý như thế nào.
+Bên cạnh đó, sau khi bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, ký kết hợp đồng bao thanh
toán sẽ phải “thông báo bằng văn bản cho bên mua hàng”, liệu như thế đã đủ chưa?làm thế nào để
biết được rằng việc thông báo đã có hiệu lực thi hành cho tất cả các bên.
+Hoạt động của nghiệp vụ bao thanh toán tại ngân hàng cũng chưa được tách bạch khỏi hoạt động tín
dụng mà hầu như theo sự quản lý thì lại gần như giống nhau hoàn toàn. Trong khi đó, yêu cầu để phát
triển dịch vụ bao thanh toán ở các nước trên thế giới là việc tài trợ trong bao thanh toán sẽ “không thiên

về khuynh hướng từng giao dịch cũng như không phải là hoạt động “chiết khấu” từng khoản phải thu
riêng biệt”, các đơn vị bao thanh toán sẽ có những tiêu chí riêng để lựa chọn khách hàng và kiểm soát
khách hàng, không phải giống hoàn toàn như tiêu chí của ngân hàng khi cho vay (có thể dựa vào tài sản
đảm bảo và việc thẩm định người bán hàng), có rất nhiều yếu tố mà được các đơn vị bao thanh toán
xem xét trong khi những yếu tố đó thường không được các ngân hàng để ý (ví dụ như rủi ro của đơn vị
bao thanh toán không nằm ở chỗ người bán mà là ở chỗ khả năng thanh toán tiền của những người mua
cũng như mức độ phân tán giữa các người mua).

18


Giải pháp ở đâu?
Để VN có thể phát triển được một thị trường dịch vụ bao thanh toán hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của các doanh nghiệp, nhất là doanh Tóm nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế thì sẽ cần sự cố gắng và nỗ lực của rất nhiều bên, tuy nhiên cái gốc sẽ vẫn là những điều
chỉnh phù hợp của các văn bản pháp luật hiện hành sao cho vẫn giữ được những đặc trưng vốn có của
loại nghiệp vụ đặc biệt này và đồng thời phát huy hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện nghiệp
vụ. Một trong những đề xuất mà chúng tôi cũng đồng tình với các chuyên gia đưa ra trong các cuộc hội
thảo, đó là nên tách bạch hoạt động cho vay với bao thanh toán, hai nghiệp vụ này không thể là một và
không chịu chung sự kiểm soát theo cùng một kiểu, cũng như nếu có thể thì bộ phận phụ trách dịch vụ
bao thanh toán sẽ nằm độc lập với các hộ phận cung cấp dịch vụ khác của ngân hàng, nhất là bộ phận
tín dụng để có thể tập trung vào những tiêu chuẩn thẩm định riêng của mình, từ đó tiến tới là công ty
bao thanh toán sẽ là một công ty độc lập và không chịu sự chi chối của luật các TCTD hiện hành;
chẳng hạn như việc hiện nay hoạt động bao thanh toán phải bảo đảm: “tổng số dư bao thanh toán cho
một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán” là một điều hết sức
phi lý, bởi rủi ro lúc này không phụ thuộc vào khách hàng đó mà chỉ phụ thuộc vào “khách hàng của
khách hàng” mà thôi.

19




×