Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.99 KB, 24 trang )

Sinh viên: Nguyễn Hoàng Sơn
Lớp: Đại Học Kế Toán A-K4
Đê: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG
GIAN HIỆN NAY.

CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về các tổ chức tài chính trung gian
1.

Phân tích kinh tế về cấu trúc tài chính

1.1
Những vấn đề cơ bản về cấu trúc tài chính
Hệ thống tài chính là hệ thống phức tạp về cấu trúc và chức năng. Có nhiều loại hình
khác nhau trong các trong các tổ chức tài chính như : Ngân hàng, công ty tài chính,
công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ…gọi chung là các ngân hàng và các tổ chức phi
ngân hàng. Đồng thời cũng có nhiều loại hình của thị trường tài chính như thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu… Hệ thống tài chính này hàng năm đã chuyển một khối
lượng vốn khổng lồ từ những người tiết kiệm tới những người có cơ hội đầu tư. Những
vấn đề cơ bản về cấu trúc tài chính mà ta cần biết :

Thứ nhất : trong số các công cụ và hình thức tạo vốn của các doanh nghiệp từ
các tổ chức tài chính trung gian và thị trường tài chính thì cổ phiếu và trái phiếu không
phải là nguồn tài chính quan trọng.Việc phát hành những chứng khoán mua , bán trên
thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt
động của họ. Đồng thời các cổ phiếu và trái phiếu này được bán trực tiếp cho các cá
nhân và tổ chức lại càng ít. Hầu hết các cổ phiếu , trái phiếu đã được những trung gian
tài chính mua lại

Thứ hai: tài chính gián tiếp, tài chính này có liên quan đến hoạt động của
những trung gian tài chính, quan trọng gấp nhiều lần so với tài chính trực tiếp, là tài
chính trong đó các doanh nghiệp gom vốn trực tiếp từ những người cho vay trong cá thị


trường tài chính . Trong các trung gian tài chính này, ngân hàng tạo ra nguồn vốn bên
ngoài quan trọng nhất để tài trọ cho các doanh nghiệp. Trong số nguồn vốn của tài
chính gián tiếp thì các khoản vay từ ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan
trọng nhất trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp.

Thứ ba: hệ thống tài chính nằm trong số những bộ phận của nền kinh tế có
vai trò quan trọng và được điều hành và quản lý một cách chặt chẽ nhất. Hệ thống tài
chính là tổng hợp các quan hệ tài chính hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng
có mối quan hệ thống nhất với nhau. Xét về cấu trúc và sự vận động của hệ thống tài
chính m ta thấy hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm và các dòng tài chính. Sự
chuyển hóa không ngừng giữa các dòng tài chính vào các tụ điểm vốn và ngược lại ,
được thực hiện thông qua những trung gian tài chính và thị trường tài chính. Đó là
những mạch máu chính của nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi chính phủ phải quản lý và
kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của hệ thống tài chính để đảm bảo sự lưu thông thông
suốt các nguồn vốn và đảm bảo sự lành mạnh , ổn định của nền kinh tế
1



Thứ tư: vật thế chấp là một đặc điểm thường thấy của các hợp đồng vay nợ
cho các gia đình và các doanh nghiệp. Vật thế chấp là vật sở hữu được thế cho người
cho vay nếu người đi vay không thể thanh toán tiền nợ. Vay nợ có thế chấp là hình thức
chủ yếu của hợp đồng vay nợ gia đình và cũng được dùng rộng rãi trong vay tiền kinh
doanh. Trong các nguyên tắc cho vay của tín dụng ngân hàng như cho vay có mục đích,
có vật tư tương đương làm bảo đảm (vật thế chấp) hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi thì
cho vay có thế chấp là nguyên tắc quan trọng nhất. Vật thế chấp trong các hợp đồng vay
nợ đòi hỏi người đi vay ohari có đảm bảo đầy đủ giấy tờ hợp pháp xác nhận vật thế chấp
dành riêng cho từng món vay , tránh tình trạng vật thế chấp được dùng cho nhiều món
vay dẫn tới tình trạng đổ vỡ tín dụng . Chính vì vậy , trong cá hợp đồng tín dụng ,
những điều khoản được quy định ngặt nghèo, chặt chẽ.


Thứ năm: các hợp đồng nợ là những hợp đồng pháp lý điển hình và đặc biệt
phức tạp , những hợp đồng này đặt ra những hạn chế cốt lõi đối với thái độ của người đi
vay. Hợp đồng giao kèo hoặc hợp đồng vay tiền là những tài liệu pháp lý dài và điển
hình với những điều khoản , giới hạn và định rõ những hoạt động nào đó mà người vay
tiền có thể làm. Những quy định hạn chế không chỉ là một đặc điểm của những hợp
đồng nợ cho các doanh nghiệp mà còn cho cả cá hộ gia đình, cá nhân
1.2
Phí giao dịch và cấu trúc tài chính
Một đặc điểm quan trọng của các thị trường tài chính là ở chỗ chúng có các chi phí giao
dịch và chi phí thông tin đáng kể. Phí giao dịch là một vấn đề lớn đối với những người
có vốn dư để cho vay. Những trung gian tài chính ra đời làm cầu nối cho người có vốn
mong muốn tìm được người cần vốn để cho vay kiếm lời và giúp người cần vốn tiếp
xúc được với người có vốn. Những người đó không thể gửi tiền , vay vốn ở những nơi
không quen biết hoặc chưa đủ niềm tin mà không cần luật sư người trung gian môi giới
hoặc những người làm chứng khác. Vì thế họ sẽ phải chịu sự tốn kém những chi phí
giao dịch. Những trung gian tài chính sẽ làm tối thiểu hóa chi phì giao dịch giữa người
có vốn và người cần vốn, và cho phép những người tiết kiệm có món nhỏ và những
người vay món nhỏ thu được lợi nhờ sự hiện hữu của các thị trường tài chính. Những
trung gian tài chính làm giảm chi phí giao dịch như thế nào?
Trước hết đó là vấn đề tiết kiệm do quy mô. Một giải pháp cho vấn đề chi phí giao dịch
cao là góp những món cho vay của nhiều nhà đầu tư với nhau đảm bảo cho họ một lợi
tức thỏa đáng , đồng thời có thể cho vay nhiều người với cá món tiền lớn, nhỏ khác
nhau đem lại những lợi ích to lớn khác nhau. Tức là sự giảm chi phí giao dịch cho mỗi
đồng tiền đầu tư khi quy mô giao dịch tăng lên. Sự hiện diện phương pháp tiết kiệm do
quy mô trong các thị trường tài chính giúp giải thích vì sao những trung gian tài chính
được phát triển và là một bộ phận quan trọng đến như vậy trong cấu trúc tài chính của
chúng ta.
Sau đó đa dạng hóa mục đầu tư của các trung gian tài chính nhằm phân tán độ rủi ro
cho chính những công ty tài chính và những người có vốn.

2


Nhờ sự hiểu biết , chuyên môn hóa trong nghề nghiệp các tổ chức tài chính trung gian
có khả năng tốt hơn để mở rộng hiểu biết nhằm hạ thấp chi phí giao dịch. Những tổ
chức trung gian tài chính trở thành những người lành nghề thực hiện các món cho vay ,
những hợp đồng vay nợ ít tốn kém vì tiếp thu những kiến thức pháp lý thích hợp.
Phương pháp tiết kiệm do quy mô là những yếu tố quan trọng trong việc hạ thấp cá chi
phí cho các trung gian tài chính về những hạng mục như luật sư và kỹ thuật computer.
1.3 Rủi ro và cấu trúc tài chính
Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết
tất cả những gì mà họ cần biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không
công bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không cân xứng.
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra
cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính khi những
người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch ) - tức
là những rủi ro không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay nhất va do vậy là
có nhiều khả năng được lựa chọn nhất .
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch
diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra khi người cho vay phải chịu
một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo đức)
xét trên quan điểm của người cho vay , bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng
để món vay này sẽ hoàn trả.

Giải pháp giảm rủi ro những thông tin không cân xứng dẫn tới sự lựa chọn đối
nghịch là:

Cung cấp và bán những thông tin có tác dụng loại bỏ thông tin không cân
xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông tin đầy đủ về cá nhân hay doanh
nghiệp cần tài trợ vốn cho các hoạt động đầu tư. Song giải pháp này không giải quyết

được một cách đầy đủ vấn đề lựa chọn đối nghịch khi những người không chi tiền mua
thông tin vẫn có thể hưởng lợi từ những thông tin người khác đã mua.

Sự điều hành của chính phủ nhằm tăng thông tin trong các thị trường. Quy
chế của chính phủ hoặc bắt buộc hoặc khuyến nghị các bên đặc biệt là các bên có nhu
cầu tài trọ vốn, phải cung cấp những thông tin cần thiết cho các bên liên quan để làm
giảm vấn đề lựa chọn đối nghịch.
Vấn đề thông tin không cân xứng và việc lựa chọn đối nghịch trong các thị trường tài
chính như vậy giúp giải thích vì sao các thị trường tài chính nằm trong số những bộ
phần được điều hành một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Quy chế của chính phủ
để tăng lượng thông tin cho các nhà đầu tư là cần thiết để giảm vấn đề lựa chọn đối
nghịch. Tuy vậy , quy chế của Chính phủ chỉ góp phần làm giảm bớt chứ không loại bỏ
hoàn toàn vấn đề lựa chọn đối nghịch hoặc bị sai lệch theo chiều hướng có lợi cho bên
cung cấp thông tin, gây khó khăn cho bên nhận thông tin khi ra quyết định.Vậy để đẩy
mạnh dòng vốn từ người có vốn tới người cần vốn, khi có sự hiện diện của thông tin
không cân xứng dẫn tới sự lựa chọn đối nghịch cần phải nâng cao hiệu quả và chất
3


lượng hoạt động của các trung gian tài chính trong cấu trúc tài chính . Một trung gian tài
chính ví dụ như ngân hàng , do chuyên môn hóa trong lĩnh vực thu thập , xử lý và cung
cấp thông tin giữa nhứng người cần vốn và người có vốn, ngân hàng thu nhận tiền gửi
từa khác hàng và cho những cá nhan và doanh nghiệp làm ăn tốt vay . Nhờ đó ngân
hàng đã tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi ích cho cả người có vốn, người cần vốn và
bản thân ngân hàng. Ngân hàng như một trung gian tài nắm giữ hầu hết các món vay
không thể đem ra mua bán những thông tin đó là chìa khóa cho sự thành công của ngân
hàng trong việc giảm tối thiểu thông tin không cân xứng dẫn tới vấn đề lựa chọn đối
nghịch. Ngoài ra lựa chọn đối nghịch chỉ gây trở ngại cho hoạt động của các thị trường
tài chính nếu người cho vay chịu một tổn thất khi một người đi vay không thể thánh
toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ.Vật thế chấp là vật sở hữu được cam kết trả cho

người cho vay nếu người vay vỡ nợ .Nếu một người vay bị vỡ nợ đối một món vay ,
người cho vay có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lai tổn thất ở món
cho vay đó. Những người cho vay như vậy dễ chấp nhận việc cho vay có vật thế chấp và
những người vay sẵn lòng cung cấp vật thế chấp vì việc giảm rủi roc ho người vay
khiến họ dễ có thể vay được tiền nhanh chóng và còn có thể với một lãi vay nhẹ hơn.
Sự có mặt của lựa chọn đối nghịch trong các thị trường tín dụng giải thích vì sao vật thế
chấp là một đặc điểm của những hợp đồng nợ.
Như đã trình bày ở trên, rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi cuộc giao dịch diễn ra khi
người cần vốn có ý muốn giấu thông tin và thực hiện những hoạt động mà người có
vốn không mong muốn. Rủi ro đạo đức có hậu quả quan trọng khiến một công ty thấy
dễ dàng dựng vốn bằng hợp đồng nợ hơn là hợp đồng vốn cỏ phần

Giải pháp giảm rủi ro đạo đức trong các hợp đồng vốn cổ phần là:

Các chủ sở hữu vốn cần có thông tin đầy đủ về những gì mà những người
quản lý đang làm , đồng thời giảm sự tách biệt đáng kể giữa nhứng người sở hữu và
quản lý. Người có vốn hay các chủ sở hữu vần phải tạo ra những kênh giám sát thông
tin ngoài ra cần có sự can thiệp của chính phủ về chế độ sổ sách kế toán và công khai
các báo cáo tài chính doanh nghiệp.

Tăng cường sự hoạt động của các trung gian tài chính thông qua các hình thức
liên kết , liên doanh , hoặc thông qua các hợp đồng nợ . Một trung gian tài chính giúp
giảm được rủi ro đạo đức nảy sinh từ người sở hữu và người quản lý là ở chỗ hình thành
các “hãng vốn kinh doanh” . Các hãng vốn kinh doanh tập trung vốn từ các hội viên và
dùng vốn này đẻ giúp các doanh nghiệp khởi sự các vụ kinh doanh mới. Để đổi lại việc
cho vốn kinh doanh hãng này nhận một số cổ phần trong vụ kinh doanh mới đó. Do sự
kiểm tra thu nhập và lợi nhuận có một ý nghĩa rất quan trọng để ngăn ngừa rủi ro đạo
đức , các hãng vốn kinh doanh thường đòi hỏi có một số người của họ ở trong bộ máy
quản lý của doanh nghiệp do đó họ có thể giám sát chặt chẽ những hoạt động của
doanh nghiệp.Khi một hãng vốn kinh doanh cung cấp vón khởi công thì cổ phần vốn

trong doanh nghiệp không được chào bán cho bất cứ ai trừ hãng vốn kinh doanh nói
trên.
4



Rủi ro đạo đức nảy sinh với một hợp đồng vốn cổ phần , hợp đồng này xác
nhận quyền đòi lợi nhuận trong mọi tình huống, dù doanh nghiệp đó kiếm được tiền hay
tổn thất tiền. Một hợp đồng nợ thay thế hoặc bổ sung vào hợp đồng vốn cổ phần cũng
góp phần làm giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hợp đồng vốn cổ phần. Khi công ty (bên
vay) có một lợi nhuận cao, người cho vay nhận được các món thanh toán theo hợp đồng
và không cần biết lợi nhuận chính xác của công ty là bao nhiêu . Nếu người quản lý
công ty này che giấu lợi nhuận hoặc đuổi theo những hoạt động vì lợi ích cá nhân không
làm tăng lợi nhuận , người cho vay, không cần chú ý đến các hoạt động này chừng nào
nó còn chưa làm trở ngại khả năng trả nợ đúng hạn của công ty đó.Chỉ khi công ty này
không thể thanh toán nợ và đang nằm trong tình trạng vỡ nợ thì người cho vay cần kiểm
tra tình hình lợi nhuận của công ty đó.
Lợi ích của việc không cần thường xuyên giám sát công ty vay tiền và do đó chi phí
kiểm tra tình hình kinh doanh giảm thấp giúp giải thích vì sao các hợp đồng nợ được
dùng thường xuyên hơn đến như vậy để tập hợp vốn đầu tư so với các hợp đồng vốn cổ
phần .
Dù có những lợi ích như đã trình bày ở trên , các hợp đồng nợ vẫn còn chịu rủi ro đạo
đức. Do một hợp đồng nợ chỉ đòi hỏi những người vay thanh toán một số tiền cố định
và cho phép họ hưởng bất kỳ lợi nhuận nào còn lại , những người vay này có ý muốn
nhận được những dự án đầu tư có nhiều rủi ro hơn so với những người cho vay mong
muốn

Các giải phá p cho vấn đề rủi ro đạo đức trong thị trường nợ

Nâng cao cơ cấu vốn cổ phần trong tổng tài sản của doanh nghiệp vay. Khi

một doanh nghiệp vay tiền có nhiều tiền vốn bởi vì giá trị tài sản ròng của doanh
nghiệp lớn, thì ý muốn lao vào rủi ro dọa đức sẽ giảm đi nhiều do doanh nghiệp có
nhiều để mất. Giải pháp tài sản ròng cao làm cho ý muốn của người vay ngang hàng với
ý muốn của người cho vay. Vì vậy giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp càng cao thì
vấn đề rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ của doanh nghiệp càng nhỏ , các doanh nghiệp
càng dễ vay hơn.

Việc giám sát và bắt tuân theo những quy định hạn chế cũng làm giảm rủi ro
đạo đức trong hợp đồng nợ.
Những quy định hạn chế được soạn ra để ngăn ngừa rủi ro đạo đức bằng cách
không để cho người vay có những xử sự không mong muốn về sự thực hiện các dự án
đầu tư có rủi ro.
Những công ty vay phải giữ cho giá trị tài sản ròng của công ty cao vì giá trị
tài sản ròng cao hơn sẽ giảm rủi ro đạo đức và khiến cho người cho vay giảm bớt khả
năng bị tổn thất
Những công ty vay phải giữ cho vật thế chấp luôn ở trong điều kiện tốt và
chắc chắn rằng nó vẫn thuộc sở hữu của người vay đó,phải bảo hiểm những vật thế chấp
đó.

5


Những quy định hạn chế cũng đòi hỏi một công ty vay cung cấp thông tin về
các hoạt động của công ty đó một cách định kỳ, công khai hóa các báo cáo tài chính để
người cho vay có thể kiểm tra và thanh tra hoạt động tài chính của công ty vào ở bất kỳ
thời điểm nào

Tăng cường sự hoạt động của trung gian tài chính. Tuy các quy định hạn chế
giúp giảm vấn đề rủi ro đạo đức nhưng chúng không hoàn toàn loại bỏ được vấn đề này
bởi lẽ người vay có đủ khôn khéo để báo cáo không đúng sự thật hoặc tìm ra những sơ

hở trong các quy định. Một khó khăn khác với những quy định là ở chỗ chúng phải
được giám sát , cưỡng chế. Vì thế cần có sự tham gia của các tổ chức tài chính trung
gian đặc biệt là ngân hàng, thực hiện các món cho vay riêng không đem ra mua bán
được do vậy có thể tránh được rủi ro đạo đức nhờ sự giám sắt chặt chẽ và cưỡng chế thi
hành của các trung gian tài chính đối với món vay đó.
Tóm lại, sự hiện diện của thông tin không cân xứng nói trước đây dẫn đến việc chọn lựa
đối nghịch và vấn đề rủi ro đạo đức làm trở ngại hoạt động hữu hiệu của thị trường tài
chính. Giải pháp cho các vấn đề này liên quan đến việc sản xuất và bán thông tin riêng,
đến những điều hành của chính phủ nhằm tăng thông tin trong thị trường tài chính và
đến sự quan trọng của vật thế chấp và giá trị tài sản ròng đối với những hợp đồng vay
nợ và đến việc giám sát , cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế. Song những giải
pháp trên cũng chỉ phần nào trong vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chỉ có
các trung gian tài chính đặc biệt là ngân hàng với những ưu thê và tiết kiệm theo quy
mô, được chuyên môn hóa, với các món vay không thể mua bán được…đã loại bỏ tới
mức thấp nhất những rủi ro do thông tin không cân xứng gây ra . Chính vì thế, các trung
gian tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn so với thị trường tài chính trong
việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn.

2.

Chức năng và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian

Vốn được chuyển từ người cho vay tới người vay thông qua trung gian tài chính. Trung
gian tài chính đứng giữa cho vay- người tiết kiệm và người vay- người sử dụng và giúp
chuyển vốn từ người này sang người kia. Trung gian tài chính thực hiện điều này bằng
cách vay vốn của người cho vay sau đó cho người vay vay vốn , khác với tài chính trực
tiếp người cần vốn và người có vốn trực tiếp trao đổi với nhau ở thị trường tài
chính.Thông thường thị trường tài chính phát triển hệ thống các trung gian tài chính đa
dạng làm nhân tố thức đẩy quá trình luân chuyển vốn và cung cấp các thông công cụ tài
chính đa dạng cho người đầu tư và sử dụng vốn. Trung gian tài chính có thể làm lợi cho

những người gửi tiền tiết kiệm, bằng cách trả cho họ một khoản lãi tương ứng, và nó
cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người vay có được các khoản tiền để đầu tư vào hoạt
động sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, không có trung gian tài chính, thị trường
tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn.
2.1
Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian
2.1.1
Chức năng tạo vốn
6


Để có thể cho vay hoặc đầu tư , các trung gian tài chính tiến hành huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền tệ tập trung , phương thức huy
động vốn hoặc theo thể thức tự nguyện thông qua cơ thế lãi suất hoặc theo thể thức bắt
buộc qua cơ chế điều hành của Chính phủ. Nhờ hoạt động đó mà các trung gian tài
chính đem lại lợi ích cho phần lớn những người có khoản tiết kiệm và cho chính họ
2.1.2
Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường người cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức
cá nhân kinh doanh trong và ngoài nước . Các trung gian tài chính sẽ đáp ứng chính xác
đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các cá nhân doanh nghiệp bằng khoản tiến
vốnđược huy động từ những người có vốn.
2.1.3
Chức năng kiểm soát
Trong một nền kinh tế không thể tránh khỏi những thông tin không cân xứng nó gây ra
sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các trung gian tài chính thực hiện chức năng
kiểm soát nhằm giảm tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các trung
gian tài chính sẽ thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát trước , trong và sau khi cho vay
các doanh nghiệp.
2.2

Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian
Thị trường tài chính đóng vai trò nòng cốt trong quá trình luân chuyển đồng vốn từ nhà
đầu tư đến nhà sản xuất. Dòng vốn từ người cho vay tới người vay qua hai con đường
đó là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp, song vốn đến tay những người cần vốn
chủ yếu là qua tài chính gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Và các tổ chức
tài chính trung gian đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống tài chính. Nếu
không có các tổ chức tài chính trung gian thì nền kinh tế xã hội sẽ không thể có được lợi
ích trọn vẹn.

Như đã đề cập đến ở trên, chi phí giao dịch và chi phí thông tin là một vấn đề
lớn đối với những người có vốn để cho vay, và hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian góp phần giảm bớt những chi phí thông tin và giao dịch lớn cho mỗi cá nhân
tổ chức và toàn bộ nền kinh tế.

Do chuyên môn hóa và thành thạo trong nghề nghiệp , các tổ chức trung gian
đáp ứng đầy đủ , chính xác , kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có vốn.Nhờ
sự hiểu biết các tổ chức tài chính trung gian có khả năng tốt hơn nhằm hạ thấp chi phí
giao dịch, thực hiện các món cho vay , những hợp đồng vay nợ ít tốn kém vì tiếp thu
những kiến thức pháp lý thích hợp.

Do cạnh tranh đan xen và đa năng hóa hoạt động, các trung gian tài chính
thường xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý, làm cho nguồn vốn thực tế được tài trợ
cho đầu tư tăng lên mức cao nhất

Thực hiện có hiệu quả các dịch vụ tư vấn , mối giới, tài trợ, trợ cấp và phòng
ngừa rủi ro.

3.

Các loại hình tổ chức tài chính trung gian


3.1

Các tổ chức nhận tiền gửi
7


3.1.1
Các ngân hàng thương mại
Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền
có các cơ hội đầu tư sịnh lợi và bảo đảm cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng và hữu
hiệu. Đây là trung gian tài chính chủ yếu hoạt động bằng cách thu hút vốn thông qua
những khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau
đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay , chủ yếu là cho vay thương mại
ngắn , trung dài hạn , để mua chứng khoán của Chính phủ. Ngân hàng thương mại là
trung gian tài chính lớn nhất ở bất kỳ quốc gia nào , là nơi mà các tổ chức, đơn vị và cá
nhân thường xuyên giao dịch nhất.
3.1.2
Các hiệp hội cho vay và tiết kiệm
Ở trung gian tài chính này , nguồn vốn chủ yếu được huy động là các khoản tiền gửi tiết
kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản tiền gửi phát séc được. Điểm khác biệt ở
tổ chức trung gian tài chính này với ngân hàng đó là các khoản tiền vốn huy động chủ
yếu để cho vay thế chấp là những khoản cho vay dài hạn nên tổ chức này ban đầu chịu
những rằng buộc khắt khe hơn so với ngân hàng thương mại.
3.1.3
Các ngân hàng tiết kiệm tương trợ
Những trung gian tài chính này được tổ chức như những hiệp hội tương trợ tức là hoạt
động như kiểu hợp tác xã , trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu
ngân hàng. Trung gian tài chính này cũng hoạt động như các tổ chức cho vay và tiết
kiệm khác.

3.1.4
Các liên hiệp tín dụng
Đây là những tổ chức cho vay nhỏ có tính chất hợp tác xã, được tổ chức xung quanh
một nhóm xã hội đặc biệt. Tổ chức này cũng huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi và
tiến hành cho vay. Giới hạn trong đối tượng và phạm vi cho vay giống như các ngân
hàng tiết kiệm tương trợ.
3.2
Công ty bảo hiểm
Mặc dù các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta hay giao dịch nhất nhưng không
phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng mà bên cạnh đó còn có các tổ
chức tài chính phi ngân hàng.
Ngày nay trong quá trình sản xuất , kinh doanh, quản lý xã hội dù có tri thức khoa học
ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn với khả năng xảy ra tai họa nào
đó có thể đưa đến những tổn thấy lớn. Do vậy các tổ chức cá nhân có nhua câu được
bảo hiểm và sử dụng nó để chia sẻ khi rủi ro xỷ ra thông qua hoạt động của các công ty
bảo hiểm.Bảo hiểm bản chất là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người bảo hiểm
đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người được bảo hiểm
trong trường hợp xảy ra rủi ro với điều kiện người được bảo hiểm đã mua phí bảo
hiểm.
Các công ty bảo hiểm , tương tự như các ngân hàng , thực hiện kinh doanh trung gian
tài chính chuyển một dạng từ tài sản này thành một dạng khác cho công chúng. Các
công ty bảo hiểm sử dụng các phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để
8


đầu tư vào tài sản có như trái khoán , cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay
khác ít rủi ro hơn rồi từ những tài sản có này được dùng thanh toán cho những rủi ro
đòi được bồi thường theo hợp đồng đã bán.
3.3
Công ty tài chính

Các công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thu hút vốn bằng cách phát hành
thương phiếu hoặc cổ phiếu và trái khoán và dùng tiền thu được để cho vay đặc biệt
thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Qúa trình trung gian tài
chính của các công ty tài chính có thể được mô tả bằng cách nói rằng họ vay những món
tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ- một quá trình hoàn toàn khác
với quá trình của những ngân hàng thương mại , các ngân hàng này phát hành các món
tiền gửi nhỏ và cho vay với món tiền lớn. Bên cạnh đó , các công ty tài chính không
nhận tiên gửi của dân chúng , của các tổ chức kinh tế xã hội với thời hạn ngắn dưới hình
thức mở tài khoản . Các công ty tài chính không thực hiện các dịch vụ thanh toán và
tiền mặt, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.Một đặc điểm
then chốt của các công ty tài chính so với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết
kiệm là ở chỗ họ gần như không bị điều hành chặt bởi Chính phủ. Các hoạt động chủ
yếu và thường xuyên của công ty tài chính là:
Thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái khoán , không nhận tiền gửi
của dân chúng và các tổ chức kinh tế
Cho vay các món tiền nhỏ
Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
Cầm cố các loại hàng hóa , vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và dụng cụ bảo
đảm khác
Tư vấn Marketing, giám định các công việc chuẩn bị để ký hợp đồng hoặc
thành lập các công ty liên doanh
Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật được nhà nước ưu
tiên
Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc đá quý, mua bán chuyển nhượng
chứng khoán
Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh
3.4
3.4.1

Các tổ chức ở thị trường chứng khoán

Ngân hàng đầu tư

Một công ty muốn vay vốn , nó thường thuê các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để
giúp bán các chứng khoán của mình. Ngân hàng đầu tư ở đây không phải là một ngân
hàng theo nghĩa thông thường. Ngân hàng đầu tư tham gia bán lần đầu các chứng khoán
. Trước tiên họ góp ý, tư vấn cho công ty bán chứng khoán nêu trên thị trường cấp một
về việc phát hành chứng khoán , về kì hạn và số tiền thanh toán vốn, lãi đối với trái
9


khoán , giá của các cổ phiếu sau đó qua những người đảm bảo , tiếp xúc trực tiếp với
người có thể mua chúng và bán các chứng khoán này
3.4.2
Công ty chứng khoán
Là một tổ chức ở thị trường chứng khoán , thực hiện trung gian tài chính thông qua các
nghiệp vụ chủ yếu sau:
Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng ( trung gian môi
giới)
Mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của chính mình để hưởng chênh lệch
giá( thương gia chứng khoán )
Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát
hành
Tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư
Một lượng vốn lớn được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ , phân tán trong dân
chúng được tập hợp lại, nhờ có các tổ chức ở thị trường chứng khoán mà các cổ phiếu
trái phiếu của Chính phủ, công ty được lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị trường
chứng khoán. Doanh nghiệp ngoài cách huy động vốn chủ yếu là vay ngân hàng thương
mại thì phát hành chứng khoán cũng là một cách huy động hiệu quả. Nhưng họ không
thể tự bán đi số chứng khoán họ phát hành . Họ cần có những nhà chuyên nghiệp mua
bán chứng khoán cho họ, đó chính là công ty chứng khoán. Với nghiệp vụ chuyên môn

hóa, , kinh nghiệm nghề nghiệp , bộ máy tổ chức thích hợp, các công ty chứng khoán
hoàn toàn có thể thực hiện tốt trung gian tài chính cho các nhà đầu tư.
Ngoài các công ty chứng khoán hoạt động trung gian tài chính trên thị trường chứng
khoán, các tổ chức trên thị trường chứng khoán còn bao gồm các tổ chức quỹ đầu tư-là
những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được hình thành bởi những nhà tiết
kiệm và đầu tư cùng góp vốn. Nhà có vốn khi đầu tư vào thị trường chứng khoán qua
quỹ đầu tư sẽ có hiệu quả vốn đầu tư cao hơn so với đầu tư riêng lẻ, mặt khác nó còn
đảm bảo tính thanh khoản cao.
3.5
Sự trung gian tài chính của Chính phủ
Chính phủ tham gia vào thị trường tài chính như những tổ chức tài chính trung gian
khác qua hai cách cơ bản:
Thành lập các tổ chức tín dụng nhà nước. Vì lý do thực dụng chính phủ sẽ
không thể để các tổ chức tín dụng nhà nước này vỡ nợ
Sự bảo đảm của chính phủ cho các món vay tư nhân. Một vai trò quan trọng
khác của chính phủ trong việc đẩy mạnh sự trung gian tài chính là việc cung cấp các bảo
đảm của chính phủ với tiền cho vay. Sự bảo đảm của chính phủ đối với tiền cho vay tác
dụng đúng như sự bảo hiểm: nó bảo hiểm cho người vay món đó, ví dụ một ngân hàng ,
tránh mọi tổn thất nếu người vay không trả được nợ.

10


CHƯƠNG 2: Thực trạng về hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian ở Việt Nam hiện nay
Tại Việt Nam, hiện có đầy đủ các loại hình tổ chức tài chính trung gian bao gồm: Ngân
hàng thương mại ,Công ty chứng khoán, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ đầu

1.
Thực trạng của các tổ chức tài chính trung gian

1.1
Thực trạng các ngân hàng thương mại
Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5 Ngân hàng thương mại lớn
(Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân
hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng chính sách, Ngân hàng
phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh; 36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài; 10 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê tài chính; 998 Quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều có chức năng cho vay, là chức năng chính
của ngân hàng. Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ
USD, số lượng các ngân hàng này hiện này được xem là đông đảo với một thị trường tài
chính nhỏ như Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất nhanh
trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân 35%/năm . Hệ thống ngân hàng
đang không ngừng cải thiện và áp dụng công nghệ hiện đại và đã giải quyết được hai
vấn đề kinh niên của những năm trước đây: nợ quá hạn trước đây có lúc lên đến từ 15 20% thì hiện nay chỉ đang xoay ở mức 3%. Tình trạng thiếu vốn đã được giải quyết
bằng nhiều phương thức tăng vốn điều lệ. Các NHTM nhà nước tuy lớn nhưng đang bị
cạnh tranh gay gắt từ các NHTM cổ phần trên phương diện về thị phần, công nghệ
và các sản phẩm, dịch vụ mới… Hoạt động của các NHTM đã tác động đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực sau:
1.1.1

Huy động vốn của NHTM góp phần tăng tiết kiệm của nền kinh tế.

Sự phát triển của các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt mà các NHTM đã và đang triển khai
đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc tăng tiết kiệm của dân cư. Từ những năm
90, lượng vốn huy động qua hệ thống NHTM tăng trưởng không ngừng với tốc độ
nhanh và vững chắc. Do sự ổn định giá trị đồng Việt Nam cùng với việc giảm mức lạm
phát từ phi mã xuống còn 1 con số, các NHTM Việt Nam đã phát huy được hiệu quả
trong chiến lược huy động vốn từ dân chúng. Lượng vốn huy động của toàn hệ thống
qua các năm đều tăng với mức trung bình từ 25-30%/năm.
Biểu 1: Tình hình huy động vốn của các NHTM từ năm 2005 đến nay


11


(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)

Từ năm 2008, tình hình huy động vốn của các NHTM giảm sút rõ rệt; theo số liệu từ
Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tháng
4/2009 tăng khoảng 3,74% so với cuối tháng trước và tăng 9,88% so với cuối năm
2008; đến hết tháng 7 tăng 20,92% so với đầu năm. Nguyên nhân là do trong năm 2008,
lạm phát cao bùng phát và năm 2009, Việt Nam đã có những dấu hiệu rõ rệt về suy
giảm kinh tế do tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu.
1.1.2 Các hoạt động tài trợ của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp duy trì ổn định
sản xuất, đầu tư công nghệ, thay đổi máy móc, nhờ đó nâng cao năng lực sản xuất của
nền kinh tế.
Ngoài ra, hoạt động cho vay tiêu dùng góp phần kích thích cầu tiêu dùng, qua đó góp
phần tăng trưởng kinh tế.Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng của các NHTM đã
được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, dưới các hình thức cho vay ngày một đa
dạng: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố định, tín dụng thuê mua,... Đặc biệt, việc
chuyển hướng mở rộng cho vay tiêu dùng thực sự là một hướng kích cầu có hiệu quả.
Thông qua quan hệ tín dụng của các NHTM Nhà nước với các tổ chức tín dụng trong
nước thể hiện chủ yếu ở sự biến động của khoản mục cho vay, có thể thấy số lượng giao
dịch giữa các tổ chức tín dụng tăng lên liên tục. Mặc dù duy trì được mức tăng trưởng
dư nợ trong năm cao song các ngân hàng vẫn kiểm soát được rủi ro ở mức độ an toàn.
Tỷ lệ nợ quá hạn luôn được kiềm chế ở mức thấp.
Theo con số được Ngân hàng Nhà nước công bố: “Dư nợ tín dụng năm 2008 ước tăng
21-22% so với cuối năm 2007”. Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 3512


37%, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12-14%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%,

khu vực sản xuất tăng 34-36%, khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%. Vốn cho
vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tăng 40-42%. Đến cuối năm 2008, vốn
chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007, tỷ lệ an toàn
vốn tăng từ 8,9% lên 9,7%.
Kết thúc quý 1/2009, với một loạt giải pháp chống suy giảm kinh tế của Chính phủ,
trong đó có nới lỏng dần chính sách tiền tệ, dư nợ tín dụng chỉ tăng vỏn vẹn 2,67% so
với cuối năm 2008. Tuy nhiên, đến hết tháng 7/2009, mọi chuyện đã đảo ngược khi
nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế từ các tổ chức tín dụng tăng khá, lên tới gần 20% so
với cuối năm 2008. Theo số liệu được Ngân hàng Nhà nước công bố, nguồn vốn đầu tư
cho nền kinh tế thông qua các tổ chức tín dụng tăng khoảng trên 24% so với cuối năm
2008, cá biệt một số tổ chức tín dụng còn trên 50%
Biểu 2: Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM giai đoạn 2004 - 2009

Nguồn: NHNN

1.1.3 Sự đóng góp của hoạt động các NHTM đến tổng thu nhập kinh tế quốc dân.
Ngoài việc tăng trưởng mạnh các hoạt động huy động và cho vay, các hoạt động có thu
khác của NHTM cũng ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây là xu hướng của các
NHTM ở các nước phát triển. Đặc biệt khi các hoạt động cho vay và huy động vốn rất
nhạy cảm với tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, các hoạt động khác chính là
“phao cứu sinh” cho các NHTM, cụ thể là:
13


Trong năm 2008, trước tình hình hạn chế tăng trưởng tín dụng từ chính sách thắt chặt
tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng đã tính đến các biện pháp khác để
thu hút khách hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập. Biện pháp đầu tiên các NHTM đưa ra là
nâng cấp, phát triển dịch vụ, chính vì vậy, hoạt động dịch vụ trong năm 2008 tăng
trưởng cao, tăng 67% so với năm trước. Trong đó, tăng nhiều nhất là thanh toán trong
nước, tăng 72%. Qua đó, kéo theo tổng thu tiền mặt qua quỹ Ngân hàng Nhà nước trong

năm 2008 tăng 76%.
Biểu 3: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng dịch vụ
tài chính, tín dụng các năm

Nguồn: NHNN

Theo biểu 3, ta thấy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và dịch vụ tài chính, tín dụng
có mối quan hệ rất chặt chẽ, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay. Các NHTM vẫn là những
tổ chức trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính và tín dụng lớn nhất ở Việt
Nam. Như vậy, cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy rõ tác động của hoạt động NHTM
đến tăng trưởng kinh tế có vị trí quan trọng hàng đầu.
1.1.4 Tác động của hệ thống thanh toán qua ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các hoạt động kinh tế
diễn ra một cách liên tục. Các yêu cầu của một hệ thống thanh toán, đó là: an toàn,
nhanh chóng, thuận tiện.
Sự phát triển của các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần giảm tỉ lệ
thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán. Theo thống kê của Ngân
hàng Nhà nước, trong năm 2008, dịch vụ thẻ ngân hàng và mở tài khoản cá nhân, trả
14


lương qua dịch vụ ngân hàng tự động ATM phát triển nhanh chóng. Đến nay, toàn hệ
thống ngân hàng có khoảng 15 triệu tài khoản cá nhân, tăng 36% so với cuối năm 2007;
số lượng thẻ trong lưu thông đạt khoảng 13,4 triệu thẻ, tăng 46% so với cuối năm 2007
với 142 thương hiệu thẻ thuộc 39 tổ chức phát hành thẻ. Hệ thống ATM có 7.051 máy,
tăng 2.238 máy so với cuối năm 2007. Mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán
đạt 24.760 thiết bị POS. Các hệ thống thanh toán của ngành Ngân hàng tiếp tục được
ứng dụng công nghệ hiện đại hoá, tiên tiến theo hướng tự động hoá, mở rộng dịch vụ,
phạm vi áp dụng và tăng nhanh tốc độ xử lý.
1.2


Thực trạng các công ty chứng khoán

Tính từ khi ra đời, số lượng các công ty Chứng khoán không ngừng tăng nhanh về số
lượng. Nếu như năm 2000 khi thị trường Chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt
động với 4 công ty Chứng khoán thì đến thời điểm năm 2007 đã có tới 61 công ty
Chứng khoán với tổng số vốn điều lệ đạt 5735 tỷ đồng. Và đến nay đã có hơn 100 công
ty Chứng khoán đang hoạt động. Tuy nhiên theo phân tích của các nhà quan sát, việc
mở rộng cũng như thu hẹp hoạt động của các công ty chứng khoán có mối quan hệ
khăng khít với nhịp điệu chung của thị trường. Theo đó trong 2 năm 2006 và 2007 (giai
đoạn thị trường tăng trưởng nóng), ngoài số công ty chứng khoán được thành lập mới
tăng chóng mặt, các công ty chứng khoán cũng liên tục mở rộng hoạt động với việc
thành lập thêm rất nhiều chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh.Nhưng từ năm
2008 đến đầu năm 2009 (giai đoạn thị trường suy thoái), hoạt động của các công ty
chứng khoán cũng bi thu hẹp. Bên cạnh việc đóng cửa các đại lý nhận lệnh theo yêu cầu
của cơ quan quản lý, nhiều chi nhánh và phòng giao dịch của công ty chứng khoán cũng
bị đóng cửa.
Trong năm 2007 chất lượng của các công ty chứng khoán cũng được nâng cao.
- Về hoạt động môi giới, tính đền ngày 30/6/2007 số tài khoản giao dịch chứng khoán
tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với
thời điểm ngày 31/12/2007.
-Về hoạt động tự doanh , tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày
30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm
01/01/2007.
-Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ
yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà
nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị.
-Về hoạt động tư vấn :
15




Tư vấn đầu tư chứng khoán. Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến
triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại
thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát
triển, các CTCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động
chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng
khoán tại các CTCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các
CTCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ.

Tư vấn niêm yết. Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay
của các CTCK là 100 hợp đồng

Tư vấn khác.Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp
đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007.
Các hợp đồng này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các
công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp
đồng), IBS (32 hợp đồng).
Sang năm 2008 ,các công ty Chứng khoán trong quá trình phát triển luôn đồng thời tăng
vốn điều lệ, nhằm đáp ứng được khả năng tài chính và sự phát triển. Các công ty chứng
khoán đã góp phần tốt trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp. Tính
đến cuối năm 2008, tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán đạt gần 40% GDP quốc dân.
Điều này chứng tỏ, Các công ty chứng khoán đã giúp các doanh nghiệp niêm yết có
điều kiện tiếp cận với nguồn vốn từ công chúng đầu tư, ổn định và với chi phí vốn thấp,
mang tính dài hạn.
Từ đầu năm 2009 , hàng loạt công ty chứng khoán có vốn thấp đã nộp đơn lên Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh do kinh doanh thua lỗ ăn sâu cả
vào vốn điều lệ. Theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh nghiệp
là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình khó khăn hiện nay. Nghiệp vụ
chiếm nhiều vốn nhất- bảo lãnh phát hành(165 tỷ đồng) cũng là dịch vụ được nhiều

công ty chứng khoán lựa chọn cắt giảm điển hình có công ty chứng khoán Tràng An, Hà
Nội,Quốc Tế, SME…. Cổ phiếu xuống dốc không phanh, thậm chí có những mã bluechip giảm còn 50 - 70% giá trị sổ sách, khiến nhiều công ty chứng khoán lỗ nặng ở
mảng tự doanh. Để giảm bớt gánh nặng, nhiều công ty chứng khoán đã bắt đầu cắt giảm
nhân sự, đóng cửa các đại lý nhận lệnh, thu hẹp diện tích hoặc chuyển sàn ra khỏi khu
vực trung tâm để giảm bớt chi phí. Không ít công ty chứng khoán đang “ngán” cổ phiếu
khi rút bớt hoạt động tự doanh chứng khoán khỏi các nghiệp vụ của mình. Đa phần
trong số đó là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như Công ty cổ phần chứng
khoán Việt Tín (VTSS), Thái Bình Dương (PSC), Gia Anh (GASC), Mê Kông (MSC)...
Nguyên nhân một phần cũng là do phong trào thành lập các công ty chứng khoán trong
những năm trước làm xáo trộn mạnh về nhân sự lĩnh vực này. Ngoài ra, chất lượng hoạt
động của doanh nghiệp cũng bị yếu đi. Trong tình hình khó khăn chung, các CTCK đã
16


chuyển hướng cạnh tranh từ việc tập trung phát triển quy mô sang đầu tư cho chất lượng
sản phẩm dịch vụ. Hàng loạt các sản phẩm đã ra đời tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và
tăng tính thanh khoản cho thị trường. Giao dịch trực tuyến, ứng trước tự động , cầm cố
chứng khoán, repo cổ phiếu…Những dịch vụ này đã thật sự tạo hiệu quả khi thị trường
bùng nở trở lại vào quý II/2009.
1.3
Thực trạng các công ty tài chính
Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, nó sinh ra một nhu cầu lớn về vốn. Khi
này, các Ngân hàng với những điều kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều
kiện giải ngân... sẽ rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Sự ra đời của các
công ty tài chính, cho thuê tài chính là một bước phát triển tất yếu của thị trường tài
chính.
Tại Việt Nam, hiện có tới 17 công ty tài chính, phần lớn thuộc các tập đoàn kinh tế Nhà
nước. Các công ty tài chính thường trực thuộc những Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước
như: Công ty tài chính công nghiệp Tàu thủy, Công ty tài chính Điện lực, công ty tài
chính xi măng, công ty tài chính Than khoáng sản Việt nam, công ty tài chính Cổ phần

Dầu khí… Hiện nay CTTC có số vốn điều lệ lớn nhất là CTTC Dầu khí với 3.000 tỷ
đồng, thấp nhất là Handico 50 tỷ đồng. 6/3 CTTC hiện có hội sở chính tại Hà Nội, 3
CTTC ở TPHCM là CTTC Cao su, CTTC Prudential VN và CTTC Việt- Sài Gòn.
Ngoài ra có ít nhất 3 doanh nghiệp lớn cũng đang đẩy nhanh tiến độ để thành lập các
CTTC như CTTC Sông Đà, CTTC Vinalines và CTTC Vinaconex với vốn điều lệ từ
1.000 tỷ đến 1.500 tỷ đồng.
Các công ty tài chính với ưu thế về nguồn vốn lớn từ các tập đoàn rót xuống đã liên tục
đầu tư dài hạn, tài trợ các dự án như: Dự án đóng tàu, dự án thủy điện, đầu tư tài
chính...Ưu điểm của các công ty tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung
ứng cho nhiều dự án lớn trọng điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam, các công ty tài chính lại
trực thuộc các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản chất là sử dụng vốn của Nhà nước.
Năm 2008 khi các Tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề chính
đều thua lỗ trong khi phần thu lãi lại xuất phát từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các
Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các
dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài
chính.
1.4
Công ty bảo hiểm
Việt Nam vẫn là một thị trường bảo hiểm năng động và tiềm năng. Sự ra đời và xuất
hiện các công ty bảo hiểm trên thị trường đem lại cho người tiêu dung nhiều lợi ích từ
việc bảo hiểm những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày.
Các công ty bảo hiểm với rất nhiều sản phẩm bảo hiểm hầu như đã đáp ứng được những
nhu cầu bảo hiểm phong phú từ khách hàng. Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý
một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các Công ty bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài
hạn,đầu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.Theo số liệu của
17


Hiệp hội Bảo hiểm Quốc gia thì tính đến tháng 6 năm 2009, tổng số tiền các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ năm giữ là 250,43 ngàn tỷ đồng. Các công ty Bảo hiểm tham

gia tích cực khi tham gia đầu tư, tài trợ dự án, giải ngân vốn cho các tổ chức tín dụng,
các tổ chức kinh tế vay vốn. Và với lợi thế ngành, các doanh nghiệp Bảo hiểm còn tư
vấn cho các khách hàng vay vốn của mình nên mua bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro và
cũng là giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp Bảo hiểm.
Theo số liệu chưa kiểm toán thì tính đến thời điểm tháng 6 năm 2009 các doanh nghiệp
có tổng mức trách nhiệm cao trên thị trường bảo hiểm là: Prudential 94 ngàn tỷ, Bảo
Việt nhân thọ là hơn 67 ngàn tỷ, AIA là 27 ngàn tỷ đồng.
Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt
mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-10%
GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm
vẫn còn rất lớn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các
tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới
hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng
Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà
xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn
cho xã hội.
Như vậy, sự phát triển của các loại hình tài chính trung gian đã tạo ra một lượng cung
vốn dồi dào cho các doanh nghiệp, có tác dụng thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
2.
Một số hạn chế của các tổ chức tài chính trung gian
2.1
Của hệ thống Ngân hàng thương mại
Thách thức lớn nhất đối với các NHTM Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân
hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn có khoảng
cách so với các nước trong khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một NHTM Nhà
nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của các NHTM Nhà nước chỉ tương đương
với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống NHTM Nhà nước chiếm đến
trên 65% thị phần huy động vốn đầu vào và trên 63% thị phần cho vay. Trong khi đó, hệ
số an toàn vốn bình quân của các NHTM Nhà nước của Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa

đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và
hiệu quả sử dụng tài sản có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro
kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Điểm hạn chế thứ hai của các NHTM trong nước là hệ thống dịch vụ còn đơn điệu, chất
lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân
hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94%
tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm
trên 80% tổng thu nhập. Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã
khiến các NHTM Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút
18


khách hàng. Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó
đáng chú ý là NHTM Nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia
tăng tại các NHTM Nhà nước là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo,
trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều
biến động phức tạp.
Điểm hạn chế thứ ba xuất phát từ đặc điểm của thị trường tài chính nước ta. Cơ cấu hệ
thống tài chính còn mất cân đối. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và
dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy
động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy
động ngắn hạn.
2.2
Hạn chế công ty chứng khoán
Thứ nhất, tại thời điểm hiện nay, cơ sở hạ tầng của TTCK nói chung và các CTCK nói
riêng còn khá lạc hậu, thiếu đồng bộ và có thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay
đổi nhỏ nào về giải pháp kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh
hưởng đến việc quản lý giao dịch tại các CTCK. Nếu đầu tư công nghệ không được xây
dựng một cách đồng bộ thì khả năng tích hợp giữa các CTCK với Trung tâm giao dịch
chứng khoán sẽ nảy sinh nhiều vấn đề.

Nhân sự đang là bài toàn khó đối với các công ty chứng khoán. Sự thành lập ồ ạt của
các CTCK vào nhưng năm trước là thời điểm thị trường tăng trưởng nóng đã gây khó
khăn cho các CTCK hiện nay khi mà thị trường đang ảm đạm,đa số các CTCK phải
chịu thua lỗ thì việc cắt giảm nhân sự là điều không thể tránh khỏi.
Chưa tách bạch giữa các hoạt động có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích của khác hàng như
dùng tiền của khác hàng để tiến hành hoạt động tự doanh, hiện tượng “ bốc thuốc” của
các CTCK khi tiến hành hoạt động môi giới, tự doanh và QLDMĐT vẫn xảy ra.
Chất lượng dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công
chúng đầu tư, đặc biệt trong vấn đề công bố thông tin, thực hiện lệnh cho khách hàng.
2.3
Hạn chế của công ty tài chính
Nếu so với các ngân hàng thương mại, hoạt động của đa số các CTTC hiện nay vẫn còn
hạn chế, chủ yếu là huy động và cho vay. Vì không được huy động tiền gửi dưới 1 năm
nên số vốn huy động được của nhiều CTTC chủ yếu từ CBCNV trong các doanh
nghiệp.
Nguồn vốn của các CTTC chủ yếu là đi vay từ ngân hàng nên chi phí cao. Do vậy, hoạt
động của nhiều CTTC sẽ chỉ dừng lại là một công ty đầu tư tài chính đơn thuần trong
nội bộ doanh nghiệp, chưa vươn tầm hoạt động sâu rộng như chức danh vốn có.
Các công ty tài chính hiện nay cũng rất khó khăn vì quy định hiện nay của Ngân hàng
Nhà nước không cho làm dịch vụ thanh toán. Đây thực sự là dây trói quá chặt vì không
được làm thanh toán hiển nhiên là gây ra khó khăn cho công ty tài chính trong quan hệ
với các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn, nhất là trong việc nhập khẩu máy móc,
19


thiết bị. Việc phải làm thanh toán lòng vòng qua ngân hàng có thể cũng là một yếu tố
gây ra nợ quá hạn. Rồi một loạt các vấn đề khác như: chưa được thanh toán bù trừ trong
hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; tình trạng không rõ ràng về vai trò bảo lãnh
cho vay, không được phát hành kỳ phiếu, không được kinh doanh ngoại tệ… cũng khiến
cho vai trò của các công ty tài chính rất mờ nhạt

2.4
Hạn chế của công ty bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi
giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN
bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ
phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác
giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách
hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn
hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín
dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm
toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi
hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo
động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ
thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm

CHƯƠNG 3: Một số đề xuất khắc phục hạn chế của các công ty tài
chính trung gian.
1.
Đối với các ngân hàng thương mại

Phát huy vai trò chủ lực của NHTM Nhà nước
Ở Việt Nam, hiện các NHTM Nhà nước đang trong quá trình cổ phần hóa, song vai trò
chủ lực vẫn luôn được khẳng định. Nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng, nhất là những NHTM Nhà nước đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế nhiều
thách thức to lớn, đó là vừa phải duy trì tăng trưởng tín dụng và đầu tư nhưng vẫn phải
bảo đảm duy trì và nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa rủi ro trước các biến
động liên tục của thị trường hàng hóa, lãi suất, tỷ giá...Để phát huy được vai trò chủ đạo
trong hoạt động của hệ thống NHTM, các NHTM Nhà nước cần hoạt động kinh doanh

đa năng với chất lượng dịch vụ cao; năng lực tài chính lành mạnh; trình độ công nghệ,
nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến theo các thông lệ chuẩn mực
quốc tế.

Tăng cường hoạt động quản trị nội bộ của các ngân hàng
Để tăng cường vai trò của các NHTM trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Trước hết, bản thân các ngân hàng cần lành mạnh hoá hoạt động của chính bản thân
mình. Trong đó, quan trọng nhất là kiểm toán nội bộ ngân hàng. Yêu cầu hội nhập
20


WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cũng như các vấn đề trong
quản trị cho thấy sự cần thiết của kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh
vực ngân hàng.
Trước những yêu cầu cấp bách, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết
định số 37/2006/QĐ-NHNN, ngày 1/8/2006, yêu cầu các NHTM phải thành lập bộ phận
kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, hiện nay có một số khó khăn khi tiến hành việc kiểm toán
nội bộ: sự chồng chéo về vai trò và trách nhiệm của chức năng kiểm tra, kiểm soát nội
bộ và kiểm toán nội bộ; chất lượng và số lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ chưa ở
mức mong muốn; kiểm toán nội bộ chưa tạo được tín nhiệm đối với các bên chính có lợi
ích liên quan…


Tăng cường hoạt động quản lý rủi ro ngân hàng

Cũng như các doanh nghiệp khác, trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng cũng
phải đối mặt với các rủi ro: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng… Những rủi ro của
NHTM ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động chung của nền kinh tế. Do vậy, việc quản lý
rủi ro ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc ổn định hoạt động ngân hàng, tránh
các rủi ro, qua đó tác động tích cực đến nền kinh tế. Thực tế thời gian vừa qua, mặc dù

bị tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng có vẻ như chưa có
nhiều ngân hàng có ý định thay đổi cơ bản cơ cấu quản lý rủi ro của họ. Cần tiếp cận
với các thông lệ quốc tế (Basel) để nâng cao năng lực quản trị rủi ro (ban hành các quy
định, quy trình quản lý rủi ro, từ nhận diện, phân tích, đánh giá, quản lý và xử lý). Song
song với việc này là khẩn trương hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động kiểm
soát, kiểm toán nội bộ, nâng cao hiệu quả của hoạt động này.


Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Ngân hàng

Nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay trở thành một vấn đề cấp
bách, nhất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu nâng cao năng lực nguồn nhân lực trở thành yêu cầu của
tất các các ngành kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng.Nếu chỉ cải thiện và
nâng cao vấn đề công nghệ ngân hàng mà không chú ý tới vấn đề nguồn nhân lực thì hệ
thống ngân hàng không thể phát triển được. Do vậy, cần có chiến lược phát triển nguồn
nhân lực ngành Ngân hàng một cách hợp lý: Tiến hành đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân
lực, có chính sách khen thưởng/kỷ luật hợp lý…


Hoàn thiện hành lang pháp lý cho sự phát triển ngành Ngân hàng

Sau một thời gian gia nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước chuyển
biến rõ rệt theo hướng tạo ra một thị trường mở cửa và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc
đẩy khu vực dịch vụ ngân hàng tăng trưởng cả về quy mô và loại hình hoạt động, thích
ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài. Từ đó có khả năng đóng góp nhiều
21


hơn và chủ động hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tất nhiên, bên cạnh

những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra khá nhiều thách
thức cho hệ thống ngân hàng, cần phải được nhận diện đầy đủ và có những giải pháp
phù hợp. Việc tạo hành lang pháp lý thuận lợi là yêu cầu cần thiết để phát triển ngành
Ngân hàng. Để làm được điều đó, cần hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp
luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các vấn đề liên
quan đến điều hành chính sách tiền tệ (chú trọng lãi suất, tỉ giá, thị trường mở…), hoạt
động thanh tra giám sát (chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro
theo các quy định của Basel), quản lý rủi ro của NHTM, việc quản lý và cấp phép thành
lập ngân hàng mới...
2.
Đối với các công ty chứng khoán
Trong quá trình hoạt động, các công ty nói chung và CTCK nói riêng cần phải tiến hàng
tái cấu trúc công ty cho phù hợp với điều kiện phát triển ở từng giai đoạn.
Ứng dụng công nghệ hiện đại.Để có được hệ thống trang thiết bị hiện đại phục vụ cho
hoạt động của công ty, các CTCK cần xây dựng chiến lược phát triển hệ thong công
nghệ thông tin dựa trên khả năng tài chính và chiến lược phát triển chung của công ty.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các
CTCK cần chú trọn tới vấn đề tuyển dụng, đào tạo và chế độ đãi ngộ lương, thương
nhân viên.
Xây dựng chiến lược phát triển công ty. Để có thể tồn tào và phát triển trong tương lai,
các CTCK cần xây dựng cho mình chiến lược phát triển trong dài hạn cũng như trong
ngắn hạn để chủ động trong hoạt động trên cơ sở củng cố nâng cao chết lượng dịch vụ
sẵn có và cung cấp các sản phẩm dịch vụ mớ trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
3.
Đối với công ty tài chính
Hạn chế của các công ty tài chính chủ yếu là do quy định hiện hành của NHNN Việt
Nam. Vì thế để nâng cao khả năng hoạt động của công ty tài chính thì cần có một chính
sách cởi mở hơn đối với các công ty tài chính
Về phía các công ty tài chính, cần tăng khả năng thu hút vốn của mình bằng các cách
như phát hành cổ phiếu, trái phiếu nhằm hạn chế sử dụng vốn từ các tập đoàn lớn mà

cũng chính là vốn của nhà nước.
4.
Đối với công ty bảo hiểm
Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài bằng cách nâng cao năng lực thị trường
của các doanh nghiệp bảo hiểm và đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm và kích thích nhu
cầu tham gia bảo hiểm của người dân.
Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong doanh nghiệp bằng cách giảm số dư nhàn
rỗi,quản lý nợ phí bảo hiểm hiệu quả hơn,phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống NH,quản
lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động

22


Nâng cao hiệu quả công tác đầu tư. Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược đầu tư
phù hợp, nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đầu tư,
áp dụng khoa học công nghệ hiện đạu

23


24



×