Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

LIỀU THUỐC CHO THỜI ĐẠI LO ÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.02 KB, 8 trang )

LIỀU THUỐC CHO THỜI ĐẠI LO ÂU:
QUAN ĐIỂM CỦA ALAN WATTS VỀ
HẠNH PHÚC VÀ LÀM THẾ NÀO ĐỂ
SỐNG TRONG HIỆN TẠI
rubi | October 23, 2016 | Tự Lực (Self-help) | No Comments

Lời khuyên để vượt qua nỗi thống khổ lớn nhất của loài người từ bậc thầy triết học phương
Đông nơi trời Tây
“Tất nhiên, cách chúng ta sử dụng từng ngày của mình cũng là cách chúng ta sử dụng cuộc đời của
mình,” Annie Dillard đã viết trong suy tưởng vượt thời gian của bà về tầm quan trọng của hiện tại so
với năng suất – một liều thuốc đúng lúc cho sự lo âu đang bao trùm thời đại ám ảnh với hiệu
suất của chúng ta. Quả thật mục tiêu năm nay của tôi là dừng việc đánh giá ngày tháng cuộc đời
mình bằng hiệu suất và bắt đầu trải nghiệm chúng bằng mức độ sống ở hiện tại. Nhưng chính xác
là, cái gì mới làm điều này trở nên khả thi?

Khái niệm về hiện tại bắt nguồn từ những quan điểm của phương Đông về chánh niệm – tức khả
năng trải nghiệm cuộc sống với một tầm nhìn rõ ràng, trong suốt như pha lê với những gì đang diễn


ra và hoàn toàn hoà mình vào trải nghiệm – được phổ biến rộng rãi tại phương Tây bởi nhà triết học
và tác gia Alan Watts (6/1/1915 – 16/11/1973), người cũng đã đem đến cho chúng ta phương pháp
thiền định tuyệt vời cho một cuộc sống đầy hoài bão. Trong tác phẩm xuất chúng của ông xuất bản
năm 1951 “Minh triết sinh ra từ bất an: Thông điệp cho thời đại lo âu”, Watts cho rằng nguồn gốc
của sự khổ sở và lo âu thường nhật của chúng ta là xu hướng sống cho tương lai, mà chính nó là
một sự không tưởng. Ông viết:
Nếu chỉ khi chắc chắn rằng mình sẽ có một tương lai tốt đẹp, chúng ta mới có thể tận hưởng những
khoảng khắc hạnh phúc của hiện tại, thì chúng ta như đang “mơ giữa ban ngày”. Không bao giờ có
một sự bảo đảm như thế cả. Những lời tiên tri chính xác nhất cũng chỉ là việc có khả năng xảy ra
chứ không hoàn toàn sẽ diễn ra, và như chúng ta cũng đã biết, tất cả mọi người đều sẽ tổn thương
và chết. Thế nên, nếu chúng ta không thể sống hạnh phúc vì cứ lo lắng chuyện của tương lai thì
chắc chắn rằng chúng ta không thể thích nghi được với thế giới hữu hạn này, nơi mà cho dù bạn có


chuẩn bị tốt thế nào thì bất trắc vẫn sẽ diễn ra, và tận cùng vẫn là cái chết.



Alan Watts, early 1970s (Image courtesy of Everett Collection)
Điều ngăn chúng ta đến với hạnh phúc, theo quan điểm của Watts, là vì ta không có khả năng sống
trọn vẹn trong hiện tại:
“Ý thức nguyên thủy”, lý trí cơ bản của chúng ta chỉ biết đến hiện thực hơn là ý tưởng về nó, thật ra
không biết đến tương lai. Nó hoàn toàn sống trong hiện tại, và không thu nhận gì hơn ngoài những
gì đang diễn ra trong hiện tại. Tuy nhiên, bộ não tinh vi của chúng ta lại nhìn vào những trải nghiệm
từ hiện tại – hay còn gọi là kí ức, và qua việc nghiên cứu chúng, nó có thể đưa ra những dự đoán.
Những dự đoán này thường (tương đối) rất chính xác và đáng tin (ví dụ như “tất cả mọi người đều
sẽ chết”) đến mức tương lai có vẻ như quá thật – thật đến mức hiện tại mất đi giá trị của nó.
Nhưng tương lai vẫn chưa ở đây. Nó không thể trở thành một phần của hiện tại được trải nghiệm
cho đến khi nó trở thành hiện tại. Vì những gì chúng ta biết về tương lai đều hoàn toàn đến từ
những yếu tố trừu tượng và logic – những suy luận, suy đoán và kết luận – nó không thể ăn được,
cảm nhận được, ngửi thấy được, nhìn thấy được, nghe thấy được, hoặc thưởng thức được. Theo
đuổi nó là theo đuổi một hình bóng mờ ảo luôn chực chạy mất, và bạn càng đuổi theo nó nhanh bao
nhiêu, nó càng chạy nhanh bấy nhiêu. Đây là lý do vì sao tất cả những vấn đề của xã hội loài người
đều bị làm cho gấp gáp, vì sao ít ai tận hưởng cái họ đang có, và luôn tìm kiếm nhiều hơn và nhiều
hơn nữa. Hạnh phúc, khi đó, sẽ không gồm những hiện thực chắc chắn và bền vững, thay vào đó là
những thứ trừu tượng và hời hợt như những lời hứa hẹn, hy vọng, và sự bảo đảm.”
Watts cho rằng cách chủ yếu chúng ta sử dụng để thoát ly khỏi thực tại là rời bỏ thể xác và thu mình
vào tâm trí – cái vạc luôn sôi sục những tính toán và tự đánh giá bản thân từ những trăn trở, lo âu,
phán xét, đồng thời đầy ắp những siêu-trải nghiệm về chính những trải nghiệm thật sự. Được viết
hơn nửa thế kỷ trước kỷ nguyên máy vi tính, màn hình cảm ứng và thước đo khắc nghiệt của chúng
ta, Watts đã nhắc nhở:
“Những cá thể sống trong một thành phố hiện đại là những người sống trong một cỗ máy chỉ để bị
những bánh răng của nó nghiền nát. Mỗi ngày của họ đầy những hoạt động mà cốt lõi là tính toán
và đong đếm, một thế giới của những điều không tưởng được hợp lý hoá – những thứ gần như

không có quan hệ gì hoặc cũng chẳng đồng điệu với những nhịp điệu và tiến trình sinh học của thế
giới. Sự thật là, những hoạt động trí óc này giờ đây đã có thể được làm tốt hơn bởi máy móc – đến
mức, trong một tương lai không xa, não người có thể trở thành một cơ chế lạc hậu cho việc tính toán
logic. Con người thật ra đã bị thay thế bởi máy tính trên diện rộng với tốc độ lớn hơn và hiệu suất
cao hơn. Vậy thì, nếu tài sản và giá trị chủ yếu của con người nằm ở trí óc và khả năng tính
toán, con người sẽ trở thành một hàng hoá ế ẩm trong thời đại mà hoạt động suy luận có thể
được thực hiện hiệu quả hơn bởi máy móc.
[…]


Nếu chúng ta tiếp tục sống cho tương lai, và biến suy đoán và tính toán trở thành hoạt động chủ yếu
của tâm trí, con người cuối cùng lại trở thành một phần tử ký sinh, phụ thuộc vào một cỗ máy khổng
lồ.”
Tuy nhiên, Watts không chủ quan cho rằng trí não căn bản là một năng lực vô giá trị hay nguy hiểm.
Thay vào đó, ông nhấn mạnh rằng nếu chúng ta để cho trí tuệ vô thức bộc phát một cách tự do –
giống như điều diễn ra trong suốt thời kì “ấp ủ” của vô thức trong hoạt động sáng tạo – nó chính là
đồng minh của chúng ta chứ không phải là một kẻ độc tài. Chính khi chúng ta cố kiểm soát nó và
chĩa mũi dùi của nó vào chính nó thì những vấn đề bắt đầu nảy sinh.
“Nếu hoạt động đúng, não là dạng cao nhất của “trí tuệ bản năng”. Do đó, nó nên hoạt động giống
như bản năng hướng về tổ của bồ câu và sự hình thành của bào thai trong tử cung – mà không cần
miêu tả bằng ngôn từ “làm sao” nó làm được như vậy. Một bộ não tự ý thức, cũng giống như một trái
tim tự ý thức, là một rối loạn bất thường chứng tỏ sự hiện diện của nó bằng một cảm giác sắc nét về
sự chia cắt giữa “tôi” và trải nghiệm của tôi. Não chỉ có thể hành động đúng đắn khi ý thức được làm
cái mà nó đã được thiết kế để làm: nghĩa là không cuống lên tìm mọi cách thoát khỏi trải nghiệm
hiện tại, mà nhận thức được nó một cách dễ dàng.”
Thế nhưng, não bộ lại có xu hướng suy nghĩ thái quá, tạo ra sự bất an to lớn trong ta và sự lo âu
đang hiện diện giữa một vũ trụ luôn biến chuyển. (Như Henry Miller đã nhắc nhở, “ Dù nhắc đến nó
thì thật tầm thường nhưng điều này luôn cần được nhấn mạnh: Tất cả là tạo vật, tất cả là thay đổi,
tất cả là vô thường, mọi thứ luôn chuyển hóa.”) Nghịch lý ở đây là, nhận ra rằng trải nghiệm của
hiện tại là trải nghiệm duy nhất cũng nhắc nhở chúng ta rằng cái “tôi” của chúng ta không hiện diện

sau khoảnh khắc này, và không có cái “tôi” vĩnh hằng và bất biến nào có thể ban cho chúng ta
bất cứ cấp độ nào của sự an toàn và chắc chắn về tương lai – và trớ trêu thay, chúng ta lại đi
tìm chính sự an toàn đó, một sự an toàn mà chính nó là sự không tưởng. Cơ hội duy nhất của
chúng ta để thức tỉnh khỏi cái vòng luẩn quẩn này, theo Watts, là tập trung hoàn toàn ý thức của
chúng ta vào trải nghiệm hiện tại – một thứ rất khác biệt so với phán xét nó, đong đếm nó, hay so
sánh nó với một số lý tưởng tuỳ tiện và không tưởng. Ông viết:
“Có một sự trái ngược trong việc mong muốn được an toàn tuyệt đối trong một vũ trụ mang bản chất
tạm thời và luôn thay đổi. Tuy nhiên, sự trái ngược này sâu hơn xung đột giữa mong muốn được an
toàn và hiện thực rằng mọi thứ luôn thay đổi. Nếu tôi muốn được an toàn, nghĩa là được bảo vệ
khỏi những biến chuyển của cuộc đời, vậy cũng có nghĩa là tôi đang muốn bị chia cắt khỏi
thế giới. Thế nhưng chính sự chia cắt này làm tôi cảm thấy bất an. Được an toàn nghĩa là
phải cô lập và tăng cường cái “tôi”, thế nhưng chỉ riêng cảm giác là một cái “tôi” cô lập đã
đủ làm tôi cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Nói cách khác, tôi càng được an toàn bao nhiêu, tôi
càng muốn an toàn bấy nhiêu.


Tóm lại là: lòng ham muốn được an toàn và cảm giác bất an có bản chất như nhau. Để giữ hơi thở
cũng có nghĩa là mất hơi thở. Một xã hội dựa trên mong muốn được an toàn chẳng là gì ngoài một
cuộc thi nín thở, nơi mà ai cũng căng như mặt trống và tím tái như quả cà.”
Ông đặc biệt lưu ý đến quan niệm về sự cải thiện bản thân – thứ thường được nhắc đến mỗi khi
năm mới sắp đến – và nêu ra nguồn gốc của nó để khuyên mọi người không nên thực hiện nó:
“Tôi chỉ có thể suy nghĩ nghiêm túc về việc cố gắng sống theo một lý tưởng, cố gắng cải thiện bản
thân mình, Nếu tôi bị chia làm hai. Sẽ luôn có một cái “tôi” tốt luôn tìm mọi cách để cải thiện cái “tôi”
xấu. “Tôi” tốt, với ý định tốt nhất, sẽ cố gắng cải biến cái “tôi” xấu ương ngạnh, và cuộc chiến giữa
hai bên sẽ làm cho sự khác biệt của chúng trầm trọng hơn. Hậu quả là “tôi” tốt sẽ càng cảm thấy bị
cô lập hơn bao giờ hết, góp phần làm tăng cảm giác cô đơn và thờ ơ điều mà làm cho “tôi” cư xử
càng tồi tệ hơn.
Hạnh phúc, theo quan điểm của ông, không phải là cải thiện trải nghiệm của chúng ta hay chỉ đối
mặt với nó, mà là sống trong hiện tại một cách trọn vẹn nhất có thể:
“Đối mặt với sự bất an nghĩa là chúng ta vẫn không hiểu nó. Để hiểu nó, bạn không nên đối

mặt với nó, mà thay vào đó là trở thành nó. Giống như trong câu chuyện xưa ở Ba Tư về một
hiền tiết khi đến gõ cửa Thiên Đường. Từ bên trong, tiếng Chúa Trời vọng ra hỏi, “Ai đó” và nhà hiền
triết trả lời, “Đây là Tôi.” “Trong ngôi nhà này,” giọng nói trả lời, “không có chỗ cho ngươi và ta.” Vì
thế nhà hiền triết trở về và dành nhiều năm suy nghĩ về câu trả lời này trong thiền định. Người trở lại
lần thứ hai, giọng nói vẫn hỏi câu hỏi cũ, và một lần nữa, nhà hiền triết vẫn trả lời, “Đây là Tôi.”
Cánh cửa vẫn đóng. Sau vài năm nữa nhà hiền triết trở lại lần thứ ba, và sau tiếng gõ cửa, giọng nói
một lần nữa vọng ra hỏi, “Ai đó?” Và nhà hiền triết vừa khóc vừa trả lời rằng “Đây là chính người!”
Cánh cửa mở ra.
Chúng ta không nhận thấy thật ra chẳng có sự bất an nào cả, Watts xác nhận, cho đến khi chúng ta
chất vấn mình về sự hiện diện của bản ngã và nhận ra cái “tôi” không thật sự tồn tại – thứ mà tâm lý
học hiện đại gọi là “ảo tưởng về cái tôi” (the self illusion). Nhưng điều đó cực kì khó đạt được, bởi
trong sâu thẳm của sự tỉnh ngộ này chính là một cái tôi đang nhận thức. Watts đã mô tả nghịch lý
này rất khéo léo:


“Trong khi bạn đang quan sát trải nghiệm hiện tại này, bạn có nhận ra rằng có ai đó cũng đang quan
sát nó không? Bạn có thể tìm ra được, ngoài trải nghiệm đó, có một người đang trải nghiệm không?
Bạn có thể cùng một lúc đọc câu này và nghĩ về việc bạn đang đọc nó không? Bạn sẽ tìm ra rằng,
để nghĩ về chính bạn đang đọc nó, bạn cần ngưng đọc trong vài giây. Trải nghiệm đầu tiên là đọc.
Trải nghiệm thứ hai là nghĩ “Mình đang đọc.” Bạn có thể tìm được bất cứ ai đang trong dòng suy
nghĩ “Tôi đang đọc” không? Nói cách khác, khi trải nghiệm hiện tại là suy nghĩ “Tôi đang đọc”, bạn
có thể nghĩ về chính mình đang chìm trong suy nghĩ này không? Một lần nữa, bạn phải dừng suy
nghĩ “Tôi đang đọc” và đi đến trải nghiệm thứ ba – suy nghĩ “Tôi đang nghĩ rằng tôi đang đọc.” Đừng
bao giờ để sự chuyển đổi nhanh chóng giữa những suy nghĩ này đánh lừa bạn rằng bạn đang nghĩ
tất cả chúng trong cùng một lúc.
[…]
Trong mỗi trải nghiệm hiện tại, bạn chỉ nhận thức được trải nghiệm đó. Bạn chưa bao giờ nhận thấy
được rằng bạn đang nhận thấy. Bạn chưa bao giờ có thể tách biệt người suy nghĩ khỏi dòng suy
nghĩ, người hiểu biết khỏi sự hiểu biết. Tất cả những gì bạn tìm ra được chỉ là một dòng suy nghĩ
mới, một trải nghiệm mới.”

Cái làm chúng ta không thể sống chỉ với nhận thức thuần tuý, Watts chỉ ra, là giới hạn của trí nhớ và
mối quan hệ sai lệch giữa chúng ta với thời gian:
“Ý tưởng về một người – cái “tôi” hoàn toàn độc lập khỏi trải nghiệm, đến từ kí ức và sự thay đổi
nhanh chóng của những dòng suy nghĩ. Nó giống như xoay một cây que đang cháy để tạo ra ảo
ảnh một vòng tròn đang cháy. Nếu bạn tưởng tượng rằng kí ức là sự hiểu biết trực tiếp đến từ quá
khứ thay vì đến từ trải nghiệm hiện tại, bạn sẽ có ảo tươrng mình đang nhận biết được cả quá khứ


và hiện tại cùng một lúc. Điều này gợi ý rằng có cái gì đó trong bạn tách biệt hoàn toàn với những
trải nghiệm quá khứ và hiện tại. Bạn lý giải rằng “Tôi biết trải nghiệm này, nó khác biệt so với trải
nghiệm trước đây. Nếu tôi có thể so sánh cả hai và nhận ra trải nghiệm đã thay đổi, tôi hẳn phải là
một thứ gì đó liền mạch và tách biệt.”
Nhưng, sự thật là, bạn không thể so sánh trải nghiệm hiện tại với một trải nghiệm trong quá khứ.
Bạn chỉ có thể so sánh nó với một ký ức về quá khứ, mà đó là một phần của trải nghiệm hiện tại. Khi
bạn nhận ra rằng kí ức là một dạng trải nghiệm hiện tại, điều trở nên rõ ràng là cố gắng chia cắt bản
thân khỏi trải nghiệm này khó như khiến cái răng của bạn tự cắn nó.
[…]
Để hiểu được điều này là hiểu ra rằng cuộc sống là một chuỗi những khoảnh khắc nối tiếp nhau, và
không có sự cố định cũng như sự an toàn, và chẳng có cái “tôi” nào cần được bảo vệ.”
Và đó là điểm then chốt của sự đấu tranh của loài người:
“Lý do thực sự vì sao cuộc sống con người đầy nỗi thống khổ và giận dữ không đến từ cái
chết, nỗi đau, sự sợ hãi hay đói khát. Điều điên rồ nằm ở chỗ khi những thứ đó xảy ra, chúng
ta quay cuồng và cố gắng tách cái “tôi” ra khỏi trải nghiệm đó. Chúng ta giả như mình là những
con trùng và cố gắng bảo vệ mình khỏi cuộc sống bằng cách phân thân thành hai. Sự tỉnh táo, trọn
vẹn và thích nghi nằm trong việc nhận ra được chúng ta không bị chia cắt, rằng con người và trải
nghiệm của họ là một, và không có cái “tôi” hay tâm trí riêng lẻ nào thật sự tồn tại.
Để hiểu được âm nhạc, bạn phải nghe nó. Nhưng chừng nào bạn nghĩ rằng “Tôi đang nghe tiếng
nhạc này,” thì bạn chưa thật sự lắng nghe.”
Cuốn sách “The Wisdom of Insecurity – Minh triết sinh ra từ bất an” là một quyển sách tuyệt vời
và xuất sắc, một trong những cuốn chắc chắn sẽ đồng hành cùng bạn cả quãng đời này.




×