Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.08 KB, 44 trang )

Đề án môn học

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu thế hội nhập và toàn cấu hóa của nền kinh tế như hiện nay, việc đưa
người lao động ra nước ngoài làm việc đã trở thành một hiện tượng phổ biến như
một tất yếu diễn ra. Ngày nay giải quyết vấn đề việc làm bằng hình thức xuất khẩu
lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại lợi ích kinh tế - xã hội quan
trọng cho nhiều quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, giải quyết
vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là một trong những bài toán vô cùng học búa
đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Với đặc điểm có cơ cấu dân số trẻ, mỗi năm có hơn một triệu người bước vào độ
tuổi lao động, Việt Nam đã trở thành một nước có lợi thế không nhỏ trên thị thị
trường lao động quốc tế. Bên cạnh đó quá trình hội nhập và vận động theo xu thế
toàn câu hóa cũng tác động lớn đến xuất khẩu lao động, đây được coi là giải pháp
tạo việc làm quan trọng mang tính chiến lược. Ở Việt Nam, hoạt động xuất khẩu lao
động chính thức bắt đầu từ năm 1980 và ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần
quan trọng vào việc giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nguồn thu
ngoại tệ, cải thiện đời sống nhân dân. Những năm gần đây, khi mà nước ta đang
càng ngày càng mở cửa, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, xuất khẩu lao động
với những hoạt động mang lại lợi tích to lớn đã tỏ rõ vào trò quan trọng và cũng
khằng định rằng đây là hoạt động tất yếu, cần thiết cho phát triển kinh tế.
Hàn Quốc là một quốc giá có nền kinh tế phát triển, nhu cầu tuyển dụng lao
động nước ngoài ngày càng tăng để đáp ứng kịp thời quá trình sản xuất. Được đánh
giá là một thị trường thu hút nhiều lao động nước ngoài với thu nhập tương đối cao,
đi kèm đó là môi trường làm việc tốt, chuyên nghiệp, Hàn Quốc đã trở thành địa
điểm có sức hấp dẫn lớn với lao động Việt Nam. Xây dựng mối quan hệ hợp tác với
Hàn Quốc từ lâu, nước ta đã coi đây là một trong những thị trường trọng điểm trong
họat động xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Trong những năm qua, xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc đã gia tăng mạnh,
đem lại nhiều lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội đồng thời góp phần đáng kể vào


việc giải quyết vấn tình trạng thất nghiệp trong nước. Mặt khác, đây cũng là công cụ
chuyển giao công nghệ tiên tiến giúp đào tạo cán bộ có chất lượng cao và tăng
cường hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Mặc dù vậy, nhận thức về
xuất khẩu lao động ở nước ta còn chưa đầy đủ, chặt chẽ, việc xác định mục tiêu và
giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động còn chưa phù hợp. Do vậy hiệu quả
kinh tế -xã hội mà hoạt động này mang lại chưa xứng với yêu cầu về tiềm năng
nguồn lực mong đợi . Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của xuất khẩu
lao động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, em chọn đề tài
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

1
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

nghiên cứu “Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc giai
đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của đề án là phân tích, đánh giá thực trạng tình hình xuất khẩu lao động
Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 2005-2015. Trên cơ sở đó, đề án đề xuất những giải
pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc định hướng đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đề án nghiên cứu tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc về quy
mô, cơ cấu và những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc.
3.2. Phạm vi
Phạm vi của đề án là phân tích, đánh giá tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam
sang Hàn Quốc giai đoạn 2005-2015 và giải pháp thúc đẩy đến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích tổng hợp, so sánh,
thống kê.
Nguồn số liệu được lấy từ Tổng cục thống kê, tổng hợp từ số liệu của Cục quản
lý lao động nước ngoài – Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề án được trình
bày theo 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động xuất khẩu lao động và khái quát về thị
trường lao động của Hàn Quốc
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn
Quốc giai đoạn 2005-2015
Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy XKLĐ Việt Nam sang Hàn
Quốc đến năm 2020

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

2
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh

1


XKLĐ

Tiếng Việt
Xuất khẩu lao động

2

NKLĐ

Nhập khẩu lao động

3

KT – XH
CNH –
HĐH

Kinh tế - Xã hội
Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa
Chương trình cấp phép việc
làm

4
5

EPS

6


WTO

Employment Permit
System
World Trade
Organization

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

Tổ chức Thương mại thế giới

3
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ KHÁI QUÁT VỀ
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CỦA HÀN QUỐC
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XKLĐ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của XKLĐ
1.1.1.1. Các khái niệm chung
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá trình
mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao động
và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên thị trường lao động. Đối
tượng tham gia thị trường lao động gồm những người lao động và người sử dụng
lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền công mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động. Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi
hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có

thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một nước thì ta có
thị trường lao động quốc tế.
Xuất khẩu lao động ( Export of Labour) là hoạt động kinh tế của một quốc
gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp
định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và
nhận lao động.
Lao động xuất khẩu ( Labour export) là bản thân người lao động, có những
độ tuổi khác nhau, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những
yêu cầu của nước nhập khẩu lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang
đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là một hình thức di cư quốc tế.
Tuy nhiên đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp.
1.1.1.2. Nguyên nhân hình thành và phát triển XKLĐ
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao động một
nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước. Sự dư thừa lao
động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước có thể là vì nước đó
có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát triển
dẫn đến nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế
mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngay với cơ chế
mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dư thừa tăng
nhanh. Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử
dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện
tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong nước
không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao động trong
các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ
thuật có trình độ cao. Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của
mỗi quốc gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao
đổi lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát
triển của xuất khẩu lao động.

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

4
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động
nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu
lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng XKLĐ có
giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này
lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu lại vừa XKLĐ như: Cuba, Malaysia,
Bungari...
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao
động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì vậy mà nhiều
người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi XKLĐ để tăng thêm
thu nhập, cải thiện đời sống.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát
triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở
rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa, việc tăng
cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm theo việc
phát triển xuất khẩu lao động.
1.1.1.3. Các đặc điểm của XKLĐ
Thứ nhất, XKLĐ là một hoạt động kinh tế và là hoạt động mang tính xã hội
cao.
XKLĐ là hoạt động kinh tế vì nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia (bên
cung và bên cầu). Về vĩ mô bên cung là nước XKLĐ, bên cầu là nước NKLĐ. Về vi
mô bên cung là người lao động mà đại diện cho họ là các tổ chức kinh tế làm công
tác XKLĐ bên cầu là người sử dụng lao động nứơc ngoài. Ở góc độ nào thì với tư

cách là chủ thể của một hoạt động kinh tế khi tham gia hoạt động XKLĐ đều nhằm
mục tiêu là lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi phí bỏ ra với lợi ích thu
được để có quyết định hành động cuối cùng sao cho lợi nhất. Chính vì thế bên cạnh
các quốc gia chỉ đơn thuần là xuất khẩu hay nhập khẩu lao động thì còn có cả
những quốc gia vừa xuất khâu vừa nhập khẩu lao động.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: dù các chủ thể tham gia XKLĐ với mục tiêu kinh
tế nhưng trong quá trình tiến hành XKLĐ thì cũng đồng thời tạo ra các lợi ích cho
xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động, góp phần
ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân, nâng cao phúc lợi xã hội, đảm bảo an
ninh chính trị …
Thứ hai, XKLĐ là một hoạt động mang tính cạnh tranh.
Sở dĩ XKLĐ là một hoạt động mang tính cạnh tranh vì để XKLĐ cần có thị
trường lao động. Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị
trường trong nền kinh tế thị trường phát triển. Trên thị trường lao động diễn ra quá
trình thỏa thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho
thuê lao động. Cạnh tranh là quy luật tất yếu của thị trường. Trong cạnh tranh ai
mạnh thì thắng, yếu thì thua.
1.1.2. Các hình thức XKLĐ
1.1.2.1. Thông qua doanh nghiệp được phép cung ứng lao động theo hợp đồng
ký kết với bên nước ngoài

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

5
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

Đối tác nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động, đưa ra những yêu cầu cụ

thể về số lượng, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính...Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
của Việt Nam sau khi nhận được đơn đặt hàng của bên nước ngoài sẽ tiến hành sơ
tuyển dựa trên những tiêu chí có sẵn. Để đảm bảo đúng yêu cầu của mình, bên nước
ngoài thực hiện kiểm tra lại một lần nữa trước khi lao động sang làm việc.
1.1.2.2. Thông qua doanh nghiệp nhận thầu, nhận khoán công trình hoặc đầu tư
ở nước ngoài
Bên nước ngoài đặt hàng các công trình xây dựng, do vậy phải đưa đi đồng
bộ các đối tượng lao động gồm có kỹ thuật, quản lý, chỉ đạo thi công và lao động
trực tiếp sang nước ngoài làm việc. Sau khi công trình kết thúc thì cũng chấm dứt
hợp đồng đối với người lao động, vì thế xuất khẩu lao động theo hình thức khoán
khối lượng công việc thường không ổn định, tâm lý của người lao động dễ bị chán
nản, không tận tâm với công việc.
1.1.2.3. Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp ký kết với
người sử dụng lao động nước ngoài
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi đối tượng lao
động đa dạng tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của công việc. Có những yêu
cầu của người nước ngoài đòi hỏi người có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất,
kinh nghiệm tổ chức quản lý, cũng có những yêu cầu chỉ cần người lao động có
trình độ giản đơn.
Ngoài những hình thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài,
hình thức XKLĐ tại chỗ cũng đã trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam. Thông qua các
tổ chức kinh tế của ta, người lao động được cung ứng cho các tổ chức kinh tế nước
ngoài dưới những hình thức: các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế
xuất, khu công nghiệp và các tổ chức, cơ quan ngoại giao tại Việt Nam
1.1.3. Vai trò của XKLĐ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.3.1. Đối với nước XKLĐ
1.1.3.1.1. Tác động tích cực
Về mặt kinh tế, XKLĐ giúp giảm sức ép về việc làm trong nước, tăng thu
ngoại tệ, tăng thêm tri thức kinh nghiệm làm ăn kinh tế (qua học hỏi ở nước nhận
lao động), góp phần làm cân bằng thương mại trong nước, mang lại sự thịnh vượng

không chỉ cho bộ phận lao động nói mà chung cho cả đất nước.
Về mặt xã hội, XKLĐ góp phần làm giảm tệ nạn xã hội ( do thất nghiệp gây
ra), tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập được phong cách
lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị.
Về mặt đối ngoại, XKLĐ tạo điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác đôi
bên cùng có lợi, giao lưu với các nước, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giới thiệu con
người và đất nước của mình cho các nước khác.
1.1.3.1.2. Tác động tiêu cực
Về mặt kinh tế, giảm bớt một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa
chuyên môn tương đối cao; gây biến động về sức mua trong nước (giảm khi XKLĐ,
tăng đột ngột khi lao động trở về), có thể mất bí mật kinh tế (do người lao động
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

6
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

mang đi bán)…
Về mặt chính trị xã hội, dễ để lại hậu quả xấu ở nước nhận lao động nếu lao
động sang đó có các hành động sai trái (vi phạm luật pháp và phong tục tập quán).
Người lao động còn dễ dàng mang theo những nếp sống không phù hợp, các bệnh
xã hội từ nước ngoài về sau thời gian đi lao động ở nước ngoài.
1.1.3.2. Đối với nước nhận lao động
1.1.3.2.1. Tác động tích cực
Sẽ thu được những lợi ích đáng kể như cung cấp đủ số lao động bù đắp vào
các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng của đất nước, mở rộng
quan hệ và uy tín với nước có lao động, khai thác kinh nghiệm, kiến thức, tác
phong lao động và cung cách quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu thị trường

trong nước…
1.1.3.2.2. Tác động tiêu cực
Nước nhận lao động có thể đồng thời phải chịu những ảnh hưởng và tác
động xấu của người lao động đến làm việc ở nước mình (du nhập lối sống và bệnh
tật xã hội bên ngoài vào, phải cung ứng thêm một lượng lương thực, thực phẩm và
hàng hóa tiêu dùng…).
1.2. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HÀN QUỐC VÀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH
NHẬP KHẨU LAO ĐỘNG CỦA HÀN QUỐC
1.2.1. Thị trường lao động của Hàn Quốc
Hàn Quốc có diện tích là 99 538 km2, bằng 1/3 diện tích Việt Nam. Dân số
khoảng 50.22 triệu người (năm 2013) là một nước phát triển với mức sống cao.
Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba châu Á và thứ 10 thế giới
theo GDP năm 2006. Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh
tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm - một phân
tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành
nước giàu thứ 3 thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000
USD và 25 năm tiếp sẽ vượt qua các nước trừ Hoa Kỳ để trở thành nước giàu thứ
hai trên thế giới, với GDP bình quân/người là 81.000 USD.
Hiện nay, ở Hàn Quốc có trên 4 triệu các xí nghiệp, công ty vừa và nhỏ. Tuy
là các xí nghiệp vừa và nhỏ song có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế: 70%
lực lượng công nhân làm việc ở các xí nghiệp này, sản phẩm xã hội tuy chỉ chiếm
40% nhưng chủ yếu là sản xuất nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống.
Các xí nghiệp này được hình thành và phát triển từ các hộ gia đình sản xuất kinh
doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Do vị trí và vai trò quan trọng
của nó mà chính phủ Hàn Quốc từ trước đến nay đều rất quan tâm và tạo mọi điều
kiện cho loại hình kinh tế này phát triển.
Lao động Hàn Quốc có mức sống cao, có sự lựa chọn chỗ làm việc. Họ từ chối
làm việc ở các ngành sản xuất nặng nhọc, ô nhiễm; nhất là các xí nghiệp thuộc loại
3D (dirty, dangerous, difficult – độc hại, nguy hiểm, khó khăn) để chuyển sang các
ngành dịch vụ, văn phòng hay kỹ thuật cao. Tình trạng thiếu lao động tập trung chủ

yếu trong các xí nghiệp vừa và nhỏ, nhiều xí nghiệp đã phá sản làm ảnh hưởng đến
tốc độ phát triển kinh tế chung của đất nước.
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

7
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

Về phía các nước kém phát triển hơn trong khu vực: đã xuất hiện nhu cầu
XKLĐ, lập lại bước đi của Hàn Quốc ở các thập kỷ trước. Người lao động từ các
nước này kéo tới Hàn Quốc để làm việc ngày càng tăng, họ là công nhân của các
nước đang phát triển như: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Philippin, Bănglađet…
đến Hàn Quốc để hy vọng có một mức sống và tích lũy cao hơn trong nước. Đây là
một trào lưu chuyển dịch lao động ở Châu Á nhằm phân bổ lao động và hợp tác
hiệu quả hơn giữa các nước. Quả thật nhiều nước đã coi đây là một nguồn thu nhập
quốc gia và có chính sách cụ thể để đưa người ra nước ngoài làm việc. Ví dụ như
Thái Lan, XKLĐ của nước này đã trở thành một trong mười nguồn thu ngoại tệ lớn
nhất của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đã nảy sinh rất nhiều vấn đề còn đang tranh
luận từ phía Hàn Quốc cũng như từ phía các nước có lao động xuất khẩu.
Về phía Hàn Quốc: việc chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa vào các ngành công
nghiệp cần chuyển nhiều sức lao động sang các ngành công nghệ cao. Điều này đã làm
cho đất nước phải đối phó với khoảng trống giữa cung và cầu lao động. Xu hướng nhập
khẩu lao động tăng lên. Riêng trong năm 2005 có tới 24 552 công nhân từ 11 nước đã
được đưa vào Hàn Quốc, gồm có: 9366 người Hoa, 4 145 người Việt Nam, 3 600
người Philippin, 2060 người Bănglađet, 1361 người Indonesia, 1021 người Mianma.
Ngoài ra còn có số ít lao động đến từ NêPan, Pakittăng, Xrilanca và udơbekixtăng.
Những công nhân của những nước trên nằm rải rác trong số 5215 xưởng sản xuất, bao
gồm 21 ngành công nghiệp chế tạo như: Các xưởng dệt, may quần áo da và lông thú,

các sản phẩm cao su và nhựa, các máy móc và công cụ chế biến gỗ, giấy, đánh bắt cá
trên biển… Mỗi xưởng có khoảng từ 10 đến 200 công nhân.
1.2.2. Một số chính sách nhập khẩu lao động của Hàn Quốc
1.2.2.1. Chính sách nhập khẩu lao động của Hàn Quốc
Trước năm 2007, Hàn Quốc tiến hành tuyển dụng lao động nước ngoài nói
chung và Việt Nam nói riêng theo hai chế độ: chế độ cấp phép lao động và chế độ
tu nghiệp sinh công nghiệp.
 Với chế độ tu nghiệp sinh công nghiệp:
- Các quốc gia tuyển dụng công nhân : Nepal, Mông Cổ, Mianma,
Bangladesh,Việt Nam, Serilanca, Uzbekistan, Iran, Indonesia, Trung quốc,
Kazakhtan, Thái lan, Paskistan, Philipin, Campuchia gồm 15 quốc gia trọng tâm.
- Số lượng đăng kí: 130.000 người (Từ năm 2002)
- Số lượng được khai báo chính thức: 38.000 người.
Căn cứ vào các tài liệu hộ hợp đồng quản lí nhân lực lao động người nước
ngoài ở Bộ điều tra ngoại giao Hàn Quốc thì vào năm 2006 phải tuyển được thêm
58% so với con số 100.4000 trong năm 2005, tăng 60.000 người, dự báo là sẽ có sự
giao động mạnh về yêu cầu tuyển dụng lao động trong thời gian tới.
 Với chế độ cấp phép lao động:
- Các quốc gia tuyển dụng công nhân: Việt Nam, Indonesia, Philipin,
Srilanca, Thái Lan, Mông Cổ gồm 6 nước.
- Các ngành nghề kinh doanh: Kĩ nghệ sản xuất, kiến thiết, giáo dục, dịch vụ
- Chế độ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội (sức khoẻ, quốc dân, thuê mướn lao
động, tai nạn công nghiệp), bảo hiểm xuất cảnh trọn kì (tiền thôi việc), bảo hiểm
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

8
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học


việc nợ tiền lương của người lao động, bảo hiểm tiền về nước, thương tật cho người
lao động...
Ngoài ra Hàn Quốc còn tiếp nhận lao động nước ngoài qua chương trình Thẻ
vàng. Tháng 11/2005 đã có 32 doanh nghiệp Hàn Quốc sang Việt Nam trực tiếp
tuyển 100 lao động kỹ thuật cao trong các ngành điện tử, năng lượng, công nghệ
thông tin, trong đó khoảng 70 người đã được tiếp nhận sang làm việc tại Hàn Quốc.
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, Chương trình tu nghiệp sinh chính thức bị huỷ bỏ,
lao động đã đi theo Chương trình tu nghiệp sinh hiện đang làm việc tại Hàn quốc sẽ
được chuyển sang hình thức lao động.
Một số chính sách hỗ trợ lao động nước ngoài của Hàn Quốc
- Đẩy mạnh công tác giáo dục tiếng Hàn cho con em công nhân lao động di
trú. Bộ giáo dục nguồn nhân lực Hàn Quốc dự định sẽ thực hiện nhiều kế hoạch
mới. Ở cấp tiểu học, tổ chức lớp học tiếng Hàn, soạn thảo sách giáo khoa riêng cho
con em công nhân di trú. Bộ cũng sẽ điều tra xem thực trạng các vấn đề và tính thiết
yếu của nó và dự định đến tháng 8 này sẽ công bố thi hành những chính sách hỗ trợ
tổng hợp.
- Bộ tư pháp đảm trách vấn đề bảo vệ nhân quyền cho người nước ngoài.
- Các phương án hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng lao động của công nhân
cũng được đề xuất. Khi chủ công ty, nhà máy tổ chức huấn luyện phát triển năng
lực làm việc cho các nhân viên, công nhân hợp đồng thì học phí huyấn luyện và tiền
lương trong thời gian huấn luyện đó cũng sẽ được chi trả. Bắt đầu từ tháng 3/2006,
trường dạy nghề chuyên môn và trường Đại học kỹ thuật sẽ được sát nhập làm một
và được điều hành bởi Đại học trung tâm và các cơ sơ hệ thống. Những doanh
nghiệp nhỏ muốn tiến hành huấn luyện kỹ thuật và năng lực cho công nhân thì sẽ
được áp dụng chế độ bảo hiểm tuyển dụng, theo đó, lệ phí và tiền lương huấn luyện
cũng sẽ được chi trả.
- Những công nhân làm trong các ngành công nhân độc hại đều phải được
kiểm tra sức khoẻ đặc biệt. Kể từ ngày 01/01/2006, phạm vi các ngành công nghiệp
độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ lao động như: tiếng ồn, bụi, hoá chất v.v. được

xem xét mở rộng từ 120 đến 177 loại ngành nghề. Ngoài ra, việc thiết lập công đoàn
lao động của công nhân viên và các hoạt động đoàn thể được đảm bảo bằng các
chính sách cụ thể. Các điều kiện hạn chế và đình chỉ tư cách đấu thầu đối với các
công ty đã để xảy ra tai nạn, chết người cũng được thắt chặt hơn theo tiêu chuẩn từ
mức 3 người thiệt mạng xuống chỉ còn 2 người.
- Kể từ tháng 5/2005, các lao động nước ngoài (Khoảng 711.154 lao động)
phải nhập viện hoặc phẫu thuật khẩn cấp sẽ được nhận khoản trợ cấp của chính phủ
Hàn Quốc trị giá 5 triệu won. Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội Hàn Quốc đã dành ra 4,6 tỉ
won cho chương trình hỗ trợ này (chương trình này cũng dành cho cả những người
không có nhà cửa). Đây là lần đầu tiên chính phủ Hàn Quốc đưa ra một chương
trình bao gồm các chi phí phẫu thuật, nhập viện và các chi phí điều trị khác cho
những người lao động nhập cư và những người không có nhà cửa. Nguồn quỹ 4,6 tỉ
won được lấy phần lớn từ doanh thu bán xổ số.

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

9
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

1.2.2.2. Một số quy định đối với lao động khi nhập khẩu vào thị trường Hàn
Quốc
Luật pháp của Hàn Quốc đòi hỏi, những người lao động nước ngoài cần phải
có đầy đủ giấy tờ như giấy phép của Chính Phủ, visa ngay trước khi vào Hàn Quốc.
Thủ tục giấy tờ sẽ làm phức tạp thêm qúa trình nhập khẩu lao động, và sẽ làm cho
các xí nghiệp bản địa không thể có ngay được nguồn nhân lực ngay cả khi họ cần
gấp. Khi làm việc tại thị trường Hàn Quốc, người lao động phải tuân thủ một số quy
định như sau:

- Người lao động nước ngoài cũng phải tham gia mua các loại bảo hiểm: tuyển
dụng, tai nạn lao động, sức khoẻ, tiền lương và bảo hiểm xã hội.
- Trong khi làm việc, người lao động bị bệnh hay bị thương thì có thể nhận được
những khoản trợ cấp sau: điều dưỡng, nghỉ việc, thương tật, và trợ cấp gia đình.
- Tất cả tai nạn lao động xảy ra trong khi đang làm việc do lỗi của người lao
động sẽ không bị truy cứu trách nhiệm, lao động vẫn có thể nhận được sự bảo trợ
của Luật bảo hiểm bồi thường tai nạn lao động.
- Chủ sử dụng lao động phải mua bảo hiểm bảo lãnh tiền lương, đề phòng
trường hợp công ty bị phá sản mà không thể trả lương và tiền trợ cấp thôi việc cho
người lao động.
- Nếu lao động bỏ trốn khỏi nơi làm việc và trở thành người lưu trú bất hợp
pháp thì sẽ bị mất hết quyền lợi và không được pháp luật bảo vệ.
- Thời gian tối đa mà người lao động nước ngoài có thể làm việc ở Hàn Quốc
là 3 năm, mỗi năm phải ký lại hợp đồng 1 lần. Hết thời hạn này, lao động phải về
nước.
Trong thời gian làm việc tại Hàn Quốc, lao động không được mang theo gia đình.

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

10
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
VIỆT NAM SANG HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 2005-2015
2.1. HOẠT ĐỘNG XKLĐ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1.1. Chính sách XKLĐ của Việt Nam

Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ quản
lý hoạt động XKLĐ. Tùy trường hợp mà một số cơ quan như Bộ tài chính, Bộ công
an, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước, cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài và đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới trong
quản lý hoạt động này.
Thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP, Chính phủ quyết định về việc thành lập
quỹ hỗ trợ XKLĐ, hỗ trợ chi phí cho việc phát triển thị trường lao động mới, cho
việc đào tạo người lao động, hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp giải quyết rủi
ro cũng như việc thưởng cho các cơ quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động
XKLĐ.
Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ cho vay đối với người lao động đi xuất khẩu,
theo đó người đi XKLĐ không thuộc diện chính sách được vay tối đa là 20 triệu đồng
mà không yêu cầu thế chấp tài sản, điều này đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho người lao
động, nhất là đối với những lao động nghèo ở nông thôn – lực lượng chính của XKLĐ.
Đồng thời hồ sơ thủ tục xin đi XKLĐ cũng đã được giảm bớt và trở nên đơn giản thuận
lợi hơn.
Dù chủ trương chính sách đã được ban hành tương đối đồng bộ và từng bước
hoàn thiện, nhưng còn chậm để triển khai vào cuộc sống, vẫn còn tình trạng một số
ngành, địa phương đứng ngoài hoạt động XKLĐ hoặc có tham gia nhưng thiếu triệt
để. Ở một số địa phương, cán bộ còn quan liêu, cửa quyền và sách nhiễu dân trong
việc giải quyết thủ tục đi XKLĐ. Nhiều khoản mục cần thiết phải có sự hỗ trợ của
Nhà nước vẫn còn vắng bóng như chính sách hỗ trợ của Nhà nước với vấn đề tạo
lập, giữ vững và phát triển thị trường XKLĐ; tư pháp quốc tế; bảo hộ họat động
XKLĐ khi tham gia vào thị trường mới …
2.1.2. Đặc điểm nguồn lao động xuất khẩu của Việt Nam
2.1.2.1. Lợi thế so sánh
Thứ nhất, so với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam có nguồn lao động
rất dồi dào và sung sức khoảng 62 triệu người trên tổng số 90 triệu người (năm
2014), mỗi năm thêm hơn 1 triệu người đến tuổi lao động. Chiếm hơn 69% dân số,
nguồn nhân lực Việt Nam được xếp vào loại trẻ của thế giới, là động lực quan trọng

thúc đẩy hoạt động XKLĐ.
Theo Tổng cục Thống kê, Q1/2014, lực lượng lao động trong độ tuổi từ 15 trở
lên là hơn 69.2 triệu người, tăng 669 nghìn người (1%) so với Q1/2013, trong đó
lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là hơn 53.6 triệu người, tăng 592 nghìn
người so với Q1/2013.
Thứ hai, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước khác trong
khu vực và trên thế giới nên lao động Việt Nam có lợi thế so sánh so với thị trường
lao động thế giới về giá cả. Có thể thấy rằng việc xuất khẩu lao động không chỉ làm
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

11
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần làm
giảm chi phí cho các doanh nghiệp sử dụng lao động cũng như tiết kiệm nguồn lực.
Bảng 2.1. Giá nhân công của một số nước trên thế giới ( USD/ tháng)
Nước
Giá nhân công
Việt Nam
650
Trung Quốc
770
Malaysia
700
Ấn Độ
750
Thái Lan

680
Indonesia
720
Thứ ba, lao động Việt Nam có tố chất cần cù, chịu khó, khéo tay, tiếp thu
nhanh và không ngừng được nâng cao chất lượng, các lao động được đào tạo bài
bản. Chính phủ Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề
từ 26% vào năm 2012 lên 44 triệu người (khoảng 70% số lao động vào năm 2020).
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng giảm trong nông nghiệp, tăng
trong công nghiệp và dịch vụ, tăng tỷ lệ lao động chất xám. Tỷ lệ lao động khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 là 46.6% (giảm 0.2% so với năm 2013);
khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21.4% (tăng 0.2% so với năm 2013); khu
vực dịch vụ duy trì ở mức 32%. Đặc biệt, lao động tham gia hoạt động XKLĐ được
học và làm quen kỹ lưỡng về phong tục tập quán, ý thức kỷ luật lao động và trách
nhiệm cộng đồng. Vi thế họ có khả năng thích nghi nhanh hơn với môi trường làm
việc mới, phong cách làm việc chuyên nghiệp, tác phong làm việc công nghiệp.
2.1.2.2. Hạn chế của nguồn lao động Việt Nam
Thứ nhất, nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng thiếu sự quan tâm
thỏa đáng, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, còn đào tạo thì nửa vời,
thiếu bài bản. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất. Đây là nhược điểm lớn nhất của lao động Việt Nam.
Thứ hai, tình trạng cung- cầu còn nhiều bất cập. Cơ cấu lao động tuy đã có
bước chuyển tích cực tăng tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ
giảm tỷ lệ trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp, nhưng thực tế cung vẫn lớn hơn
cầu về lao động, vì vậy sức ép về việc làm là rất lớn, nhất là trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay.
Thứ ba, trình độ ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của công
nghệ sản xuất hiện đại, chủ yếu là XKLĐ phổ thông. Một số loại lao động kỹ thuật
nước ngoài có nhu cầu nhưng ta chưa có đủ để đáp ứng.
Ngoài ra, lao động Việt Nam còn bộc lộ những nhược điểm làm giảm tính
cạnh tranh của chính mình, đó là thể lực yếu, ý thức cộng đồng chưa cao, tính kỷ

luật, tự giác của lao động Việt Nam yếu, thiếu tác phong làm việc công nghiệp do
tác phong của người lao động Việt Nam bị ảnh hưởng lớn của nền nông nghiệp
canh tác lúa nước vì Việt Nam mới bước vào quá trình công nghiệp hóa, phần lớn
người lao động xuất thân từ nông dân. Nhiều trường hợp tự bỏ hợp đồng trốn ra
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

12
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

ngoài sống bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động của Việt Nam.
Tình trạng lao động phải về nước trước hạn cũng xảy ra phố biến, dẫn đến việc
doanh nghiệp mất nguồn thu phí dịch vụ, phát sinh tăng chi phí để giải quyết các
vấn đề và làm giảm đáng kể hiệu quả của dịch vụ xuất khẩu lao động của doanh
nghiệp.
Bởi vậylao động Việt Nam mới chỉ thâm nhập chủ yếu vào lĩnh vực không đòi hỏi
trình độ tay nghề cao và thông thạo ngoại ngữ. Chúng ta cần khắc phục những điểm
này để thâm nhập sâu hơn vào các lĩnh vực kỹ thuật cao như công nghệ tin học,
công nghệ sinh học…
2.1.3. Tình hình XKLĐ của Việt Nam
Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế
chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng đã qua nhiều lần thay
đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế của ta trong
từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công tác XKLĐ của ta đã đạt được những
yêu cầu cơ bản trong mục tiêu đặt ra và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ khi cơ chế thay đổi năm 1991, hoạt động XKLĐ phát triển
mạnh mẽ, mở rộng thị trường ra nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Bước sang thế kỷ
21 có sự tăng đột biến lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang nước ngoài, nhiều

nhất tại ba thị trường Đài Loan, Malaysia và Hàn Quốc.
Theo số liệu thống kê của Cục quản lý lao động ngoài nước của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội cho biết giai đoạn 2005-2007 có 176597 lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Cụ thể như sau:
Bảng 2.2. Số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
giai đoạn 2005-2007
Khu vực
Số người
Đài Loan
70 564
Malaysia
32 218
Hàn Quốc
31 243
Nhật Bản
19 252
Khu vực Trung Đông
17 972
Khu vực châu Phi
5348
Biểu đồ 2.1. Lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
giai đoạn 2005-2007

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

13
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học


Giai đoạn 2008 đến tháng 12/ 2014 có 447 753 lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài ở các khu vực đã tăng lên đáng kể với những con số đáng chú ý:
Bảng 2.3. Lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
giai đoạn 2008-2014

Khu vực
Đài Loan
Malaysia
Hàn Quốc
Nhật Bản
Khu vực Trung Đông
Khu vực châu Phi

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

Số người
170 543
78 157
77 963
50 921
43 834
26 335

14
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học


Biểu đồ 2.2. Lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
giai đoạn 2008-2014

Có thể thấy Đài Loan, Maylaysia và Hàn Quốc vẫn là 3 thị trường hàng đầu
nhập khẩu lao động Việt Nam. Lượng lao động xuất khẩu sang các thị trường này
tăng lên đáng kể qua các năm. So với các thị trường khác thì 3 thị trường này chiếm
tổng cộng khoảng 70% cơ cấu thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Bảng 2.4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam
giai đoạn 2005-2014
Thị trường
Cơ cấu
Đài Loan

38%

Malaysia

17%

Hàn Quốc

17%

Nhật Bản

11%

Trung Đông

10%


Châu Phi

7%

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

15
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

Biểu đồ 2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam
giai đoạn 2005-2014

XKLĐ là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng cho đất nước.
Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2007 đã gửi về cho gia đình khoảng 1,5 tỉ
USD, bình quân mỗi lao động khoảng 3.750 USD mỗi năm hay 302,5 USD mỗi
tháng, chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và tương đương với nguồn vốn ODA
giải ngân trong năm. Năm 2014 lao động xuất khẩu đã gửi về nước hơn 2tỉ USD.
Theo thống kế thu nhập của lao động xuất khẩu tại Hàn khá ổn định, bình quân đạt
950-1200 USD/tháng/người; một số có thu nhập 1500USD, cá biệt có lao động đạt
2000 hoặc hơn 2000 USD/tháng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt
động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua cũng có một
số tồn tại và hạn chế, đó là tình trạng lao động tự bỏ trốn không thực hiện hợp đồng
đã ký kết.
Đối với thị trường lao động ở một số quốc gia phát triển, như Mỹ, Canada,
Australia, Châu âu, có nhu cầu rất lớn, yêu cầu tương đối cao, nhất là trình độ ngoại
ngữ, mức lương cao, thì chúng ta chưa có lao động có đủ trình độ chuyên môn,

trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc.Theo kế hoạch dạy nghề, việc làm và
XKLĐ giai đoạn 2010-2015, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đặt ra mục tiêu
trong giai đoạn này sẽ đưa khoảng 40 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ
lao động có nghề trong số xuất khẩu lên 80% vào năm 2015: tăng lao động có chất
lượng; có ngoại ngữ; Đào tạo kỹ năng, kỷ luật lao động và tác phong làm việc cho
người lao động; tập trung vào những thị trường có kỹ thuật, chuyên môn nhằm đưa
lao động đi làm việc ở những thị trường mới, có thu nhập cao hơn.
2.1.4. Vị trí của hoạt động XKLĐ sang Hàn Quốc đối với XKLĐ của Việt Nam
Tỷ lệ hồ sơ dự tuyển của lao động Việt Nam gửi đi được người sử dụng lao
động lựa chọn tiếp nhận là 85%, cao nhất trong số 15 quốc gia đưa lao động sang
Hàn Quốc. Tính đến nay, đã có hơn 64000 lao động Việt Nam được đưa đi làm việc
theo chương trình này. Lao động ta làm việc tại đây chủ yếu trong các nhà máy công
nghiệp (khoảng 87%), số còn lại làm việc trong các ngành nông nghiệp, xây dựng và
thủy sản. Người lao động có điều kiện bảo đảm, việc làm ổn định và thu nhập cao. Mức
thu nhập trung bình mỗi tháng của công nhân Việt tại Hàn Quốc khoảng 850-950 USD
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

16
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

là tương đối ổn định cho họ. Khi hết hợp đồng làm trong thời hạn từ 3 đến 5 năm tại Hàn
Quốc, họ sẽ có một ít vốn liếng, họ sẽ trở về Việt Nam làm ăn, sinh sống, gần gũi với gia
đình.
Bảng 2.5 Thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động xuất khẩu tại
một số thị trường năm 2014
Nước và
vùng lãnh

thổ

Tiền lương
theo hợp
đồng (USD)

Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Malaysia
Lào
Libya
Trung Đông
Đông Âu
Úc-Bắc Mỹ
Bình quân

800-900
600-800
600-800
160-250
150-200
200-400
200-400
400-600
2.000-2.500
660

Các
khoản

đóng góp

Tiền
thưởng,
làm thêm

Chỉ tiêu
cho bản
thân

Tích luỹ
theo
tháng

0
300
250
850-950
60-80
400
300
640-820
40-60
300
200
660-840
30
100
100
130-220

30
70
50
140-190
20
150
100
230-430
15
150
100
235-435
30-50
400
300
470-650
200-250
200
500
1500-1950
54
228
211
623
(Nguồn: Cục Quản lý Lao động nước ngoài)
Theo bảng trên ta thấy thu nhập ròng bình quân tháng của người lao động xuất
khẩu Hàn Quốc thuộc vào loại cao so với các thị trường khác, cụ thể là xếp thứ 2
cao nhất 850-950 USD, cao nhất là tại thị trường Úc và Bắc Mỹ với mức 1500-1950
USD, tiếp theo là Nhật Bản và Đài Loan với mức 640-820 USD, thấp nhất là tại
Malaysia với mức 130-220 USD và tại Lào với mức 140-190 USD. Hàn Quốc là thị

trường có mức thu nhập hấp dẫn đối với lao động Việt Nam.
Hàn Quốc là thị trường XKLĐ đem lại nguồn lợi về kinh tế lớn đối với người
lao động Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đây là thị trường
có nhiều triển vọng về số lượng lao động đưa đi và kết quả thu được.Ngoài ra,
XKLĐ sang Hàn Quốc còn là công cụ chuyển giao công nghệ tiên tiến giúp đào tạo
cán bộ có chất lượng cao đồng thời tăng cường hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và
Hàn Quốc. Chính bởi vậy, thị trường Hàn Quốc là một thị trường chiến lược đối với
hoạt động XKLĐ của Việt Nam.
2.2. THỰC TRẠNG XKLĐ VIỆT NAM – HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 20052015
2.2.1. Quy mô XKLĐ Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 2005-2015
2.2.1.1. Quy mô XKLĐ
Sự bùng nổ của nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 80 đã khiến nước này
thiếu hụt nhân công trầm trọng. Để cung cấp đủ nhân lực cho các ngành công
nghiệp vừa và nhỏ, Hàn Quốc đã bắt đầu có chính sách tiếp nhận lao động nước
ngoài từ những năm 80. Hiện nay hàng năm Hàn Quốc cần tiếp nhận khoảng 50.000
lao động nước ngoài để cung cấp đủ nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việt Nam chính thức đặt quan hệ hợp tác với Hàn Quốc trong lĩnh vực XKLĐ từ
năm 1993. Trước đây, ta đưa lao động sang Hàn Quốc theo hình thức tu nghiệp sinh

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

17
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

thông qua một số doanh nghiệp dịch vụ. Từ năm 2004, theo Luật Cấp phép việc làm
cho người lao động nước ngoài của Hàn Quốc, hai bên đã ký thỏa thuận về đưa lao
động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo hình thức phi lợi nhuận, người lao

động chỉ phải chịu chi phí 700 USD trước khi đi.
Năm 2014, tỷ lệ lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc chiếm
trên 30% tổng số lao động đi làm việc ở nước này. Nếu con số này không giảm
xuống dưới 30%, nhiều khả năng Việt Nam sẽ mất thị trường xuất khẩu lao động
giàu tiềm năng này. Kết quả giảm rất khả quan này là do sự hợp tác chặt chẽ của hai
Chính phủ với những chính sách được thực thi một cách tích cực. Chẳng hạn, phía Hàn
Quốc có những chính sách như: tìm và phối hợp đưa lao động bất hợp pháp về nước,
cho phép lao động thực hiện đúng hợp đồng được nhập cảnh làm việc trở lại sau 6
tháng, xử lý nghiêm các chủ sử dụng lao động tuyển dụng lao động bất hợp pháp…
Quy mô XKLĐ Việt Nam sang Hàn Quốc ngày càng được mở rộng, nâng cao
cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu nhóm ngành nghề dần trở nên lợi thế với mức
thu nhập cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao động. Năm 2012, tổng
số lao động nước ngoài được nhập cảnh vào Hàn Quốc là 20.200 người, trong đó
Việt nam đã có 3.209 lao động, chiếm 15,9%, đứng đầu trong số 15 quốc gia phái
cử.
Toàn giai đoạn 2005-2015, Việt Nam có tổng cộng 109206 lao động xuất khẩu
sang thị trường Hàn Quốc, được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.6. Số lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc
giai đoạn 2005-2015
Năm
Số Lượng
Mức tăng, giảm
2005
12 102
2006
11 832
-2.6%
2007
13 766
+16.3%

2008
24 569
+78.5%
2009
4 837
-80.3%
2010
8 139
+68.3%
2011
11 291
+38.7%
2012
10 200
-9.7%
2013
5 500
-46.1%
2014
6 970
+26.7%

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

18
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học


Biểu đồ 2.4. Sự thay đổi về số lượng lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc
giai đoạn 2005-2014

Nhìn chung số lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc thay đổi rõ rệt
theo từng năm, đặc biệt là trong năm 2005, số lao động xuất khẩu sang thị trường Hàn
Quốc tăng 152% so với năm 2004, đây là năm có tính đột phá nhất trong những năm
gần đây. Bước sang 2006 có sự sụt giảm 2,6% so với 2005 nhưng tới năm 2007, số lao
động xuất khẩu đã tăng trở lại. Được phía Hàn Quốc đánh giá cao về lao động Việt
Nam, sang năm 2008, lượng lao động Việt Nam đưa sang thị trường này vẫn tiếp tục
tăng mạnh, đạt mức kỷ lục khi tăng tới 93%. Nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 – 2009 đã làm suy giảm trầm trọng lượng lao động xuất khẩu
của ta, giảm 81,7% so với năm 2008. Năm 2010 cả nước đưa được 8628 lao động tăng
so với năm 2009. Các năm 2011, 2012 số lượng lao động xuất khẩu tăng thêm hơn
3000 người, vì kinh tế Hàn Quốc đang phục hồi nhanh, nhu cầu lao động gia tăng. Hơn
nữa, lao động Việt Nam được phía Hàn Quốc đánh giá cao. Hiện Việt Nam đứng đầu
danh sách 15 nước có lao động tại Hàn Quốc, chiếm 23% tổng hạn ngạch nhập khẩu
lao động nước ngoài của nước này.
Theo số liệu của Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội), trong 2 tháng đầu năm, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài là 17 206 lao động, đạt 18.11% kế hoạch năm 2015 và tăng 23.5% so
với cùng kỳ năm ngoái. Chỉ riêng tháng 2 có 8 537 lao động xuất khẩu: Đài Loan
tiếp nhận 5 770 lao động; Nhật Bản 1 884 lao động; Hàn Quốc 193 lao động;
Malaysia 205 lao động và các thị trường khác. Trong hai tháng đầu năm, Đài Loan
tiếp tục là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất với 10 906 người,
chiếm 63.4 tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tiền từ các hợp đồng với công ty Hàn Quốc sử dụng lao động VN và tiền từ người
lao động gửi về làm tăng nguồn ngoại hối của quốc gia . Hằng năm ngoại hối do lao
động xuất khẩu sang Hàn Quốc gửi về qua đường chính thức khoảng 760 triệu USD.
Những tháng vừa qua cũng như thời gian sắp tới, lao động Việt Nam bảo đảm
tiêu chuẩn do đối tác quy định, đã và sẽ tiếp tục sang làm việc tại Hàn Quốc. Đây là

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

19
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

thị trường truyền thống trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam, cùng với Đài Loan,
Nhật Bản, Malaysia là 4 quốc gia luôn đứng đầu trong các quốc gia NKLĐ động
Việt Nam. Quy mô XKLĐ Việt Nam sang thị trường này không ngừng gia tăng và
dự đoán sẽ còn tiếp tục tăng cao hơn nữa trong những năm tiếp theo, đồng thời đây
cũng trở thành thị trường quan trọng khi mức lương cao và công việc ổn định.
2.2.1.2. Tỷ lệ lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc hoàn thành hợp đồng
Tỷ lệ lao động Việt Nam hoàn thành hoạt động XKLĐ qua các năm ngày càng
cao và ổn định hơn. Dự báo năm 2014, tỷ lệ này tiếp tục tăng lên.
Bảng 2.7. Tỷ lệ lao động Việt Nam hoàn thành hoạt động XKLĐ qua các năm
giai đoạn 2005-2014
Năm
Tỷ lệ hoàn thành hoạt động XKLĐ
2005
65%
2006
61%
2007
62%
2008
70%
2009
65%

2010
70%
2011
73%
2012
77%
2013
72%
2014
71%
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ lao động Việt Nam hoàn thành hoạt động XKLĐ qua các
năm
giai đoạn 2005-2014

Năm 2012, tỷ lệ lao động Việt Năm hoàn thành hoạt động XKLĐ đạt 77%
tăng 12% so với năm 2005. Tuy nhiên đến từ năm 2013 đến nay, tỷ lệ này ngày
càng giảm. Ông Choi Byung Gie, Giám đốc Chương trình EPS tại Việt Nam cho
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

20
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

biết, đến thời điểm hiện tại, vẫn còn hơn 14.000 lao động Việt Nam làm việc bất
hợp pháp tại Hàn Quốc, chiếm tỷ lệ hơn 40% trong tổng số lao động bỏ trốn của 14
quốc gia có ký kết EPS với nước này. Điều này khiến lao động Việt Nam đánh mất
vị trí số một trong những nước có nhiều lao động nhất làm việc tại Hàn Quốc vào
tay Campuchia.

2.2.2. Cơ cấu lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc giai đoạn 20052015
2.2.2.1. Theo ngành, trình độ
Tổng thể, hiện có khoảng 90.000 người lao động Việt Nam đang làm việc ở
Hàn Quốc, trong đó 85% làm ở lĩnh vực chế tạo, còn lại là trong các lĩnh vực xây
dựng, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất nhựa, cao su, gia công cơ khí, chăn nuôi,
thủy sản…
Giai đoạn từ 2005 đến trước năm 2010, trong tổng số khoảng trên 50.000 lao
động xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc thì phần lớn làm việc trong ngành công
nghiệp, bên cạnh đó là các ngành thuyền viên tàu cá, vận tải biển, xây dựng và một
số ngành nghề khác. Số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.8. Số lượng lao động phân theo ngành nghề giai đoạn 2005- 2009
Năm
Ngành nghề
Tổng
Tỷ lệ
2005
2006
2007
2008
2009
Công nghiệp
9680
9305 10862 19769
2912
52528
76%
Thuyền viên tàu cá
1140
1219
1850

4221
892
9322
14%
Vận tải biển
100
172
160
157
118
707
1%
Xây dựng
1023
1031
780
1620
825
5279
7%
Ngành nghề khác
159
105
114
802
90
1270
2%
Tổng
12102 11832 13766 26569

4837
69106
Biểu đồ 2.6. Số lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc phân
theo ngành nghề giai đoạn 2005-2009

Có thể thấy đa số lao động xuất khẩu Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc trong
lĩnh vực công nghiệp, đó là cá ngành chế tạo máy, sản xuất linh kiện, máy móc thiết
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

21
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

bị, ...Sở dĩ như vậy vì đây là nhóm ngành cần số lượng lao động lớn với chi phí hợp
lý và cũng là nhóm ngành mũi nhọn của kinh tế Hàn Quốc. Tiếp theo là nhóm
ngành thuyền viên tàu cá, đây cũng là một ngành khá phổ biến và thuộc nhóm
ngành truyền thống của lao động Việt Nam khi XKLĐ sang Hàn Quốc. Giai đoạn
2005-2009 cũng là giai đoạn chứng kiến sự sụt giảm lớn về số lượng lao động Việt
Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới. Chỉ trong vòng 1 năm từ 2008 sang 2009, lượng lao
động xuất khẩu giảm tới 80.3% từ 24 596 xuống 4837 lao động. Vì vậy, cơ cấu lao
động theo ngành nghề cũng có một số thay đổi đáng kể. Lượng lao động trong các
ngành đều giảm sút nhưng vẫn tập trung chủ yếu vào các nhóm ngành công nghiệp,
thuyền viên tàu cá và vận tải biển.
Biểu đồ 2.7. Cơ cấu xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc phân theo
nhóm ngành giai đoạn 2005-2009

Xét tổng quan, về cơ cấu các nhóm ngành thì dẫn đầu là nhóm ngành công

nghiệp chiếm 76% lượng lao động xuất khẩu, tiếp theo là nhóm thuyền viên tàu
cá với 13,5% và xây dựng 7,6%. Nhóm ngành vận tải biển và các ngành nghê
khác lần lượt chiếm tỷ trọng 1,4% và 1,5% trong tổng số lao động xuất khẩu giai
đoạn 2005-2009.
Giai đoạn 2010-2012 khởi sắc hơn khi số lượng lao động xuất khẩu có những
chuyển biến tích cực và không ngừng tăng mạnh. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo
ngành nghề ở giai đoạn này cũng có thay đổi khi xuất hiện một vài nhóm ngành mới
thu hút nhiều lao động Việt Nam như ngành thủy sản, ngư nghiệp, nông
nghiệp,...Cụ thể như sau:
Bảng 2.9. Số lượng lao động phân theo ngành nghề giai đoạn 2010-2012
Năm
Ngành nghề

2010

2011

Sản xuất chế tạo
5230
6700
Xây dựng
1200
1540
Nông nghiệp
1020
1125
Thủy sản
980
135922
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

Ngành nghê
967
198
khác
Tổng
8628
11691

2012

Tổng

Tỷ lệ

6540
1350
970
1086

18470
4090
3115
3425

61%
13%
10%
11%

254

1419
Lớp: Thương
mại quốc tế5%
54B
10200

30519

100%


Đề án môn học

Biểu đồ 2.8. Số lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc
phân theo ngành nghề giai đoạn 2010-2012

Cơ cấu ngành nghề giai đoạn này có sự thay đổi so với giai đoạn 2005-2009
do sự chuyển dịch cơ cấu phù hợp với tình hình kinh tế của Hàn Quốc. Tuy nhiên
nhóm ngành chiếm đa số vẫn là nhóm sản xuất chế tạo, đây vẫn là ngành chủ lực và
có nhu cầu lao động lớn nhất. Bên cạnh đó, nhóm ngành xây dựng cũng thu hút
ngày càn nhiều lao động do chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng của chính phủ Hàn
Quốc. Các nhóm ngành thuyền viên tàu cá và vận tải biển không còn chiếm vị trí
như trước thay vào đó là ngành thủy sản và nông nghiệp. Đây là nhóm ngành mà
lao động Việt Nam xuất khẩu dễ tiếp cận cũng như thích nghi được tốt với công
việc do không yêu cầu cao về trình độ cũng như tay nghề của người lao động.
Biểu đồ 2.9. Cơ cấu xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc phân theo
nhóm ngành giai đoạn 2010-2012

Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung


23
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


Đề án môn học

Mức lương trung bình của người lao động theo từng nhóm ngành nghề cũng có sự
khác biệt. Trong 4 nhóm ngành chính bao gồm: Công nghiệp chế tạo, Nông lâm
thủy sản, Xây dựng và các ngành khác thì nhóm Công nghiệp chế tạo vẫn là nhóm
ngành dẫn đầu về số lượng cũng như mức lương người lao động được hưởng. Số
liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.10. Mức lương trung bình của LĐXK sang Hàn Quốc theo nhóm ngành
giai đoạn 2005-2014
Nhóm ngành
Mức lương trung bình (USD/tháng)
1. Công nghiệp chế tạo
900
2. Nông, lâm thủy sản
750
3. Xây dựng
800
4. Các ngành khác
680
Thu nhập của lao động XK sang Hàn Quốc thuộc mức cao so với các quốc gia
NKLĐ Việt Nam khác và khá ổn định. Mức thu nhập này sẽ còn tăng lên trong thời
gian tới với những chính sách ưu đãi hơn cho người lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
cũng như nhu cầu về nhân lực ở các ngành nghề ngành càng đa dạng.
2.2.2.2. Theo trình độ
Hạn chế lớn nhất của nguồn lao động Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hàn
Quốc là trình độ tay nghề của người lao động. Chất lượng nguồn lao động chưa cao,

tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo thấp, ý thức làm việc của người lao động Việt
Nam chưa cao nên người lao động Việt Nam ở Hàn Quốc chưa đạt được vị trí làm
việc cũng như mức lương tối đa. Với nhiều chính sách hỗ trợ của chính phủ Việt
Nam, trình độ của người lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc ngày càng được nâng
cao qua từng năm. Trong giai đoạn 2005-2014, tỷ lệ lao động qua đào tạo và lượng
lao động lành nghề không ngừng tăng.
Bảng 2.11. Tỷ lệ lao động qua đào tạo qua các năm từ 2005 đến 2014
Năm
Lượng lao động qua đào tạo
Tổng số lao động
Tỷ lệ
2005
4 236
12 102
35%
2006
5 088
11 832
43%
2007
6 333
13 766
46%
2008
13 550
24 569
51%
2009
2 660
4 837

55%
2010
5 090
8 139
59%
2011
7 482
11 291
64%
2012
7 344
10 200
72%
2013
4 070
5 500
74%
2014
5 228
6 970
75%
Trong 8 năm từ 2005 đến 2014, tỷ lệ lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc qua
đào tạo đã tăng lên đáng kể. Những năm từ 2005- 2007, tỷ lệ lao động qua đào tạo
còn thấp dưới 50%. Giai đoạn này, lao động Việt Nam khi xuất khẩu sang thị
trường Hàn Quốc chủ yếu làm việc ở những ngành nghề không đòi hỏi trình độ
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

24
Lớp: Thương mại quốc tế 54B



Đề án môn học

chuyên môn cao như lao động chân tay ở các khu chế xuất, khu công nghiệp; đi làm
thuyền viên tàu cá hay làm giúp việc gia đình,.. Chính bởi vậy lao động Việt Nam
vẫn chưa đạt được mức thu nhập cao và nhiều trường hợp bị trả về do không đảm
bảo được chất lượng trong quá trình làm việc. Từ năm 2008- 2014, tỷ lệ lao động
qua đào tạo không ngừng được tăng lên do yêu cầu từ phía Hàn Quốc, cũng như
chính phủ Việt Nam và các đơn vị đưa lao động đi xuất khẩu đã chú trọng hơn
đến công tác nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động khi đưa xuất khẩu
sang thị trường nước bạn. Trong 7 năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 51%
(2008) lên 75% (2014), đây là tín hiệu đáng mừng, đảm bảo được chất lượng
nguồn lao động xuất khẩu của Việt Nam đồng thời đảm bảo nguồn thu nhập cao
cho người lao động, giảm thiểu được tỷ lệ người lao động Việt Nam bị trả về
do không đảm bảo chất lượng lao động khi làm việc ở Hàn Quốc.
Sự thay đổi về tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam khi xuất khẩu sang
Hàn Quốc được thể hiện rõ ràng hơn trên biểu đồ:
Biểu đồ 2.10.Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam khi xuất khầu sang Hàn

Quốc
Năm 2014, tỷ lệ lao động Việt Nam xuất khẩu đã qua đào tạo đã chiếm tới
75% tổng số lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc. Theo kế hoạch của Bộ lao động
Thương binh và Xã hội, con số này sẽ còn tiếp tục tăng cao trong những năm tiếp
theo do công tác đào tạo, nâng cao chất lượng lao động ngày càng được chú trọng
đầu tư và cải thiện.
2.2.2.3. Theo hình thức XKLĐ
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, Chương trình tu nghiệp sinh chính thức bị
huỷ bỏ nhằm thống nhất quản lý, những lao động đã đi theo Chương trình tu nghiệp
sinh hiện đang làm việc tại Hàn quốc sẽ được chuyển sang hình thức lao động.
Như vậy hiện nay chỉ còn 3 hình thức cung ứng lao động cho Hàn quốc.

- Lao động đi theo Chương trình Cấp phép làm việc (EPS)
Sinh viên: Đồng Thị Hồng Nhung

25
Lớp: Thương mại quốc tế 54B


×