Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

KHUÔN MẪU DÁN NHÃN ĐỊNH KIẾN PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THIÊN KIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.9 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


PHN I: KHUễN MU (STEREOTYPE)
1. nh ngha

Thut ng khuụn mu xó hi do Lippman (ngi M) a ra, nhm núi n nhng biu
tng bn vng c n gin hoỏ khỏi quỏt v s hoỏ mi khi nhỡn nhn i tng
m thiu ht thụng tin. Khuụn mu l biu tng xó hi ca cỏ nhõn trong cựng mt
nhúm. Khuụn mu xó hi cú th mang tớnh tớch cc hoc tiờu cc.
L quan nim, suy lý, phỏn xột khỏi quỏt, gin n, phin din nhng cú tớnh ph bin
v tng i bn vng trong mt cng ng xó hi.
Khuụn mu tn ti trong tt c cỏc lnh vc hot ng ca con ngi, ca xó hi:
trong tụn giỏo, o c, chớnh tr, Chng hn, trong thi k bao cp, cỏc khuụn mu v
ch ngha xó hi l cỏc quan nim nh: ch ngha xó hi i lp vi kinh t hng hoỏ,
th trng, ch ngha xó hi l s hu nh nc v s hu tp th. Trong lnh vc o
c, cỏc khuụn mu t duy v con ngi tt ó tng tn ti l cỏc quan nim: ngi tt
l ngi khụng buụn bỏn, l ngi khụng cú s hu t nhõn,
Khuụn mu l s gin n thc t, song s tn ti ca nú khụng phi hon ton phi lý,
cú th núi, s tn ti ca khuụn mu va hp lý, va cn thit ng thi cng va bt hp
lý.
Vớ d: Trong cuộc sống, chúng ta thờng có rất nhiều niềm tin khác nhau. Chẳng hạn,
có những niềm tin cho rằng ngời Anh lạnh lùng, thờ ơ kiểu Phớt tỉnh ănglê; ngời Mỹ
thực dụng; ngời Do Thái thông minh, bủn xỉn, ranh mãnh; ngời da đen lời nhác, trộm cắp;
những thủ th buồn tẻ và cau có; những ngời làm nghề buôn bán thì không thể tin đợc
2. c im ca khuụn mu:

Khuụn mu l trng thỏi ng nht ca ba yu t: nhn thc, tỡnh cm v ý chớ.
- Thnh phn nhn thc: ú l quan nim, nhn nh ca ch th v i tỏc


- Thnh phn tỡnh cm: tõm trng, cm tng, cm xỳc ca ch th vi i tỏc.
- Thnh phn ý chớ: ú l xu hng hnh ng ca ch th nhm i phú vi i tỏc.
Khuụn mu cú cỏc c im ni bt sau:

2


- Sc mnh khi ng v iu chnh hnh vi: nú thc hin chc nng khi ng v
hng dn hnh vi ca nhúm xó hi.
- Tớnh tng i bn vng: khuụn mu xó hi cú th tn ti rt lõu di, t th h ny
sang th h khỏc.
- Xột nh giỏ tr (ỏnh giỏ): khuụn mu th hin khuynh hng i phú ca ch th
vi i tỏc di gúc thin cm hay ỏc cm, hi lũng hay khụng hi lũng, nht trớ hay
phn i, Gúc ny th hin ý ngha, giỏ tr ca i tỏc i vi ch th.
Khuôn mẫu thực chất là một dạng thức của tri giác xã hội, là những giản đồ thiếu chính
xác và không đầy đủ về cá nhân hay nhóm mà chúng ta có đợc nhờ kinh nghiệm sống của
mình.
Khuôn mẫu là những lợc đồ nhận thức phổ biến đợc khái quát và kích hoạt để giúp chúng
ta nhận biết một cách đơn giản sự phức tạp trong quá trình trải nghiệm cuộc sống thông
qua cách phân loại và khái quát hoá về ngời khác. Vì vậy nó tiếp tục tồn tại bất chấp sự
phiến diện trong việc đánh giá thực tế vấn đề của cuộc sống phức tạp. Cũng giống nh tất
cả sự khái quát hoá khác, khuôn mẫu đã tồn tại những lệch lạc và sai lầm. (David O. Sear,
Lettia Anne Peplan, Jonathan L. Freedman, Shelley E. Taylor). Điều này thể hiện cụ thể ở
những điểm sau:
- Những khuôn mẫu luôn đa ra một hình ảnh giản ớc về đối tợng và trong một số trờng
hợp thì sai hoàn toàn. Trong mt hon cnh thiu ht thụng tin, kinh nghim sng hn
ch chỳng ta thng la chn gii phỏp d dng nht gii bi toỏn v ngi khỏc.
Chỳng ta cú xu hng xp nhng con ngi rt a dng vo nhng hng n gin v
cú nhng kt lun sai lm v h. Chỳng ta cng cú xu hng da vo nhng khuụn mu
nhn thc cú sn hn l tỡm hiu v chỳng cú mt s phn ỏnh chõn thc hn. Trong

iu kin ú thỡ nhng khuụn mu giỳp ta rỳt ngn thi gian nhn thc v a ra mt
hỡnh nh gin c v i tng.
Nh vy, cỏc khuụn mu cú nhng nh hng nht nh n cỏch chỳng ta x lý thụng
tin. Chỳng ta cú khuynh hng ch la chn nhng thụng tin phự hp vi khuụn mu,
nhng thụng tin c a thớch, mong i v nhng thụng tin ny c x lý nhanh hn,
c ghi nh sõu hn. Cũn nhng thụng tin khụng phự hp nú s c ý thc ca chỳng
ta ch ng bỏc b.
- Những khuôn mẫu giới thờng phóng đại sự khác tối thiểu bên trong mỗi nhóm xã hội.
Do đó có thể nói rằng, khuôn mẫu giới tạo nên cái nhìn phiến diện về bản chất con ngời.
Khuôn mẫu tạo nên những niềm tin là tất cả nhng ngi trong cựng mt nhúm đều
giống nhau. Ví dụ: phụ nữ là ngời yếu đuối, phụ nữ nông cạn, hời hợt hơn nam giới.
Trong khi đó, có sự khác biệt rất lớn về lối sống, văn hoá giữa phụ nữ ở vùng này hay
3


vùng khác, ở giai cấp này hay giai cấp khác. Và điều này tạo nên sự khác biệt hết sức lớn
về tính cách, năng lực giữa phụ nữ với nhau.
Cuối cùng, chúng ta thờng sử dụng khuôn mẫu để biện minh cho định kiến giới và xu hớng phân biệt đối xử.
3. S hỡnh thnh khuụn mu
a. Kinh nghim cỏ nhõn:
Trong quỏ trỡnh phỏt trin ca mỡnh, cỏc cỏ nhõn gp g v tip thu, hỡnh thnh nhng
kinh nghim cho riờng mỡnh. Trong quỏ trỡnh tip xỳc vi ngi khỏc cú nhng c im
tng t vi nhng kinh nghim cỏ nhõn ó c hỡnh thnh trc ú, ta thng cú xu
hng xp nhng ngi ú vo nhng khuụn mu v nhúm ó c hỡnh thnh t nhng
kinh nghim ny, lm n gin húa nhng c im v nhỡn nhn mt cỏch khỏi quỏt v
mt ngi.
b. Bt chc:
Trong cuc sng, cỏ nhõn tn ti v phỏt trin nh vo vic lnh hi v tip thu nhng giỏ
tr t xó hi. Cỏ nhõn hc hi t xung quanh, t gia ỡnh, nh trng n xó hi. Cỏ nhõn
hc cỏch nhỡn nhn v ỏnh giỏ nhng ngi, nhúm, s vt hin tng xung quanh qua

vic bt chc cỏch nhỡn nhn v ỏnh giỏ t ngi khỏc nh cha m, thy cụ, bn bố hay
s ụng trong xó hi. T viờc bt chc ú ó hỡnh thnh nờn khuụn mu.
c. Truyn thụng i chỳng:
Nhng phng tin truyn thụng i chỳng cng úng vai trũ quan trng i vi vic
hỡnh thnh khuụn mu. Vic ỏnh giỏ v nhúm ny hay nhúm khỏc trờn cỏc phng tin
truyn thụng i chỳng dự vụ tỡnh hay c ý cng s nh hng ớt nhiu n vic nhn
thc v quy gỏn cỏ nhõn hay nhúm vo nhng khuụn mu mi to ra.
4. Phõn bit khuụn mu v nh kin
Khuôn mẫu là một cơ chế quan trọng để duy trì định kiến và phân biệt đối xử. Tuy nhiên,
khuôn mẫu và định kiến không phải là một. Khuôn mẫu thờng liên quan đến quan niệm,
niềm tin từ cuộc sống thờng nhật. Còn định kiến liên quan đến thái độ, cảm xúc của cá
nhân đối với những khuôn mẫu đó và nó thờng mang hàm ý xấu, tiêu cực, một chiều.
Khuôn mẫu là bản sao chụp về thực tế xã hội, nó có thể là những phản ánh mang tính tiêu
cực hay tích cực tuỳ vào hiện thực. nh kin không phải là bản thân khuôn mẫu mà là
thái độ của cá nhân hay nhóm có liên quan đến khuôn mẫu. Những khuôn mẫu khi đợc
hình thành lại quay trở lại hớng dẫn hành vi của họ. Trong trờng hợp những khuôn mẫu
mang sắc thái tiêu cực khi đánh giá từng cá nhân cụ thể lại đợc khái quát để đánh giá các
nhóm xã hội thì khuôn mẫu này sẽ trở thành định kiến.
Ví dụ, khi nói đến phụ nữ Hàn Quốc- ngời mẹ chồng, nhiều ngời lập tức liên tởng tới
những ngời đàn bà lắm điều, xét nét, khó tính với con dâu- trong khi trên thực tế họ cha
quen biết ngời mẹ chồng Hàn Quốc cụ thể nào. Kinh nghiệm lắm điều đợc rút ra từ một
vài quan sát cụ thể trên một số phim ảnh đã làm cho chúng ta dễ có thái độ tiêu cực khi
nói, nghĩ đến ngời mẹ chồng Hàn Quốc. Nh vậy là những kinh nghiệm, tri thức của chúng
ta về ngời mẹ chồng nói chung - hay ta gọi là khuôn mẫu, đã trở thành định kiến khi
chúng ta có sẵn một thái độ tiêu cực, một tâm thế hành động theo hớng xấu trong ứng xử
4


với ngời mẹ chồng Hàn Quốc, trong khi chúng ta cha biết cụ thể tính tình một ngời phụ
nữ Hàn Quốc cụ thể nào đó.

Nói một cách khác, trong khi khuôn mẫu tạo nên một sự khái quát hoá đợc chia sẻ giữa
những ngời trong một nhóm này với một nhóm khác thì định kiến bao hàm một sự phán
xét theo hớng tiêu cực của cá nhân đối với ngời khác. Định kiến gắn với thái độ, cảm xúc
nên việc thay đổi định kiến rất khó khăn. Trong định kiến luôn chứa đựng khuôn mẫu tiêu
cực và nó đợc củng cố nhờ những khuôn mẫu tiêu cực.

5


PHẦN II: DÁN NHÃN (LABELING THEORY)
1. Định nghĩa:

Lý thuyết dán nhãn (Labeling Theory) là một lý thuyết nghiên cứu hành vi ứng xử của
con người theo phương pháp phân tích tương tác biểu tượng qua đó khẳng định hành vi
tuân thủ hay lệch lạc của một người là do kết quả của quá trình người khác xác định hay
gán nhãn hiệu.
Theo lí thuyết dán nhãn thì một cá nhân khi gán nhãn cho một hành vi của cá nhân khác
là lệch lạc thì người đó liên tưởng đến những lí lẽ của nhãn đó, thậm chí trong nhiều
trường hợp người ta quan tâm đến cái nhãn của cá nhân hơn là những hành vi thực tế của
cá nhân đó.
Khi nhãn bị gán, thì nó sẽ tự chứa đựng nhiều ý nghĩa mang tính đặc trưng hơn là bất kì
trạng thái nào khác mà cá nhân đó có.
Ví dụ: Một thanh niên phạm tội trộm cắp, bị bắt vào trại cải tạo. Ở trong trại cải tạo anh
ta cải tạo rất tốt. Sau khi mãn hạn tù, anh ta trở về cuộc sống bình thường, nhưng tiếc
thay cái nhãn đó đã bị gán. Cái nhãn đó tự thân nó còn nặng nề hơn chính những hành vi
trong quá khứ. Do vậy, cái nhãn đó đã cản trở anh ta tìm kiếm việc làm và là nguyên
nhân đưa đến sự mất bạn bè và người thân. Đó chính là nguyên nhân làm cho anh ta gán
bó thêm với cái nhãn đó thay vì việc phải xa lánh nó
Lý thuyết này nhấn mạnh đến tính tương đối trong việc đánh giá hành vi lệch lạc, cùng
một hành vi có thể định nghĩa khác nhau trong các tình huống khác nhau.

Ví dụ: một sinh viên lấy quần áo của người bạn chung phòng mặc có thể được xem là ăn
cắp hoặc đơn thuần là mượn quần áo để mặc. Một đại biểu Quốc hội lái xe về nhà trong
tình trạng say rượu sau tiệc chiêu đãi có thể được coi là người có mối quan hệ tích cực,
hòa đồng hoặc một kẻ nát rượu.
Mọi hành vi đều có một số hay không có ý nghĩa nào đối với người khác tùy theo quá
trình phát hiện, định nghĩa và phản ứng khác nhau. Đáng lưu ý rằng con người có thể bị
gán nhãn hiệu lệch lạc khi họ tham gia vào tình huống mà họ có rất ít hoặc hoàn toàn
không có trách nhiệm. Ví dụ một phụ nữ là nạn nhân của hành vi sàm sỡ đôi lúc cũng bị
coi là lệch lạc bởi giả định sai lầm rằng họ đã khuyến khích kẻ có hành vi đó.
2. Đặc điểm nhãn:
a. Nhãn được gán phản ánh khuôn mẫu (stereotype):
Tức là việc một cá nhân gán nhãn cho một người khác họ đã dựa vào những khuôn mẫu
có sẵn tồn tại trong xã hội, để từ đó quy chụp hành vi của một cá nhân khác là đúng hay
sai, tức là gán nhãn cho cá nhân đó.
b. Có được nhãn từ người khác:
Lý thuyết gán nhãn là lí thuyết dựa trên hành vi của cá nhân để gán nhãn. Theo lí thuyết
này, hành vi của một cá nhân lệch lạc hay không, là do sự phản ứng của cá nhân khác
nhiều hơn là tự thân hành vi đó biểu hiện, và các cá nhân khác gán cho anh ta cái nhãn là
lệch lạc
c. Nhãn ảnh hưởng đến hành vi:
6


Đối với một cá nhân lệch lạc, sau đó khi tự nhận thấy sự lệch lạc và nhận sự trừng phạt
thì cá nhân đó có thể bắt đầu làm lại cuộc đời cả về mặt xã hội cũng như về mặt sinh học
theo quy ước của xã hội, nhưng có thể sự gán nhãn tương tự cũng sẽ vẫn diễn ra. Như thế
sự gán nhãn không đúng sẽ làm giảm đi các hành vi đáng lẽ đã phát triển tích cực.
Ví dụ như một người nghiện ma túy lệch lạc, một khi anh ấy / cô ấy được gọi là một
người nghiện ma túy và nhãn hiệu được đặt trên cá nhân hoặc nhóm, sau đó thì cá
nhân/nhóm đó sẽ có hành vi có xu hướng để chỉ đạo theo hướng làm cho các nhãn phù

hợp .
Điều này là lý do tại sao một người bị kết án, coi là một tội phạm, có xu hướng phạm
phải những tội đó nhiều hơn. Hoặc trong ví dụ trên, một người nghiện ma túy, sẽ phạm
tội sử dụng ma túy nhiều hơn.
3. Gán nhãn: quan điểm và lý thuyết

Người đưa ra những quan điểm và phân tích có tính chất nền móng cho lý thuyết gán
nhãn hiệu là nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ George Herbert Mead (1863 - 1931).
Mead phân tích rằng cái tôi là nền tảng của sự tồn tại của con người, nó chính là nhận
thức của cá nhân về tình trạng là một thực thể khác biệt trong xã hội. Cái tôi có nguồn
gốc từ kinh nghiệm xã hội và có thể tách biệt trong sự liên kết với xã hội, nếu bị cách ly
khỏi xã hội thì cái tôi không xuất hiện. Kinh nghiệm xã hội là sự trao đổi các biểu tượng
có ý nghĩa mà các cá nhân tham gia tương tác xã hội cùng chia sẻ. Con người cũng có
khả năng tưởng tượng, phán đoán phản ứng của người khác đối với mình và qua đó nhìn
nhận bản thân mình như người khác đang làm điều đó.
Quan điểm này được Charles Horton Cooley phát triển thành cái tôi gương soi với hàm
ý quan niệm của một người đang có về cái tôi của mình xuất phát từ sự phản ứng của
người khác đối với người đó. Trong tương tác xã hội, người khác như là tấm gương giúp
một cá nhân có thể nhìn thấy bản thân mình như đang đặt mình vào vai trò của người
khác theo cách tưởng tượng, phán đoán.
Mead và Cooley cho rằng khả năng đảm nhận vai trò của người khác dựa vào việc sử
dụng biểu tượng trong tương tác xã hội là nền tảng của cái tôi và mọi kinh nghiệm xã hội.
Như vậy, đánh giá, phản ứng của người khác có thể gây tác động lớn đến việc một người
tự nhận xét về bản thân mình.
Người đã có công định hình và phổ biến lý thuyết gán nhãn hiệu là nhà xã hội học người
Mỹ Howard Becker (1928). Ông khẳng định rằng sự lệch lạc chỉ có thể định nghĩa như
"hành vi mà con người được gọi như thế” vì sự lệch lạc có tính tương đối và phụ thuộc
vào tình huống tương tác xã hội cụ thể. Ông tập trung vào phân tích cơ chế và nguyên
nhân dẫn đến một hành vi nào đó được xác định là lệch lạc hay phạm tội trong khi những
hành vi tương tự lại không. Lý thuyết của Becker nhấn mạnh đến phảm ứng của người

khác cũng như những hệ quả của phản ứng đó là tạo ra sự lệch lạc. Khi một người đã bị
gán nhãn hiệu lệch lạc, người đó sẽ trở nên bị tách rời khỏi xã hội, tìm đến với những
người cùng cảnh ngộ và đến một mức độ nào đó, sẽ phản ứng theo đúng những gì mà xã
hội gán cho.
7


Edwin Lemert là người đã đưa ra khái niệm lệch lạc sơ cấp và lệch lạc thứ cấp và giải
thích ảnh hưởng của việc một người bị xem là lệch lạc có thể thay đổi hành vi sau này
của họ ra sao. Một người lần đầu tiên bị gán nhãn hiệu lệch lạc chính là lệch lạc sơ cấp.
Thế nhưng một khi người đã bị coi là lệch lạc thì nhãn hiệu này trở thành một phần trong
sự nhận dạng xã hội và sự tự nhận thức về bản thân của người đó. Cơ chế này khiến cho
họ thực hiện "kỳ vọng" của người khác, hay nói đúng hơn, thực hiện theo những gì mà xã
hội đã gán cho họ, bằng cách thực hiện những hành vi lệch lạc tiếp theo. Những hành vi
lệch lạc tiếp theo này gọi là lệch lạc thứ cấp. Ví dụ: Một người bị gán nhãn hiệu "béo
tròn" - một sự lệch lạc sơ cấp - rất có thể sẽ có những lệch lạc thứ cấp như nói dối về cân
nặng của mình, lẩn tránh những hoạt động như khiêu vũ, bơi lội... Hậu quả của lệch lạc
thứ cấp dạng này khiến cho nhận thức của chính bản thân người bị dán nhãn hiệu lệch lạc
lẫn những người khác về sự lệch lạc sơ cấp càng thêm sâu sắc và nó là sự khởi đầu của
cái mà các nhà xã hội học gọi là vết nhơ.
Erving Goffman đã mô tả tiếp cái có thể xảy ra sau những lệch lạc thứ cấp là lệch lạc
chuyên nghiệp. Khởi đầu sự lệch lạc chuyên nghiệp là bị vết nhơ. Vết nhơ là tình trạng
mà tên gọi xã hội tiêu cực tác động mạnh làm thay đổi cơ bản nhận dạng xã hội và sự tự
nhận thức của một người. Lúc này vết nhơ hoạt động như là địa vị chính nghĩa là nó có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc định dạng toàn bộ đời sống của một người. Vết nhơ
biến đổi một người bình thường thành một người bị xem nhẹ. Mặc dù vết nhơ được hình
thành thông qua sự gán nhãn hiệu của người khác nhưng người mang vết nhơ cũng như
những người khác đều coi vết nhơ là sự thể hiện của khiếm khuyết cá nhân. Con người
thường nhận thức được hậu quả của một vết nhơ kể cả khi chưa bị gán vết nhơ đó trong
quá trình xã hội hóa (giao tiếp xã hội, giáo dục, phương tiện truyền thông...). Khi vết nhơ

bị gán vào bản thân mình, người mang vết nhơ cũng có thể nhận thức được điều đó và khi
đối mặt với thực tế khắc nghiệt qua phản ứng của người khác, họ bị tổn thương cá nhân.
Vết nhơ có thế được gắn cho một người thông qua một quá trình chính thức mà nhà xã
hội học Mỹ Harold Garfinkel (1917) gọi là nghi thức giảm giá trị, ví dụ một phiên tòa.
Vết nhơ có tác động lâu dài và mạnh mẽ đến sự tự nhận thức bản thân của người mang
vết nhơ. Ví dụ: Một phụ nữ đã mang vết nhơ "béo phì" rất có thể cảm thấy mìnhkhông
hấp dẫn chút nào kể cả khi hình thể đã ở mức bình thường.
Bị vết nhơ cũng có thể dẫn đến một quá trình gọi là dán nhãn hiệu hồi tưởng. Quá trình
này chính là chọn lựa và giải thích những gì đã xảy ra trong quá khứ của người mang vết
nhơ theo hướng luôn nhất quán với vết nhơ đó. Điều này khá phổ biến trên thực tế, ví dụ
khi được biết rằng một người ăn trộm vừa bị bắt quả tang, những người khác phần nhiều
sẽ nghĩ rằng những lần anh ta sang nhà chơi hoặc quanh quẩn gần đó là để tìm cơ hội ăn
trộm chứ ít nghĩ đến việc người đó đã từng cứu một trẻ em khỏi chết đuối.
4. Quá trình dán nhãn diễn ra như thế nào?
Sự liên quan chủ yếu của quá trình dán nhãn dựa trên thực tế rằng việc gắn một cái nhãn
lệch lạc có những ảnh hưởng quan trọng đến các vấn đề của các cá nhân được người khác
nhận biết như thế nào, và có ảnh hưởng đến những mô hình tiếp đó về tác động qua lại
giữa họ và những người khác, bởi lẽ việc gán một tình trạng lệch lạc hay phạm tội có
nghĩa rằng các chủ thể cá thể và nhóm xã hội xung quanh họ, phải tự thích nghi với một
8


“bản sắc bị tước đoạt”. Điểm quyết định trong quá trình này là sự phơi bày công khai của
hoạt động lệch lạc.
Một quá trình bêu xấu xảy ra, việc bị bắt dẫn tới một sự tái – đánh giá của người khác về
bản sắc công khai của con người, do đó mà người ta trở nên bị dán nhãn là một loại người
nào đó, loại người mà phải được quan niệm và đối xử bởi những người khác trong ánh
sáng của cái nhãn này. Một cương vị xã hội mới được dành cho người lệch lạc và khả
năng giữ lại một bản sắc bình thường ngày càng khó khăn. Điều này được tăng cường bởi
thực tế rằng nhãn hiệu đơn giản hoá quá mức thực trạng của kẻ lệch lạc thông qua ảnh

hưởng công thức hoá và “thực chất hoá”. Nó không chỉ gắn bó với hành vi mà đối với
toàn bộ con người khiến cho y bị coi là một kẻ lệch lạc chứ không phải là gì hết. Cái
cương vị chủ chốt này tiếp quản bất cứ khái niệm nào khác mà chúng ta có thể có về y
hoặc những gì mà y có thể mong muốn diễn đạt ra.
Cái gì mà những người lệch lạc ( thỉnh thoảng ) làm, trở nên bị biến đổi thành những gì là
bản chất của họ, toàn bộ bản tính và sự tồn tại của họ trở nên đáng ngờ. Nhưng sự mua lại
(reordering) cái bản sắc hiện tại không phải là vấn đề duy nhất đang bị hăm doạ - hành vi
quá khứ cũng có thể được xem xét trong một ánh sáng mới (và không tránh khỏi có tính
phủ định) khiến cho hành vi hoàn tàn vô hại được tái giải thích như đã phản ánh những
động cơ nham hiểm và lệch lạc. Cũng tương tự hành vi tương lai được dự báo như có thể
bị nhào nặn bởi bản sắc lệch lạc hiện tại – y không thay đổi, không bao giờ thay đổi…
Sự tác động qua lại giờ đây xảy ra bên trong bối cảnh sự tồn tại của một nhãn lệch lạc, và
việc chống lại những hậu quả của nó trở nên khó khăn, bởi lẽ có thể không có khả năng
thuyết phục người khác rằng sự ứng dụng nhãn hiệu một cách liên tục không được chứng
minh là đúng rằng họ đã hiểu sai tất thảy… Duy trì một hình ảnh khác đi trong con mắt
của những người khác là điều bị ngăn cản bởi sức mạnh của những định nghĩa lệch lạc
đang được áp đặt và những ý đồ tốt của kẻ lệch lạc muốn hành động bình thường có thể
bị phá vỡ bởi thực tế rằng sự đáp ứng của những người khác theo những cung cách rất
thực tiễn sẽ giảm bớt những cơ may của hành vi bình thường – có nghĩa là sự ủng hộ xã
hội mà có thể đưa họ vào hành vi như vậy ( và do kháng cự lại cái nhãn “lệch lạc”) bây
giờ lại bị họ phủ nhận.
Vậy là kết quả bêu riếu của nhãn hiệu đặt những người lệch lạc bên ngoài những nhóm
qui ước và khuấy động một ý thức về sự không chắc chắn trong họ. Họ cảm thấy bị gán
cho là lệch lạc bất chấp những phủ nhận của họ và trở thành xấu xa bởi vì họ bị xác định
là xấu xa. Như vậy, một lời tiên tri tự thân xảy ra, trong đó một hình ảnh – tự thân và
hành vi tiếp theo sau nẩy sinh từ những phản ứng của những người khác.
Theo Lemert: một chuỗi xoáy ốc của sự tác động qua lại giữa kẻ lệch lạc và cộng đồng
dưới hình thức sai lệch tăng dần và các hình phạt xay ra sau đó, khiến cho kẻ lệch lạc trở
nên được chứng thực trong một vai trò lệch lạc. Như vậy quá trình của cái từng được gọi
là khuếch đại sự sai lệch được khởi động.


9


PHN III: NH KIN (PREJUDICE)
1. Khỏi nim:

Nh ó ó tỡm hiu trc ú, nh kin xó hi cú quan h mt thit vi khuụn mu xó
hi. Trong tri giỏc xó hi, khuụn mu xó hi bin thnh nh kin xó hi khi nú mang sc
thỏi tiờu cc.
V vn nh ngha th no l nh kin xó hi cng cú nhiu ý kin khỏc nhau, mi
tỏc gi khi xem xột nh kin xó hi gúc riờng ca mỡnh ó a li nhng nh ngha
sao cho phự hp vi vn m h ang nghiờn cu. tụi xin a ra mt s nh ngha v
nh kin sau:
Trong từ điển Tâm lý học (Nguyễn Khắc Viện chủ biên), định kiến đợc hiểu là: Quan
niệm đơn giản, máy móc, thờng không đúng sự thật thể hiện trong lĩnh vực nhận thức
hàng ngày về một khách thể nào đó (một nhóm, một con ngời thuộc cộng đồng xã hội)
Theo Fischer: nh kin xó hi l nhng thỏi bao hm s ỏnh giỏ mt chiu v s
ỏnh giỏ ú l tiờu cc i vi cỏ nhõn khỏc hoc nhúm khỏc tu theo s quy thuc xó
hi riờng ca h. Núi cỏch khỏc, nh kin l mt loi phõn bit i x bao gm 2 thnh
t chớnh l nhn thc v ng x. (cun nhng khỏi nim c bn ca tõm lý hc xó hi)
Theo Godefroid: nh kin l s phỏn xột tt hay xu ca chỳng ta i vi ngi
khỏc, ngay c trc khi ta bit rừ h hoc bit c lý do hnh ng ca h. (cun
nhng con ng ca tõm lý hc)
Theo J. P. Chaplin: nh kin l thỏi tiờu cc c hỡnh thnh trờn c s ca yu t
cm xỳc. L nim tin hoc cỏch nhỡn thng l khụng thin cm dn n cho ch th mt
cỏch ngh hoc cỏch ng x tng t vi ngi khỏc.
Theo Rosenberg: nh kin xó hi l mt nh hng c tip th cú mc ớch thit
lp mt s phõn bit xó hi.
Nh vy, tuy cú nhiu quan im khỏc nhau xung quanh vn nh kin, nhng suy

cho cựng, cỏc tỏc gi u cú nhỡn nhn ging nhau mt cỏch c bn trờn mt s im.
Hu ht h u tha nhn nh kin l mt kiu thỏi tiờu cc bt hp lý i vi
10


ngi khỏc da trờn nhng nhn thc thiu cn c, phin din v mt chiu ca ch th
l ngi mang nh kin.
Một cách chung nhất, định kiến đợc hiểu là những thái độ tiêu cực nảy sinh trên cơ sở của
những cảm nhận không có cơ sở chắc chắn, tập hợp các quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc
biểu tợng có tính chất rập khuôn và đơn giản hoá quá mức về những đặc điểm bề ngoài,
thái độ và hành vi ứng xử xã hội, những ấn tợng xấu... về một nhóm ngời nào đó tuỳ theo
sự quy thuộc xã hội riêng của họ. Sự khái quát mang tính tuyệt đối về một nhóm xã hội
khiến cho các đặc điểm của nhóm ngời đó thờng đợc mô tả một cách cứng nhắc và cố
định. Quan niệm định kiến do đó không phản ánh đợc sự đa dạng và phong phú của
những thành viên trong nhóm đó.
nh kin xó hi c hiu l thỏi ca mt cỏ nhõn trong tng nhúm xó hi, nú
thng l tiờu cc i vi ngi khỏc, nhúm khỏc trong quan h vi nhau.
Cú nhiu loi nh kin xó hi nh: nh kin chng tc, gii tớnh, tụn giỏo, giai cp,

2. Cỏc thnh t c bn ca nh kin
Khi nhìn nhận định kiến là một dạng thái độ, Robert A.Baron & Donn Byrne nhấn mạnh
đến ba thành tố cơ bản của định kiến là nhận thức, xúc cảm và hành vi.
- Yếu tố nhận thức: bao gồm niềm tin và sự trông đợi v i tng trong xã hội cùng với
phơng thức xử lý, lu giữ và tái hiện thông tin về đối tợng của định kiến. Ví dụ: Nhiều ngời
vợ ý thức rằng đàn ông phải là ngời trụ cột trong gia đình.
ở cấp độ nhận thức, định kiến đợc biểu hiện qua lời nói - ngôn từ, qua ca dao - tục ngữ,
những câu chuyện dân gian có tính chất rập khuôn về xu hớng tiêu cực vi i tng
b nh kin. Định kiến ở cấp độ nhận thức thờng ấn định rằng i tng hoc nhúm ny
phi l th ny, hoc l th khỏc vỡ nh th l tt, ngc li, vic i tng hoc nhúm
khụng nh ỳng nhng mong i cú sn s b cho l xu, khụng chp nhn c.

vớ d: Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.
- Yếu tố xúc cảm: liên quan đến những cảm giác tiêu cực, sự khó chịu, sự coi thờng hay
những tình cảm không hài lòng mà cá nhân mang định kiến trải nghiệm khi nhìn thấy
hoặc nghĩ tới những ngời mà mình có định kiến.
Ví dụ: ngời vợ cảm thấy tức giận khi chồng không đảm đơng đợc vai trò trụ cột gia đình,
để gia đình lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Ngời vợ chỉ biết phàn nàn về những gì mà ngời
chồng cha đem lại.Trong khi ngời chồng đã cố gắng xoay sở cho cuộc sống gia đình tốt
hơn.
- Yếu tố hành vi: bao gồm xu hớng hành động tiêu cực hoặc dự định hành động tiêu cực
đối với những ngời là đối tợng của định kiến.
Ví dụ: ngời vợ nói với chồng chúng ta sẽ chia tay nhau nếu anh cứ để gia đình trong tình
trạng khốn đốn nh thế này. Đây chỉ là một dự định. Nhng khi những xu hớng hoặc dự
định đó chuyển thành hành động thì chúng trở thành sự phân biệt đối xử - một dạng định
kiến trong hành động.
3. Nguyờn nhõn hỡnh thnh nh kin:
a. S cnh tranh (competition)
11


Theo quan điểm này, định kiến ra đời từ cuộc cạnh tranh giữa những nhóm xã hội
khác nhau về những tiện nghi giá trị và cơ hội. Thành viên của những nhóm liên quan
tiếp tục nhìn nhận ngày một tiêu cực về nhau. Họ “dán nhãn” nhau là kẻ thù, coi nhóm
mình là đạo đức tối thượng, dựng lên rào cản ở giữa và sự thù địch giữa họ ngày một sâu
sắc. Kết quả tất yếu là từ những cuộc cạnh tranh đơn giản chẳng liên quan gì tới oán hận
và thù ghét đã dần phát triển thành những định kiến gay gắt. Thậm chí những cuộc cạnh
tranh kiểu như vậy thường dẫn tới mâu thuẫn trực tiếp, công khai và những hành vi có
tính xâm khích.
Nghiên cứu của Sherif và những cộng sự: Xung đột và định kiến trong một trại hè.
Nghiên cứu của họ bao gồm việc gửi những cậu bé 11 tuổi đến một trại hè ở vùng hẻo
lánh. Khi những cậu bé đến trại hè, các em được chia làm 2 nhóm riêng biệt và được

phân làm 2 khu cách biệt nhau khá xa. Trong một tuần các cậu bé sống và chơi với nhóm
của mình, tham gia những hoạt động như đi bộ đường trường, bơi lội và nhiều loại thể
thao thú vị khác. Trong giai đoạn đầu, các em phát triển sự quan tâm đối với nhóm của
mình, các em chọn tên cho đội (Đại bàng, Trống lắc) và trang trí cờ hiệu của nhóm mình.
Trong giai đoạn hai của cuộc nghiên cứu, các cậu bé được thông báo rằng các em sắp
tham gia vào một cuộc thi đấu. Đội chiến thắng sẽ được nhận chiến lợi phẩm và giải
thưởng. Liệu sự ganh đua có làm phát sinh định kiến không? Câu trả lời đang đến gần.
Khi những cậu bé thi đấu thì tình trạng căng thẳng giữa hai đội tăng lên. Đầu tiên mọi
việc chỉ giới hạn trong việc lăng mạ, chọc phá nhưng sau đó nó nhanh chóng leo thang
thành những hành động trực tiếp như đội Trống lắc đốt cờ đội Đại bàng. Ngày hôm sau,
đội Đại bàng trả thù bằng việc tấn công vào cabin của đối thủ, lật ngược giường chiếu, xé
mùng màn và lấy đi vật dụng cá nhân. Cùng lúc đó, hai nhóm ngày càng có nhiều cái
nhìn xấu hơn về nhau. Các em dán nhãn, đối thủ là những kẻ yếu đuối, vô tích sự và nhát
gan trong khi không ngừng ca tụng nhóm của mình.
b. Bất bình đẳng xã hội (social unequality)

12


Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những địa vị xã hội không ngang bằng. Các cá
nhân không có sự bình đẳng với nhau về cơ hội, lợi ích, về các giá trị… và sự không
ngang bằng đó dễ dàng làm phát sinh định kiến. Những người có định kiến thường đánh
giá vị trí của mình cao hơn người khác và bằng thái độ kẻ cả, họ thường yên tâm về giá
trị của mình. Họ tự cho mình cái quyền được phán xét người khác, họ cho mình là tốt
hơn, cao quý hơn còn những người thuộc về nhóm xã hội khác thì bị gán cho những đặc
điểm tiêu cực và bị đối xử kém ưu ái.
Theo một số tác giả, lúc này định kiến là sự hợp lý hoá bất bình đẳng xã hội và nó
được sử dụng như một công cụ để chứng minh cho tính đúng đắn của những người có thế
lực và tiền bạc, sở hữu nhiều giá trị cao hơn.
c. Xã hội hóa (socialization)

-

Gia đình:
Định kiến xã hội được hình thành qua quá trình xã hội hoá ngay từ lúc đứa trẻ bắt đầu
sinh ra. Môi trường gia đình, đặc biệt là những khuôn mẫu của bố mẹ là nguồn hiểu biết
quan trọng nhất đối với trẻ. Qua bố mẹ, đứa trẻ hiểu và tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
hình thành xu hướng lặp lại những gì mà bố mẹ và người lớn đã dạy dỗ nó. Đứa trẻ học
cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và bắt chước họ. Vì thế những kinh
nghiệm đầu tiên trong cuộc đời có thể có tầm quan trọng nhất định đến sự hình thành
định kiến. Trẻ em học cách suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá như những người xung quanh
chúng.

-

Nhà trường:
Trường học được đánh giá là một trong những nguồn gốc hình thành định kiến vì
nhiều định kiến đã được ra đời từ ảnh hưởng của trường học.
Sự phân tích này cho thấy sách giáo khoa trong nhà trường là một sự chuyển tiếp
hàng đầu trong việc tập luyện định kiến. Việc học trong nhà trường là một trong những
hình thức phát triển và duy trì định kiến qua sự hấp thụ nhập tâm những khuôn mẫu từ
sách vở. Con người lại rất dễ bị cầm tù bởi những quan niệm, những hiểu biết cũ kỹ được
13


thấy trong sách hoặc được học trong nhà trường. Nếu thấy ở đâu đó có điều gì không phù
hợp với những điều mình đã học, đã đọc là bác bỏ ngay không cần xem xét gì.
Hiện tượng đó đã từng xảy ra với rất nhiều lý thuyết khác nhau xuất hiện trong lịch
sử. Một ví dụ, đó là hiện tượng của Phân tâm học. Có rất nhiều người chưa từng đọc một
tác phẩm nào của phân tâm, hoặc biết rất ít về phân tâm học nhưng khi nghe người khác
nói hay – nói dở như thế nào đấy là tin ngay, nhất là những điều đó lại được nói ra từ sách

giáo khoa hoặc từ những người có học vấn. Và kết quả là người ta thổi phồng quá mức
những thành tựu phân tâm học hoặc cho rằng đó chỉ là một lý thuyết nhảm nhí, dung tục,
chỉ quan tâm đến vấn đề bản năng và tình dục.
-

Xã hội:
Những phương tiện truyền thông đại chúng cũng đóng vai trò quan trọng đối với các
em trong việc nhận thức xã hội và những áp lực phải tuân theo các quy tắc xã hội. Chẳng
hạn, thành viên của những dân tộc, chủng tộc thiểu số ít được xuất hiện trên những
phương tiện thông tin đại chúng mà khi xuất hiện họ lại thường đóng những vai có thân
phận thấp hèn và vai trò hài hước. Khi những tình huống như thế cứ lặp lại nhiều lần thì
cuối cùng tin là thành viên của những nhóm đó thực sự là thấp hèn.

d. Khuôn mẫu trong nhận thức

Việc có được khuôn mẫu trong nhận thức từ việc cá nhân trải nghiệm với chính nó
(kinh nghiệm của bản thân) và sự bắt chước, học hỏi từ xung quanh.
Trong một hoàn cảnh thiếu hụt thông tin, kinh nghiệm sống hạn chế chúng ta thường
lựa chọn giải pháp dễ dàng nhất để giải bài toán về người khác.
Chúng ta có xu hướng xếp những con người rất đa dạng vào những hạng đơn giản và
có những kết luận sai lầm về họ. Chúng ta cũng có xu hướng dựa vào những khuôn mẫu
nhận thức có sẵn hơn là tìm hiểu về chúng để có một sự phản ánh chân thực hơn. Trong
điều kiện đó thì những khuôn mẫu giúp ta rút ngắn thời gian nhận thức và đưa ra một
hình ảnh giản ước về đối tượng.

14


Như vậy, các khuôn mẫu có những ảnh hưởng nhất định đến cách chúng ta xử lý
thông tin. Chúng ta có khuynh hướng chỉ lựa chọn những thông tin phù hợp với khuôn

mẫu, những thông tin được ưa thích, mong đợi và những thông tin này được xử lý nhanh
hơn, được ghi nhớ sâu hơn. Còn những thông tin không phù hợp nó sẽ được ý thức của
chúng ta chủ động bác bỏ.
e. Biểu tượng xã hội

Trong xã hội thường tồn tại những biểu tượng xã hội. Chẳng hạn trong xã hội Mỹ
người da trắng thường được quan niệm như những người có lòng tốt, sự trong sạch và
thông minh. Trong khi đó những người da đen thường bị liên tưởng là những kẻ bệnh
hoạn, tàn ác, ngu dốt và không có tinh thần trách nhiệm.
Những biểu tượng xã hội này đã làm ảnh hưởng đến định kiến và phản ứng của trẻ
em. Nghiên cứu của nhà tâm lý học người da đen Mamie Clack đã chứng minh điều đó.
Ông đã tiến hành thực nghiệm trên một số lượng lớn trẻ em da đen từ 3 – 7 tuổi. Nội
dung thực nghiệm của ông như sau: ông đưa ra 2 loại búp bê da trắng và da đen, ông yêu
cầu các em trả lời câu hỏi:
Búp bê nào xấu nhất?
Búp bê nào xinh nhất?
Búp bê nào da đen?
Búp bê nào ngoan?
Búp bê nào em thích chọn làm bạn?
Phần lớn trẻ em tham gia thực nghiệm đều nhận thức đúng mầu da của búp bê và
chúng cho biết chúng thích chơi với búp bê mầu trắng hơn vì nó đẹp hơn, tốt hơn còn búp
bê mầu đen thì xấu xí và độc ác. 2/3 trẻ em da đen đã bị búp bê da trắng cuốn hút.
Các nhà nghiên cứu đã giải thích hiện tượng này là hậu quả từ những biểu tượng xã
hội khinh miệt người da đen và sự chối bỏ của chính trẻ em da đen đối với con búp bê có

15


cựng mu da vi mỡnh th hin mt s khinh mit lc hng chng li chớnh bn thõn
mỡnh.

Nhng biu tng xó hi tiờu cc ó khin cho nhúm thiu s khụng ch l nn nhõn
ca s phõn bit i x m cũn lm h ỏnh mt nim tin vo nhng giỏ tr ca mỡnh, t
h thp mỡnh v thay vỡ hng ra bờn ngoi chng li nhng nh kin m h l i
tng thỡ h li chp nhn nú, tin vo nú.
f. Kiu hỡnh thn kinh

Quan im ny cho rng nhng ngi thuc kiu hỡnh thn kinh yu (trong ú quỏ
trỡnh c ch mnh hn quỏ trỡnh hng phn) l nhng ngi cú yu t thun li phỏt
trin nh kin. Nhng ngi cú kiu hỡnh thn kinh nh vy thng khụng linh hot, rt
rố, t ti. Khi gp phi hon cnh khụng thun li h thng suy ngh mt cỏch tiờu cc,
thm chớ bnh hon. H rt ngi giao du v nu buc phi tip xỳc vi ngi khỏc thỡ thỏi
ca h thiu ci m, khụng lng trc c. H l nhng ngi rt khú khn trong
vic chp nhn nhng giỏ tr mi v ớt thớch nghi vi nhng bin ng ca mụi trng.
Núi túm li, nh kin xó hi l mt hin tng tõm lý phc tp bt ngun t nhiu
nguyờn nhõn a dng ny sinh t thc tin cuc sng ca con ngi.
Cỏc nguyờn nhõn ny khụng tỏch ri nhau m cú mi liờn h rng buc cht ch. Hiu
c nguyờn nhõn hỡnh thnh nh kin ta s cú cỏch khc phc c nú. Bi vỡ suy n
cựng nh kin l mt kiu thỏi m thỏi ca con ngi cú th thay i
4. Hu qu ca nh kin:
Trong quỏ trỡnh thit lp cỏc mi quan h tip xỳc, nh kin cú th li mt s hu qu:
Định kiến làm đơn giản hoá quá trình nhận thức của con ngời về i tng b nh kin,
do đó ngăn cản hiểu biết chính xác v những ngời ú. Định kiến không góp phần xây
dựng mà phá hỏng các mối quan hệ của con ngời trong xã hội.
Định kiến thờng dẫn tới thái độ khó chịu, những tình cảm tiêu cực - âm tính đối với đối tợng và điều này không có lợi cho sự lành mạnh cảm xúc của chủ thể mang định kiến. Vớ
d: với những ngời mang định kiến với phụ nữ, họ có thể làm giảm nhẹ những cảm xúc
tích cực với ngời bạn khác giới của mình.
Định kiến lm ngi hay nhúm cú nh kin tin vào tính chất thợng đẳng của mình, khiến
họ có thái độ kẻ cả và bảo thủ. Còn đối vi i tng b nh kin, họ gặp nhiều khó khăn
trong việc khẳng định bản thân và từ bỏ những hình ảnh tiêu cực về chính mình.
Thông thờng, ngời ta sẽ nhận định về ngời khác dựa vào sự quan sát khách quan, dựa trên

những chứng cứ từ thực tế. Tuy nhiên, định kiến là một sự phán xét sớm. Có nghĩa ngời ta
16


có thể bày tỏ quan điểm phán xét của mình trớc khi thấy những chứng cứ thực tế, trong
mọi trờng hợp nó không theo một diễn tiến bình thờng. Sự tuyệt đối hoá trong quan niệm
thờng dẫn đến cách đánh giá tiêu cực về mt ngi hay mt nhúm, dẫn đến hạn chế cơ
hội phát triển của họ. Chẳng hạn, quan niệm cho rằng phụ nữ không có những phẩm chất
thích hợp với vai trò của ngời lãnh đạo, dẫn đến chỗ cho rằng phụ nữ không có khả năng
làm lãnh đạo, phụ nữ làm lãnh đạo thì đánh mất nữ tính. Vì điều này có thể ảnh hởng xấu
đến hạnh phúc gia đình nên không ít nam giới không khuyến khích phụ nữ phát triển sự
nghiệp hay hoạt động xã hội, trong khi phụ nữ có khả năng làm đợc nếu họ đợc khích lệ,
đợc tạo điều kiện phát triển hay dạy dỗ nh nam giới.
5. Thay i nh kin
Nh ó núi trờn, nh kin xó hi l mt thỏi tiờu cc v ch quan ca ch th
mang nh kin i vi i tng ca h, mt khỏc nh kin xó hi cú th khin ta tri
giỏc sai ngi khỏc cng nh cỏc hin tng khỏc nhau ca xó hi, chỳng ta khụng th
da vo nú lm c s nh hng cho cuc sng cỏ nhõn. Do ú, vic thay i nh
kin, nht l nhng nh kin nguy him nh : phõn bit chng tc, phõn bit tụn giỏo,..
l rt cn thit v cú ý ngha khụng ch cho cỏc cỏ nhõn m cũn cho li ớch chung ca
cng ng. Tuy nhiờn, thay i nh kin l c mt quỏ trỡnh khụng h n gin.
a. Khú khn trong thay i nh kin

Th nht, con ngi hu nh ai cng cú nh kin khụng v cỏi ny thỡ v cỏi khỏc,
khụng trong lỳc ny thỡ trong lỳc khỏc. Tuy nhiờn, h li khụng ý thc c rng mỡnh
mang nh kin, thm chớ l khụng chu ý thc v iu ú. iu ny to ra khú khn rt
ln khi mun thay i nh kin.
Th hai, nh kin vi cỏc chc nng ca mỡnh ó tr thnh cỏi m bo cho s
phõn bit i x, s bin minh xó hi v c bit nh kin khin cho cỏ nhõn (mang nh
kin) gi vng v gỏn cho mỡnh nhng giỏ tr ca nhúm nhm nõng cao giỏ tr ca bn

thõn. Do ú, m khụng phi ai cng cú nhu cu thay i nh kin ca mỡnh.
Th ba, nh kin gn lin vi nhng giỏ tr ca nhúm cng nh ca mi cỏ nhõn, vỡ
vy, khi thay i nh kin cng cú ngha l cỏ nhõn v nhúm mt i nhng giỏ tr, t ú
dn n vic b ỏnh ng vi ngi khỏc. iu ny cng to ra nhng khú khn khụng
nh khi mun thay i nh kin.

17


Thứ tư, định kiến có nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, định kiến phụ thuộc
vào nhận thức, tình cảm, hành vi của mỗi cá nhân, vào áp lực của nhóm… dẫn đến khó
thay đổi.

b. Biện pháp thay đổi định kiến

Như đã trình bày, định kiến có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng trong các mối
quan hệ xã hội (phân biệt đối xử trong gia đình, kỳ thị chủng tộc, xung đột tôn giáo…).
Do đó, xoá bỏ định kiến là một yêu cầu rất thiết thực mà xã hội đặt ra. Các nhà quản lý,
các nhà khoa học mà trước hết là những nhà tâm lý học đã đi sâu tìm hiểu và đưa ra
những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết nó:
- Ngăn chặn quá trình hình thành định kiến: Định kiến xã hội được hình thành qua
quá trình xã hội hoá ngay từ khi đứa trẻ vừa sinh ra. Môi trường gia đình, đặc biệt là
những khuôn mẫu sống của bố mẹ là nguồn hiểu biết quan trọng nhất của đứa trẻ. Qua bố
mẹ, đứa trẻ hiểu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài và có xu hướng lặp lại những gì bố mẹ
trao cho. Trẻ con học cách ứng xử xã hội qua hoạt động thực tiễn, qua bắt chước, quan
sát, giao tiếp với người khác. Chúng tiếp thu thái độ và định kiến của bố mẹ. Định kiến
gắn chặt với thái độ, cũng giống như thái độ, định kiến có thể tiếp thu được và cũng có
thể từ bỏ được. Nó gây ảnh hưởng tới hành vi vào những thời điểm nhất định và có khả
năng suy giảm vào thời điểm khác.
Trường học là cơ sở quan trọng hình thành định kiến. Nhiều định kiến được hình

thành từ những ảnh hưởng của sách vở, của nhóm bạn, của cuộc sống đời thường. Trong
quá trình sống, ảnh hưởng của các nhóm xã hội, thể chế chính trị, bối cảnh xã hội làm
cho các định kiến hoặc bền vững hoặc bị xoá bỏ đi. Ví dụ như định kiến trọng nam khinh
nữ của xã hội phong kiến khó xoá bỏ ngay được.
Nắm được quá trình hình thành định kiến, ta có thể dùng chính các môi trường hình
thành nên định kiến (gia đình, nhà trường, các thể chế…) để tác động giúp ngăn chặn
hoặc mất dần định kiến.
18


- Trị liệu cá nhân, trị liệu nhóm: Đây là phương pháp nhằm nâng cao khả năng tri giác
xã hội cho các cá nhân và nhóm. Quá trình trị liệu sẽ giúp cá nhân nhận thức đúng hơn về
bản thân, về người khác cũng như hoàn thiện hơn nhận thức xã hội của mình. Qua trị liệu
cá nhân, trị liệu nhóm sẽ góp phần ngăn chặn quá trình hình thành định kiến cũng như
làm mờ dần những định kiến vốn có của cá nhân do nhận thức của cá nhân đã được hoàn
thiện.
- Thay đổi hành vi (mang tính định kiến): Phương pháp này chủ yếu là dùng pháp luật
và các thiết chế xã hội để điều chỉnh, thay đổi hành vi (mang tính định kiến) của các cá
nhân.
- Tiếp xúc trực tiếp nhóm: Sự tiếp xúc trực tiếp giữa các nhóm cũng có thể giúp ngăn
chặn và làm mờ dần định kiến giữa các nhóm. Bởi qua sự tiếp xúc trực tiếp các nhóm sẽ
nhận thức đúng đắn hơn về “địch thủ” của mình.
Tuy nhiên, sự tiếp xúc giữa các nhóm muốn có hiệu quả cũng cần tuân theo một số
những nguyên tắc nhất định:
+ Những nhóm tác động phải ngang bằng nhau về địa vị, vị thế xã hội.
+ Các nhóm phải tương trợ nhau.
+ Sự tiếp xúc giữa các nhóm phải chính thức (ràng buộc, trói buộc lẫn nhau)
+ Sự tiếp xúc phải có bối cảnh, các quy tắc, các nhóm như nhau
+ Các nhóm ảnh hưởng lẫn nhau theo cách cho phép phản đối những hành vi tiêu cực.
+ Nhìn nhận từng thành viên của nhóm bạn như là tiêu biểu của nhóm đó.

Như đã trình bày về nghiên cứu của Sherif và những cộng sự về “xung đột và định
kiến trong một trại hè”, Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc nghiên cứu, các nhà khoa
học đã phải can thiệp bằng cách tạo ra một hoàn cảnh mới. Bằng cách làm việc cùng nhau
để khôi phục nguồn nước, chung tiền mướn phim và cùng sửa chữa chiếc xe tải bị hỏng,
không khí căng thẳng đã phai mờ, rào cản giữa 2 nhóm đã thực sự biến mất và tình bạn
xuyên nhóm giữa các em đã được thiết lập.
19


20


PHN IV: PHN BIT I X (DISCRIMINATION)
1. nh ngha

Nếu định kiến là thái độ tiêu cực đối với các cá nhân khác hoặc nhóm khác thì phân biệt
đối xử là hành động tiêu cực đối với những ngời này. Nói cách khác, phân biệt đối xử chính
là một hình thức định kiến trong hành động.
nh kin ỏm ch mt kiu thỏi c bit m thụng thng l nhng thỏi tiờu cc i
vi thnh viờn ca nhúm xó hi khỏc. Vỡ l mt kiu thỏi nờn nh kin khụng phi lỳc
no cng c phn ỏnh cụng khai trong hnh ng. Trong rt nhiu trng hp, cỏ nhõn
mang nh kin nhn ra rng mỡnh khụng th biu t nú mt cỏch trc tip. Cú mt
nghỡn l mt cỏc lý do khin h lm nh vy: lut l, ỏp lc xó hi, ni s hói b tr thự
ó ngn cn h thc hin hnh ng tiờu cc mt cỏch rng rói. Nhng khi khụng cũn
nhng ro cn v s kim to nh vy thỡ nhng nim tin, cm giỏc tiờu cc thng th v
nú c th hin mt cỏch cụng khai v tr thnh s phõn bit i x.
Ta cú s biu th cho mi quan h gia nh kin v phõn bit i x:
nh kin

Phõn bit i x


Thỏi
Hnh ng

2. Cỏc dng phõn bit i x :

Những cá nhân có hành vi phân biệt đối xử thng thể hiện định kiến của mình dới dạng
niềm tin, quan niệm, quan điểm, thể hiện qua ngôn từ hay sự phân biệt đối xử một cách rõ
ràng. Nhng trong rất nhiều trờng hợp cá nhân có sự phân biệt đối xử thể hiện định kiến
của mình thông qua những cử chỉ phi ngôn ngữ, thông qua sắc mặt, thông qua những điệu
bộ của cơ thể hoặc thông qua sự phân biệt đối xử nghịch chiều nh một bản năng, nh một
sự vô thức. Chng hn nh mt ngi da trng rt d cú xu hng kim tra li v trớ ca
mỡnh sau khi ng cnh mt anh da en trong xe in ngm, dự ngi ny hon ton
21


khụng cú cm giỏc thự ch no vi ngi da mu. Những điều này cho thấy sự tồn tại
của định kiến v phõn bit i x càng trở nên khó nhận biết.
Mt s thc nghim v phõn bit i x:
Phõn bit i x trong mt trung tõm mua sm Texas.
Cỏc sinh viờn c o to i vo ca hng b ngoi l tỡm kim cụng n vic lm,
kch bn vo mi ca hng xin vic l ging nhau, vi mỏy ghi õm n trong tỳi ca h v
1 trong 2 chic m chic m búng cy c i trờn u h: 2 chic m u ging nhau
ngoi tr mt trc ca chic m 1 cú t Gay v nim t ho, cũn chic m 2 cú t
Texas v nim t ho. Thụng qua mt s giai on qun lý thụng minh, cỏc sinh viờn
lm thc nghim khụng bit m m h eo v mi ca hng l loi no. Sau khi tin hnh
xong thc nghim, cỏc nh nghiờn cu ó a ra bng chng rừ rng rng cú s phõn bit
i x xut hin: khi tip xỳc vi nhng ngi tỡm vic i chic m 1, ngi s dng
lao ng ớt núi hn, ớt hi hn v ớt quan tõm n hn. H i lt qua nhanh hn v cú v
lng trỏnh. iu ú chng t cú mt s phõn bit i x i vi nhng ngi ng tớnh

(Hebletal, 2002)
Phõn bit i x v gii: v vic n nhc s truyn thng c ỏnh giỏ cao nhng thiu
i din trong dn nhc giao hng.
Nghiờn cu ny cho thc hin 2 hng cho bit gii tớnh v che giu gii tớnh. Kt quae
ca nghiờn cu ny l: cỏc n nhc s giao hng c ỏnh gia rt cao khi cỏc nh sang
lc ó b mự. Cỏc nhc s n c lt vo vũng trong tng khong 50% khi cỏc nh
sang lc bit c gii tớnh ca h v gn nh tng gp ụi kh nng h s ging chin
thng trong cụng vic (Goldin & Rouse, 2000). iu ny chng t ó cú s phõn bit v
gii trong nghiờn cu ny.
3. Xoỏ b phõn bit i x

Vỡ phõn bit i x l dng nim tin khụng cn c c biu hin bng hnh ng cho
nờn cú nh hng xu n xó hi, gõy bt bỡnh ng xó hi, nh hng nghiờm trng n
quyn li ca ngi hay nhúm b phõn bit i x. vỡ vy, xúa b phõn bit i x l iu
cn thit.
Mt s bin phỏp nhm xúa b phõn bit i x:
a. Thay i nh kin
Vỡ phõn bit i x l mt dng ca nh kin, l nh kin trong hnh ng. Do vy,
xúa b phõn bit i x, thay i nh kin l iu cn lm. (vic thay i nh kin nh
th no ó cp phn III.)
b. Giỏo dc, tuyờn truyn
Vic giỏo dc v tuyờn truyn l iu cn thit xúa b phõn bit i x. Cú rt nhiu
ngi phõn bit i x ngi khỏc ch vỡ theo ỏm ụng, hay theo nhng iu bt chc
c t xung quanh m thiu kin thc v vic ú, do vy, vic giỏo dc trong nh
trng, gia ỡnh hay xó hi l rt cn thit. Bờn cnh ú, cú th giỏo dc cựng vi tuyờn
truyn trờn cỏc phng tin thụng tin i chỳng, trong cỏc bui hi tho, ta m hay cỏc
cuc hp cp cao
22



VD: các cuộc biểu tình tại các nước trên thế giới nhằm chống phân biệt đối xử…
c. Cưỡng chế

Đây là hình thức cưỡng chế bằng pháp luật nhằm xóa bỏ những phân biệt đối xử.
Luật pháp của nhiều nước trên thế giới đề ra có bao gồm các quyền bình đẳng, các quyền
cơ bản của con người như quyền được bảo vệ về tính mạng và của cải… và những hình
thức xử phạt cho những ai vi phạm. Không chỉ dừng lại ở vậy, việc chống phân biệt đối
xử còn được tiến hành ở mức độ cao hơn.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ định kiến cũng như phân biệt đối xử ngày nay càng trở nên khó
khăn hơn do những hình thái biến đổi tinh vi và ngày càng khó nhận biết của nó.

PHẦN V: THIÊN KIẾN (BIAS)
1. Định nghĩa

Trong các nhóm hoặc giữa các cá nhân, có sự ưu ái hơn một người (hay một nhóm) đối
với người khác (hay nhóm khác), thâm chí là thành kiến, nhưng trước khi có thành kiến
đã xãy ra một sự thiên lệch. Xu hướng này được gọi là thiên kiến.
2. Đặc điểm
Thiên kiến là giai đoạn thứ 2 của thành kiến. Giai đoạn này nãy ra những ưu ái, ngưỡng
mộ, cuồng tín hay không thiện cảm, không tôn trọng người này người nọ, nhóm này
nhóm kia.
Thiên kiến còn được hiểu như là một cách đối xử không công bằng hay những cách nhận
định, đánh giá,những ý kiến mang tính chất sai lệch,không đúng với sự thật khách quan.
Thiên kiến là một xu hướng. Điều này thể hiện ở việc thiên về một bên nào đó ở mức độ
nhận thức và tình cảm. Việc chúng ta có những nhận thức khái quát và những tình cảm ở
mức độ cảm tính có thể gây ra nhiều vấn đề. Đó là trong khi chúng ta không biết gì về
chúng (về những đối tượng mà chúng ta thiên kiến) mà chúng ta chỉ dựa và những nhận
thức và tình cảm chủ quan (đôi khi mang tính chất sai lệch) mà hành động hay áp dụng
vào đối tượng không phù hợp, dẫn đến những quyết định sai lầm, những thái độ lệch lạc.
Điều này sẽ hình thành định kiến và phân biệt đối xử.

Con người sinh ra không có "thiên kiến" nhưng theo thời gian cùng với tác động của gia
đình và xã hội đã làm nẩy sinh "thiên kiến" của mỗi người. Thiên kiến của mỗi người là
khác nhau tùy vào mức độ tác động của gia đình và xã hội. Nếu một người sinh ra trong
gia đình Công giáo thì nhiều khả năng họ sẽ không thể thể có thiên kiến với Công giáo
mà là một tôn giáo khác. Thiên kiến của mỗi người cũng phụ thuộc vào sự hiểu biết của
mỗi cá nhân.
Một số ví dụ về thiên kiến:
Sếp với nhân viên: Nhân viên “ruột” luôn nhận phần việc dễ dàng và những khoản
thưởng hậu hĩnh, còn bạn và các đồng nghiệp khác dù có năng lực và cống hiến hết mình
cho công ty vẫn không được sếp coi trọng và khó có cơ hội thăng tiến. điều này chứng tỏ
sếp đã có những thiên kiến đối với nhân viên của mình.
Những thiên kiến cho rằng văn chương của giới trẻ toàn sex.
Thiên kiến giữa thầy cô và học trò cá biệt.
23


24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình : Tâm lý học xã hội – Th.s Nguyễn Thị Thanh Hằng – NXB DDHQG
TpHCM
2. Giáo trình : Tâm lý học xã hội – Th.s Vũ Mộng Đóa – ĐH Đà Lạt
3. Sách: Định kiến và phân biệt đối xử theo giới – Trần Thị Minh Đức (chủ biên) –
NXB DDHQG Hà Nội
4. Sách: tâm lý xã hội học – Th.s Nguyễn Thơ Sinh – NXB Lao Động
5. Sách: Tâm lý học căn bản - Roberts Feldman (biên dịch Minh Đức - Hồ Kim Chung) NXB Văn hóa thông tin, 2007.
6. Sách: Tâm lý học (nguyên lý và ứng dụng) – Stephen Worchel – Wayne Shebilsue – NXB
Lao Động-Xã Hội, 2007
7. Sách: social psychology – Shelley E. Taylor và cộng sự - University of


Califonia, Los Angeles
Và một số website:
1. www.psychotherapy.net
2. www.psychology.about.com
3. www.psychologytoday.com
4. www..tamlyhoc.net

25


×