Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác dân vận ở huyện lạc sơn, tỉnh hòa bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.88 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới: Ban giám hiệu
Trường Đại học Tây Bắc, phịng Đào tạo, các thầy cơ trong khoa Lý luận Chính trị
cùng với các phịng ban chức năng. Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin bày
tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo: Th.s Lại Trang Huyền đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo động viên em trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hồn thành khóa luận
tốt nghiệp đúng thời gian và có chất lượng.
Em xin chân thành cảm ơn, Huyện ủy huyện Lạc Sơn, phòng Dân vận huyện
Lạc Sơn…cùng các cá nhân đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ em trong việc sưu
tầm và sử lý tài liệu. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm cùng các bạn sinh
viên lớp k52 Đại học Giáo dục chính trị. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng hồn thành
khóa luận bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của bản thân, tuy nhiên không thể
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được những đóng góp q
báu của q thầy cơ và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Người thực hiện

Bùi Thị Thanh Nhàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.....................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................... 4
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của đề tài .....................................................4
6. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ........................................................................5
8. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................5


Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN ..........................................6
1.1. Cơ sở, q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và quan niệm về
dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh...........................................................6
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ............................................6
1.1.1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................6
1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................................9
1.1.2. Quá trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận........................... 10
1.1.2.1. Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu nước và hình thành tư
tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận .................................................................................10
1.1.2.2. Thời kỳ từ năm 1921 đến năm 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam và tư tưởng dân vận ....................................................................12
1.1.2.3. Từ năm 1930 đến năm 1945: tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh phát huy tác
dụng tích cực đối với cách mạng Việt Nam ..................................................................13
1.1.2.4. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969: phát triển tồn diện tư tưởng dân vận Hồ
Chí Minh ........................................................................................................................14
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ..............................................17
1.2.1. Quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Hồ Chí Minh ......................................17
1.2.1.1. Quan niệm về dân ............................................................................................. 17
1.2.1.2. Quan niệm về dân chủ ......................................................................................18
1.2.1.3. Quan niệm về dân vận ......................................................................................19
1.2.2. Vị trí, vai trị của cơng tác dân vận ......................................................................20


1.2.3. Tư tưởng và phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận .....................................21
1.2.3.1. Tư tưởng chỉ đạo công tác dân vận của Hồ Chí Minh ...........................................21
1.2.3.2. Phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận .................................................26
1.2.4. Lực lượng làm công tác dân vận .........................................................................29
1.2.5. Phong cách làm việc của người làm công tác dân vận ........................................32
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO
CƠNG TÁC DÂN VẬN Ở HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HỊA BÌNH TRONG GIAI

ĐOẠN HIỆN NAY .......................................................................................................35
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở huyện Lạc Sơn ............................................35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................... 35
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.......................................................................................39
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn
tỉnh Hịa Bình .................................................................................................................42
2.2.1. Q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trên địa bàn huyện . 42
2.2.1.1. Chủ trương đảng bộ huyện Lạc Sơn về công tác dân vận .......................................... 42
2.2.1.2. Kết quả; thành tựu và hạn chế ..........................................................................43
2.2.2. Những việc làm cụ thể của khối dân vận - mặt trận và các đoàn thể; .................49
2.2.2.1. Mặt trận Tổ quốc huyện ...................................................................................49
2.2.2.2. Các tổ chức chính trị .........................................................................................50
Chương 3: NHIỆM VỤ, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HỊA BÌNH .............57
3.1. Nhiệm vụ , phương hướng nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn
tỉnh Hịa Bình.................................................................................................................57
3.1.1. Nhiệm vụ .............................................................................................................57
3.1.2. Phương hướng .....................................................................................................58
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở huyện Lạc
Sơn tỉnh Hịa Bình .........................................................................................................59
3.2.1. Giải pháp chủ yếu ................................................................................................ 59
3.2.2. Giải pháp cụ thể ...................................................................................................60
3.3. Kiến nghị đề xuất ....................................................................................................61
KẾT LUẬN ..................................................................................................................63

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một
bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và
dân tộc ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh khơng những chứa đựng tinh
thần trọng dân, thương dân, hết lịng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh
của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ln ln xác định rõ vai trị, vị
trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ
XXI, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật
là âm mưu của các thế lực thù địch hịng chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân
tộc. Do đó, cơng tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa
với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy
cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Trong 30 năm đổi mới vừa qua, công tác dân vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo
đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua u nước, góp phần khơng nhỏ làm
chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu
quả âm mưu "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước;
đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cơng tác dân vận vẫn cịn một số yếu
kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước cịn thiếu đồng bộ, nhiều nơi cịn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng
tiếc các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận
thức đúng vị trí và tầm quan trọng của cơng tác dân vận, thậm chí cịn xem nhẹ cơng
tác này, khơng coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một
số cán bộ, đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm
chí lợi dụng chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để
tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân cịn khá phổ biến. Tình


1


trạng này là nguyên nhân chính gây ra các vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu
cầu tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do
vậy, công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khố IX, có ba Nghị quyết về cơng
tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và huy động tối đa
nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác dân vận và tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào
cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân.
Với những lý do trên, tơi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và
sự vận dụng vào công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình trong giai đoạn
hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận là một công việc cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu này được nhiều cơ quan, tổ
chức và nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
được cơng bố. Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu mà tơi đã tham khảo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005; Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác vận động nơng dân của Lê Hồng Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; GS. Văn Tạo: Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân
vận, số 5-2000; PGS.TS Nguy- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang
Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái niệm, nguồn gốc và q trình hình
thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS.
Thanh Tuyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời
dạy của Bác Hồ, của TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác
phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho công tác
dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng,

2


nghiệp vụ công tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác dân vận của hệ thống chính trị của Đinh Hồng
Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quyền hạn và lợi Ých của dân trong bài
báo dân vận của Nguyễn Tri Thư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong cơng
tác vận động quần chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2000; PGS.TS Hồng Chí Bảo:
Hồ Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học về dân vận, Tạp chí
Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh
nhân dân và cơng tác dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2003; PGS.PTS Đức Vượng:
Đầu xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Tạp chí Dân vận, số 1+2, 1999; PGS.TS Bùi Đình Phong: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 92003; GS.TS Mạch Quang Thắng: Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác
phẩm "Dân vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, 8-2006.
Ngoài ra, rất nhiều bài viết, luận văn, cuốn sách mà nội dung đề cập đến công
tác dân vận đã được cơng bố, như: Chính quyền và nhiệm vụ dân vận của Nguyễn
Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 1-1995; Lại bàn về dân vận của GS. Đặng Nguyên Anh,
Tạp chí Dân vận, số 1-2003; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng" của Phạm
Thế Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 10-2002; Công tác dân vận là một bộ phận quan
trọng của công tác cách mạng của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan
nhà nước làm công tác dân vận như thế nào của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số
8-2000; Dân vận - một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền của Nguyễn Khánh, Tạp

chí Cộng sản, số 8-1996; Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn
Thị Ngọc Mai, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác
vận động nơng dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỉ XXI, Luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã làm
sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Song
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận. Tuy nhiên, những cơng trình này là những tài liệu q báu để tơi tham khảo, kế
thừa nhằm nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận và vận dụng tư tưởng đó vào việc đánh giá thực trạng công tác dân vận trong

3


giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; trên cơ sở đó xác định phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận của huyện trong thời
gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trên cơ sở đó đánh giá thực
trạng, nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân
vận hiện nay ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận.
- Phân tích thực trạng công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình trong
giai đoạn hiên nay, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm.

- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận.
- Quá trình quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận ở
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận; nghiên cứu
việc vận dụng tư tưởng đó trong công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hịa Bình
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng của
triết học Mác - Lênin.

4


- Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lơgíc là chủ
yếu, ngồi ra cịn sử dụng nhiều phương pháp khác như thống kê, so sánh...
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, đề tài làm rõ thực
trạng công tác dân vận hiện nay ở huyện Lạc Sơn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về
công tác này.
- Đề tài mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác dân vận. Tính cách mạng và tính khoa học của tư tưởng này khơng chỉ có ý
nghĩa và giá trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, mà cả
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy công tác
dân vận và làm công tác dân vận, nhất là làm công tác dân vận đối với nông dân.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, đề tài có 3 chương;
Chương 1; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
Chương 2; Vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh vào cơng tác dân vận
ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hịa Bình trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3; Nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hịa Bình.

5


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
1.1. Cơ sở, q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và quan niệm
về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.1.1.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế
thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân
tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tinh thần

“trọng dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta trong lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước.
Bản “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là lời hịch của non sông trong
đấu tranh giữ nước và dựng nước, đã động viên toàn dân chống quân Tống xâm lược
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [3, tr.65].
Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông,
Trần Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn nhất của chiến thắng là “Vua tơi
đồng tâm, anh em hồ thuận, cả nước góp sức”, và ơng căn dặn: "Phải khoan thử sức dân
để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Những lời tâm huyết đó đã thúc
giục lịng người đứng lên giết giặc lập cơng.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lòng người đã động viên toàn
quân, toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "chở thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân".
Tổng kết chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nguyên nhân thắng
lợi là gắn bó với nhân dân,và vận động, giáo dục, phát huy sức mạnh của nhân dân.
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực
hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng dân tộc nói chung và trong vấn đề

6


vận động quần chúng nói riêng. Tuy nhiên, các nhà yêu nước nổi tiếng này chưa có
phương pháp đánh giá và công tác vận động nhân dân một cách khoa học, nên phải
chịu “trăm thất bại” mà không một thành cơng.
*Chủ nghĩa Mác - Lênin
Hồ Chí Minh là nhà u nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người coi chủ nghĩa Mác Lênin không những là cái “cẩm nang thần kỳ", mà còn là "kim chỉ nam" và "là mặt trời

soi sáng con đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng", đó là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là đến với tri thức tiên
tiến của thời đại, là tiếp thu sức mạnh và giá trị tinh thần của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các đảng cộng sản đều phải làm cơng tác vận
động nhân dân. Đó là một cơng tác lâu dài và phải kiên trì thực hiện. Giai cấp công nhân
phải làm công tác dân vận để giành lấy sự đồng tình, sự ủng hộ của đa số nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình; và phải nhận thức rằng, mỗi thời kỳ
cách mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung cơng tác dân vận khác nhau.
Như vậy, theo C.Mác và Ph. Ăngghen, muốn thắng lợi, các cuộc cách mạng
xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu, những quần
chúng không tự giác tiến hành, mà phải do các chính đảng có lý luận tiên phong của
các giai cấp lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo
quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả thân đấu tranh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô
địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có
thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mục đích
trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô
sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền” [6, tr.615].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng:
1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu khơng có
một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; 2) Càng
có đơng đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho
phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ

7


chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu khơng thì bọn mị dân sẽ dễ lôi cuốn được những

tầng lớp lạc hậu trong quần chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những
người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình [38 tr.158-159].
Vì vậy, V.I.Lênin nhấn mạnh "hãy cho chúng tôi một tổ chức những người
cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" [38, tr.162].
Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đồn kết, phải có tổ chức. Về
phương hướng công tác dân vận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ cần phải dùng phương
pháp nêu gương và giúp đỡ; trong cơng tác dân vận thì những tấm gương, những mơ
hình thực tiễn cụ thể có tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất
to lớn; đối với quần chúng nhân dân không được dùng mệnh lệnh áp đặt ý chí chủ
quan của cá nhân lãnh đạo đối với họ.
Để vận động quần chúng, V. I. Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ, cơng khai
làm cho mỗi người dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước. Đây là phương pháp
vận động quần chúng có tác dụng nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo, cách
mạng của quần chúng. V. I. Lênin viết: “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của
quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái quần chúng có
thể phán đốn được về mọi cái, và đi vào hành động một cách có ý thức” [39, tr.23].
V. I. Lênin rất trân trọng ý kiến của quần chúng; xem tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân là những nguồn thông tin cực kỳ q báu để hình thành chính
sách. Vì vậy, Người đề nghị tìm mọi cách để duy trì, phát triển và mở rộng hội nghị
cơng nhân, nơng dân ngồi Đảng, vì thơng qua những hội nghị như thế, Đảng có thể
“nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những nhu cầu của họ,
giao cho những phần tử tốt nhất, trong số họ đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy
nhà nước..” [38, tr.39].
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học, là cơ sở phương
pháp luận giúp Hồ Chí Minh tổng kết, tiếp thu có chọn lọc các học thuyết tư tưởng của
nhân loại. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở, là nguồn gốc lý luận chủ
yếu nhất để Người nâng cao truyền thống yêu nước của dân tộc theo phương hướng
“Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản”, hình thành và hồn chỉnh tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam nói chung, về tư tưởng dân vận nói riêng để
vận động, giáo dục, tổ chức nhân dân hành động dưới ngọn cờ của Đảng nhằm giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

8


1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn
* Thực tiễn Việt Nam
Lịch sử đã chứng minh truyền thống đồn kết, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường của dân tộc ta đã được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hồ
Chí Minh là người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc, Khi đất nước bị giặc xâm lăng, “Vua tơi đồng lịng, anh em hồ thuận, cả nước
góp sức” và “Khoan thử sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”.
Hội nghị Diên Hồng đời Nhà Trần là một điển hình của truyền thống đoàn kết toàn dân
tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng, thu phục tướng sĩ, nhân tài, phát huy sức mạnh của cả
dân tộc để đánh đuổi kẻ thù. Truyền thống này được Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy
lên một tầm cao mới, trong thời đại mới.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc
vũ trang xâm lược và áp bức của chúng đối với dân tộc ta. Chúng đã thi hành nhiều
chính sách nguy hiểm và bằng mọi thủ đoạn độc ác, đê hèn để bóc lột nhân dân ta, đặc
biệt là chính sách “chia để trị”. Với chính sách đó kẻ thù hòng phân biệt, tách rời giữa
đồng bào miền xuôi với đồng bào miền ngược, giữa đồng bào không theo đạo với
đồng bào theo đạo… Nguy hiểm hơn, chúng đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc Trung - Nam; mỗi miền có một chế độ cai trị khác nhau nhằm tập trung phá hoại khối
đại đoàn kết dân tộc.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước Việt Nam
đã diễn ra rất mạnh mẽ. Từ phong trào Cần Vương, Yên Thế cuối thế kỷ XXI, đến
phong trào Đông Du, Duy Tân các thế hệ người Việt Nam yêu nước nối tiếp nhau
chống giặc ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Hồ Chí Minh nhận thấy được những hạn
chế của các nhà yêu nước trong chủ trương tập hợp lực lượng và trong việc nắm bắt
những đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc trong giai đoạn này. Đây chính là lý do,
điểm xuất phát để Hồ Chí Minh quyết tâm ra nước ngồi tìm chân lý cách mạng, rồi

trở về nước cùng nhân dân cứu nước.
*Thực tiễn thế giới
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khảo sát nhiều nước tư
bản chủ nghĩa và nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc ở hầu khắp các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm đó đã giúp Người nhận ra một sự thật là: Giới cần lao ở các dân tộc thuộc địa
tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại; song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi, bởi vì

9


các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa biết đồn kết chặt chẽ với giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động ở “chính quốc”, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức.
Đối với phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc
biệt chú ý tới phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem
lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước, tiến bộ
để tiến hành cách mạng, như kinh nghiệm tập hợp lực lượng của Tôn Dật Tiên trong
cách mạng Tân Hợi (1919) Ở Trung Quốc và của lãnh tụ đấu tranh địi độc lập
Mahatma ganđi ở ấn Độ.
Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này
đem lại cho phong trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp
lực lượng quần chúng công nơng đơng đảo để giành chính quyền cách mạng.
1.1.2. Q trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm
tới việc vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. Lý luận Dân vận
của Hồ Chí Minh hồ làm một với thực hành công tác dân vận, một cuộc thực hành
bền bỉ kéo dài trong suốt cuộc đời của Người. Tư tưởng dân vận của Người được hình
thành, phát triển và hồn thiện gắn liền với q trình hoạt động cách mạng của Người;
gắn liền với quá trình phát triển, thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.1.2.1. Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu nước và

hình thành tư tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận
Trong thời kỳ này, Nguyễn Tất Thành tiếp thu truyền thống u nước và lịng
nhân ái từ gia đình và quê hương. Tại quê hương, Hồ Chí Minh được khai tâm bằng
chữ Hán, hấp thụ tinh thần yêu nước bất khuất của phong trào chống Pháp, cách đối
nhân xử thế, nhân nghĩa thuỷ chung, khí khái của các nhà nho yêu nước.
Thời kỳ này, Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến cảnh đàn áp dã man của thực
dân Pháp đối với những người yêu nước Việt Nam; cảnh sống cơ cực, đói rách của
nhân dân lao động; cuộc sống xa hoa của bọn thực dân Pháp và quan lại tay sai. Hồ
Chí Minh tham gia phong trào biểu tình chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, thấy được
thất bại của phong trào Đông Du (1906 - 1908) do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo và
phong trào “Đông kinh Nghĩa thục”(1907).

10


Khi bị kỷ luật ở trường Quốc học Huế, người đã đi dần vào nam và dừng chân tại
Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành vào dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) (9/1910 2/1911). Trong thời gian này anh đã phổ biến cho học sinh những thơ ca yêu nước, những
bài “Ca hớt tóc”:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tơng kinh độc lập ở chùa Duy Tân,
Đêm ngày khấn vái chuyên cần,
Cầu cho ích nước lợi dân mới là,
Quyết tu sao phỉ chí dân nhà,
Tu sao độ được nước ta phú cường,
Lịng thành thắp một tuần nhang,
Nam mơ phật tổ hồng bàng chõng tri [2, tr.38].
Ngày 5/6/1911 anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ra nước ngồi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Khi rời bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành có một tâm nguyện rằng: “Tơi
muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [36, tr.13].

Trong thời gian làm việc trên tàu buôn của Pháp, Người gia nhập Hội viên Công
hội, Hội những người thuỷ thủ Việt Nam ở nước ngoài. Năm 1917, Hồ Chí Minh trở
lại Pháp - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hố lớn ở Châu Âu lúc bấy giờ, sau đó
tham gia Đảng Xã hội Pháp (1918). Năm 1919, Người thay mặt những người Việt
Nam yêu nước gửi đến Hội nghị Vecxây Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gồm 8
điểm đòi tự do dân chủ đơn sơ, địi có tiếng nói riêng của người bản xứ trong Quốc hội
Pháp, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng các đạo luật.... Mặc dù không được Hội nghị
Vecxây xem xét, song bản yêu sách đã có tiếng vang lớn.
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh qua nhiều nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ
và châu Âu, chú ý xem xét tình hình các nước, suy nghĩ về thực tế đang diễn ra ở các
nước đó và nhận định rằng: trên thế giới này chỉ có hai giống người: bị bóc lột và bóc
lột mà thơi. Người kết luận giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là
bạn; chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Từ đó đã làm nảy nở ở Người tình cảm và ý
thức giai cấp cũng như tình đồn kết quốc tế. Người cũng đã tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới, khảo sát cuộc sống, tình cảnh của nhân dân bị áp bức và ảnh
hưởng về con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một cuộc cách mạng đã

11


thành cơng đến nơi, vì “Cách mạng rồi quyền giao cho dân chúng số nhiều”. Bằng
những hoạt động tích cực ấy, Hồ Chí Minh đã đi trước một đoạn đường khá thành
công của công tác dân vận.
1.1.2.2. Thời kỳ từ năm 1921 đến năm 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về
con đường cách mạng Việt Nam và tư tưởng dân vận
Thời kỳ này Hồ Chí Minh vừa tiếp tục hoạt động cách mạng, vừa đi sâu nghiên
cứu tư tưởng Mác-Lênin, từng bước xây dựng tư tưởng, chiến lược, sách lược, phương
pháp và lực lượng cách mạng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Năm 1921,
Hồ Chí Minh cùng một số chiến sỹ cách mạng ở nhiều nước lập ra tổ chức “Hội Liên
hiệp thuộc địa” . Tháng 12/1921, theo kiến nghị của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản

Pháp thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa. Hồ Chí Minh được cử làm trưởng Tiểu ban
nghiên cứu Đông Dương.
Năm 1923, trong bức "Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp” trước khi rời
nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta khơng thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc.
Điều đó tuỳ thuộc vào hồn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta.
Đối với tơi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [11,
tr.192]. Những lời của Người trong bức thư ngắn gọn nêu trên cho thấy tư tưởng, quan
điểm của Người với những nội dung hết sức rõ ràng cụ thể về cuộc vận động quần
chúng làm cách mạng, từ giáo dục, tuyên truyền, tổ chức, tập hợp lực lượng và thực
hành tranh đấu.
Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh ở thời kỳ này định hướng cho cách mạng
thuộc địa. Sự định hướng đó thể hiện ở chỗ: “Giải phóng dân tộc bằng con đường cách
mạng vơ sản”.
Trong những năm 1925-1927, Hồ Chí Minh hoạt động Quảng Châu (Trung
Quốc). Ở đây, Người vận động, tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng, ra báo
Thanh niên và viết tác phẩm “Đường Kách mệnh”, mở các lớp huấn luyện chính trị
đào tạo cán bộ rồi đưa họ về nước hoạt động. Trong “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí
Minh nói rõ mục đích “Vì sao phải viết sách này”. Người viết:
5. Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn
sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không

12


phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta
soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta?
Cách mệnh thì phải làm thế nào?
6. Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có người chê rằng văn

chương cụt quằn. Vâng ! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như
2 lần hai là 4, khơng tơ vẽ trang hồng gì cả.
Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh
rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh.
Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ “Cách mệnh! Cách mệnh!!
Cách mệnh !!! [12, tr.262].
Đây là cách đặt vấn đề xuất phát từ quan điểm thực tiễn rất tiêu biểu của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Quan điểm này là nền tảng của dân vận, của khoa học chính trị vận
động quần chúng. Tác phẩm “Đường Kách mệnh” là ngọn cờ chỉ đạo; là bước chuẩn bị
rất cơ bản về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Hồ Chí Minh cịn viết "Lời
kêu gọi"; trong đó, Hồ Chí Minh phân tích tình hình thế giới, tình hình trong nước và
nêu lên đường lối, mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam, cổ vũ các
tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
1.1.2.3. Từ năm 1930 đến năm 1945: tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh
phát huy tác dụng tích cực đối với cách mạng Việt Nam
Trong những năm 1930 - 1940, do điều kiện khách quan, Hồ Chí Minh tiếp tục
hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Lúc này, toà án thực dân, phong kiến ở Việt Nam
kết án tử hình vắng mặt Hồ Chí Minh. Tháng 6/1931 đế quốc Anh bắt giam trái phép
Hồ Chí Minh tại Hương Cảng (Trung Quốc). Chúng bịa ra nhiều lý do để trao Người
cho thực dân Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của
những nhân sĩ dân chủ và tiến bộ, nhất là của luật sư Lô - Dơ - By và kinh nghiệm hoạt
động bí mật của mình, Hồ Chí Minh đã thốt khỏi nanh vuốt của kẻ thù.
Mùa xn năm 1934, Hồ Chí Minh sang Liên Xơ. Ở đây Người vào học tại
trường Đại học Lênin và sau đó làm nghiên cứu sinh ở Ban sử của Viện Nghiên cứu
các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Người tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm phong trào

13



cách mạng thế giới. Trong thời gian này, Người tiếp tục bảo vệ và phát triển những tư
tưởng, quan điểm đúng đắn của mình về cách mạng vơ sản, chống lại những biểu hiện
tả khuynh và biệt phái trong phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản được tổ chức ở Mátxcơva,
Nguyễn Ái Quốc tham gia đoàn đại biểu Đảng ta với tư cách là đại biểu tư vấn. Căn cứ
vào tình hình quốc tế lúc này, Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản đã thay đổi sự chỉ đạo chiến
lược và chủ trương mở rộng mặt trận thống nhất nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp
nhân dân, đấu tranh chống phát xít, bảo vệ tự do, dân chủ, hồ bình. Đại hội 7 Quốc tế
Cộng sản đã khắc phục được một bước quan trọng xu hướng tả khuynh trong phong
trào cộng sản và phong trào quốc tế, tạo điều kiện để cách mạng nhiều nước có bước
tiến mới.
Như vậy, thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng minh
những quan điểm của Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải tổ chức mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi, tập trung mũi nhọn chống đế quốc là đúng đắn và sáng tạo.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Người chủ trì Hội nghị Trung ương VIII, cụ thể hoá đường lối do Người vạch ra
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết.
Trong bài "Kính cáo đồng bào", Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy" [13, tr.198]. Người chủ trương thành lập Việt Minh,
vận động toàn dân thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, tiến tới già nh
chính quyền, giải phóng dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn, sáng tạo đó của
Người, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là thắng lợi đầu tiên của
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận của người và tư tưởng đó có sức
sống mãnh liệt trong thực tiễn đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
1.1.2.4. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969: phát triển toàn diện tư tưởng
dân vận Hồ Chí Minh
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ - Nhà nước cơng nơng đầu tiên ra đời từ hệ thống thuộc địa

của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách hiểm nghèo. Ở miền Bắc, 20 vạn
quân Tưởng và sau chúng là bè lũ Việt gian phản động chống phá cách mạng quyết
liệt, mưu toan bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. Ở miền Nam, quân Anh giúp

14


Pháp quay trở lại nổ súng xâm lược nước ta lần thứ hai. Trong khi đó tình hình kinh tế
- tài chính của Nhà nước mới cực kỳ khó khăn, kho bạc trống rỗng; hơn nữa, nạn đói
do hậu quả của chính sách vơ vét của Pháp và Nhật trước đó vẫn diễn ra gay gắt.
Đứng trước tình thế vơ cùng khó khăn, nguy hiểm đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh bình tĩnh, khơn khéo đề ra nhiều biện pháp linh hoạt, phát huy được sức mạnh
của cả dân tộc để giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết của cách mạng;
nhờ đó từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền
cách mạng và chuẩn bị lực lượng kháng chiến.
Trong lời kêu gọi lịch sử này, Hồ Chí Minh vạch ra đường lối kháng chiến đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của đất nước; do đó đã vận động, tập hợp, đoàn
kết và huy động cả dân tộc Việt Nam vào cuộc trường chinh vĩ đại, bảo vệ nền độc lập,
tự do của Tổ quốc và từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Năm 1947, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Qua tác phẩm
này, Người ý thức cho toàn Đảng, tồn dân, tồn qn sự cần thiết phải có phương
pháp và cách thức làm việc, cách thức giải quyết các vấn đề trong điều kiện kháng
chiến. Hơn thế nữa, tác phẩm cịn nêu lên những phẩm chất cần có của người cách
mạng để tập hợp sức mạnh của quần chúng, đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi,
kiến quốc đến thành cơng.
Năm 1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm: “Dân vận”. Ở tác phẩm này Người đã
nêu lên những quan điểm và phương pháp chỉ đạo công tác dân vận với một tầm nhìn
rộng lớn, khống đạt; với cách nghĩ, cách làm dân vận hết sức mới mẻ, hiện đại. Đây là
một trong những tác phẩm ít chữ mà nhiều ý nghĩa. Với một lượng tối thiểu ngôn từ,

Người chuyển tải và biểu cảm một cách tối đa tư tưởng và triết lý của Người về công tác
dân vận.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Mặt trận Dân tộc thống nhất đòi hỏi phải
được mở rộng để thu hút tối đa các thành phần dân tộc vì những lý do khác nhau
khơng tham gia Việt Minh. Vì vậy, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam ra đời. Công tác
dân vận trong thời kỳ Đảng cầm quyền không phải là nhiệm vụ riêng của Đảng như
thời kỳ Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
Từ sau tác phẩm “Dân vận” của Người, tồn Đảng, tồn qn, tồn dân chú tâm
vào cơng tác dân vận, động viên nhân dân thi đua ái quốc, giết giặc lập công, tăng gia
sản xuất. Tư tưởng dân vận của Người đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

15


đến thắng lợi và cổ vũ nhân dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn, buộc
thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hồ bình ở Đơng Dương
(20/7/1954). Theo hiệp định này đất nước ta tạm chia làm hai miền và sau hai năm sẽ
tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Song đế quốc Mỹ lợi dụng sự thất bại của Pháp,
nhảy vào xâm lược miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã chỉ ra đường lối đúng
đắn cho giai đoạn cách mạng mới. Đó là Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
Cách mạng Dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời gian này Hồ Chí Minh có hàng
trăm bài viết, bài nói chuyện để giải thích, tun truyền đường lối của Đảng, đồng thời
cổ vũ động viên cán bộ và nhân dân ta hăng hái xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Một trong những tác phẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của Người trong
giai đoạn này là tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”. Bằng những lời lẽ sâu sắc và đầy sức thuyết phục, Hồ Chí Minh chỉ ra cho cán

bộ, đảng viên thấy sự cần thiết phải thường xuyên rèn luyện tu dưỡng, nâng cao đạo
đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Người coi chủ nghĩa cá nhân là
kẻ thù hung ác của chủ nghĩa xã hội, là nguồn gốc của mọi sự sai lầm khuyết điểm.
Người viết: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ơ, hủ
hố, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa
rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh” [29, tr.438-439]. Theo Người, để chống chủ
nghĩa cá nhân có hiệu quả. mỗi người cần ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao
bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với
quần chúng, thật sự tơn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng dân
vận của Người nói riêng cho chúng ta thấy tư tưởng của Người là một hệ thống lý luận
gắn chặt với thực tiễn, có tác động to lớn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam cũng như của nhân loại tiến bộ chống lại mọi hình thức áp bức, nơ dịch để giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người

16


1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.2.1. Quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Hồ Chí Minh
1.2.1.1. Quan niệm về dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc
nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân Việt Nam từ thân phận người dân thuộc địa lên
địa vị người làm chủ đất nước; đồng thời Người cũng suốt đời phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Khái niệm "Dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và phát triển những quan
điểm tiến bộ về dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, lịch sử tư tưởng phương
Đông, phương Tây và khái niệm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã rút ra một hệ thống các quan niệm về dân. Cho dù xét theo cách

tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân Việt Nam có thể khái quát trên các
nội dung sau:
Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ
thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em
ruột thịt, là các tầng lớp, các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người
yêu nước, là lực lượng cách mạng…
Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả những ai thừa nhận
mình là “Con dân đất Việt”. Người thường nói đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng
bào”, gốc tích Việt Nam, “Hồng Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không
phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người khơng có tín
ngưỡng, khơng phân biệt “Già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý, tiện”. Dân là toàn bộ
đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài.
Dân là “Toàn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu,
nghèo, giai cấp, tôn giáo” (27, tr.8).
Dân ở đây trừ bọn phản bội, làm tay sai cho đế quốc thực dân đi ngược lại quyền
lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số
nhân dân là công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan
niệm đó, Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lịng u nước, cũng
là dân; họ cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu sắc và khoa học lực lượng quần chúng ở nước ta
và chỉ rõ: “Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, và tư sản dân tộc. Dưới sự

17


lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp đồn kết lại, bầu ra chính
phủ của mình” (17, tr.214).
1.2.1.2. Quan niệm về dân chủ
Từ quan niệm về dân, Hồ Chí Minh đi đến quan niệm mới về dân chủ. Bằng
những mệnh đề giản dị, hàm súc, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa, Hồ Chí Minh khái quát

bằng cách riêng của mình những giá trị văn hoá dân chủ nhân loại từ cổ đại đến hiện
đại mà lại rất Việt Nam - cụ thể và thiết thực nên ai đọc cũng nhận thức được ngay.
Người viết: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ” (17, tr.368); “Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” (16, tr.515); “Bây giờ chúng
ta là dân chủ. Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ” (18, tr.375); “ Nước ta là nước
dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ ” (17, tr.452); “Chế độ ta là chế độ
dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” (20, tr.251).
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức của Hồ Chí Minh về dân
chủ và đó là quan niệm ngắn gọn nhất, phản ánh đúng thực chất và nội dung quan
niệm của Người về dân chủ.
Cũng có thể thấy quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ còn thể hiện nội dung
căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ. Người viết:
NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân.
Chính quyền xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [15, tr.698].
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, vấn đề nhất quán và
sáng tỏ nhất là sự khẳng định ngay chế độ dân chủ của nước ta phải thể hiện “bao
nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở
nơi dân”. Quan niệm đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội dân chủ
là chế độ đại diện, uỷ quyền, trong đó chính quyền và đoàn thể “do dân cử ra và do
dân tổ chức nên”.

18



Tóm lại, quan niệm dân chủ ở nước ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: dân là chủ và
dân làm chủ; bản chất của vấn đề dân chủ là quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân,
địa vị của dân là cao nhất, dân là chủ thể của mọi quyền lực. Có thể nói tồn bộ tư
tưởng chủ đạo về dân chủ của Hồ Chí Minh nằm trong chữ "Dân".
1.2.1.3. Quan niệm về dân vận
Dân vận là một hoạt động vận động, giác ngộ quần chúng nhân dân làm cho dân
hiểu, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ cách mạng do Đảng ta lãnh đạo.
Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “Công tác quần chúng” và “dân vận” để chỉ
một lĩnh vực công tác của Đảng. Vấn đề dân vận có nhiều khái niệm khác nhau và cho
đến nay vẫn chưa có khái niệm nào xúc tích, dễ hiểu, lại độc đáo như khái niệm mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Dân vận”.
Người viết:
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm,
những cơng việc Chính phủ và Đồn thể giao cho.
Dân vận khơng thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền
đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng:
Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên và tổ chức tồn dân ra thi hành.
Như vậy, cơng tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải có đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn, kịp thời; phải làm cho người dân hiểu rõ chủ trương,
chính sách và việc thực hiện chủ trương, chính sách sẽ đưa lại lợi ích cho nhân dân và
do nhân dân thực hiện, không ai làm thay dân được; phải sâu sát nhân dân, sâu sát cơ
sở, bàn bạc với dân, với cơ sở về kế hoạch thực hiện chủ trương, chính sách cho phù
hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, từng cơ sở, phù hợp với khả năng của nhân
dân và phải hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách; trong và sau khi

thực hiện cần phải theo dõi, đôn đốc kiểm tra, rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung,

19


uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, sai lầm trong chủ trương, chính sách, trong tổ chức
thực hiện, đồng thời để khen thưởng và phê bình.
1.2.2. Vị trí, vai trị của công tác dân vận
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông
cha ta luôn biết dựa vào dân, phát huy lực lượng to lớn của toàn dân để tiến hành cuộc
đấu tranh chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Bài học “Nước lấy dân làm gốc”
đã được áp dụng trong nhiều thời kỳ, tạo nên sức mạnh để dân ta trường tồn, chấn
hưng nền văn hoá dân tộc và chiến thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất rõ sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân khi
được tổ chức, lãnh đạo; vì vậy, luôn coi công tác vận động nhân dân là cơng tác hết
sức quan trọng, có tính chiến lược quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh diễn đạt chân lý ấy bằng những lời giản dị. Bác nói: “Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân” [18, tr.276];
"Nước lấy dân làm gốc...
Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" [15, tr.409-410].
Người coi dân là chủ xã hội, là gốc của nước, mọi quyền hành và lực lượng đều
phải ở nơi dân. Người luôn luôn tin ở nhân dân, và đánh giá đúng vai trò của nhân dân.
Người nói: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của
cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy
lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân” [20, tr.197]; “Kinh nghiệm trong nước và các
nước cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng
được. Khơng có, thì việc gì làm cũng khơng xong” [15, tr.295]. Vì vậy, Hồ Chí Minh ln
xem cơng tác dân vận là nhiệm vụ cốt yếu của Đảng và của cả hệ thống chính trị. Theo

Người, muốn làm cách mạng thành cơng thì phải làm tốt cơng tác dân vận.
Trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15 tháng 10 năm 1949 thể hiện rất
rõ nét sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động nhân dân
trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bài viết này Hồ Chí
Minh nêu lên những quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung và mục tiêu công tác
vận động nhân dân rất sâu sắc, có tính chỉ đạo chiến lược và có thể xem đây là một
cương lĩnh trong công tác dân vận. Trước hết, Người khẳng định vai trò cực kỳ to lớn,

20


quan trọng của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Người viết: “quyền
hành và lực lượng đều nơi dân” [15, tr.698]. Sau đó, Người chỉ rõ thế nào là công tác dân
vận và chỉ rõ tầm quan trọng của công tác này. Người viết: “Dân vận là vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng
toàn dân...” [15, tr.698] là làm cho dân được làm chủ, được hưởng quyền dân chủ. Người
còn khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng” [15, tr.700].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cơng tác dân vận có vị trí, vai trị hết sức quan trọng
trong cách mạng; quyết định thành công hay thất bại của cách mạng.
1.2.3. Tư tưởng và phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận
1.2.3.1. Tư tưởng chỉ đạo công tác dân vận của Hồ Chí Minh
Tất cả vì lợi ích của nhân dân
Lợi ích của nhân dân là một vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
này đã trở thành mục tiêu duy nhất của Đảng do Người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. . Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, ngay từ đầu Người đã đặt vấn đề vận động
quần chúng vì ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trước hết là cho nhân dân lao động.
Sau khi nước nhà độc lập, Người chỉ rõ rằng: “Non nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [14, tr.56]. "Chúng ta tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm

gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" [14,
tr.152]. Từ đó, Người dạy rằng:
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó [14, tr.152].
Đường lối dân vận của Hồ Chí Minh đã cổ vũ, động viên toàn dân tiến lên đánh
thắng các đế quốc , thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, muốn vận động quần chúng thì mọi chủ trương, chính sách,
mọi quy định của luật pháp đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài, lợi ích cá nhân cũng như của xã hội; cóvậy, nhân dân mới sẵn sàng

21


hưởng ứng và tham gia tích cực; mới tập hợp được quần chúng và tạo được phong trào
quần chúng; ngược lại, sẽ không tập hợp được quần chúng và không có phong trào quần
chúng. Trong bài “Rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm”, Người viết:
“Việc Hồ Chủ tịch mua gạo khao quân vừa rồi là một kinh nghiệm rất thiết thực,
rất quý báu.
Việc ấy hợp thời: khao quân vào ngày kỷ niệm độc lập.
Rất hợp lòng dân: đồng bào ta luôn luôn sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ
Chủ tịch, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ bộ đội” [15, tr.703].
Trong bài viết nhan đề “Sao cho được lòng dân? ”, Người phê bình những ơng
chủ tịch, các ơng uỷ viên “ngông nghênh cậy thế cậy quyền” để dân khinh, dân ghét và
Người chỉ thị cán bộ chính quyền các cấp:
Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dẫu khó

khăn đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân... Phải chấp đơn, phải
xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu
đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được đặc biệt chú ý... Nói tóm lại,
muốn được dân u, muốn được lịng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của
dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí cơng vơ tư [14, tr.47-48].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn được dân yêu, cán bộ, đảng viên phải thể hiện
rõ trách nhiệm của mình đối với dân. Người cịn căn dặn: “Dân khơng đủ muối Đảng
phải lo. Dân khơng có gạo ăn đủ no, dân khơng có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các
cháu bé khơng có trường học, Đảng phải lo... Tất cả mọi việc, Đảng phải lo” [20,
tr.463-464].
Hồ Chí Minh chỉ rõ làm cơng tác dân vận là lãnh đạo nhân dân thực hiện lợi ích
và quyền hành của dân; xây dựng Đảng xứng đáng với sứ mệnh lịch sử của mình là
lãnh đạo, xây dựng chính quyền của dân, do dân vì dân, thu hút được lực lượng đông
đảo các tầng lớp, các giai cấp và cả dân tộc để thực hiện tốt lợi ích, trách nhiệm và
quyền hạn của từng người và của cả cộng đồng dân tộc. Về phương thức lãnh đạo phải
giữ gìn tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; coi trọng tác phong
sâu sát thực tế, gần dân, nghe dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân. Người chỉ rõ,
Đảng phải:

22


×