Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH của PHÁP LUẬT tố tục dân sự về PHIÊN tòa sơ THẨM THEO TINH THẦN cải CÁCH tư PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.19 KB, 78 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là
một nhu cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất
phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật
TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm bảo cho việc giải
quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng
pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ) 1996 là bước phát triển
có tính bước ngoặt đối với ngành luật TTDS Việt Nam. Bộ luật này quy định
khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong TTDS; trình tự thủ tục
khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự tại
Tòa án, thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia tố tụng. Chương XIV BLTTDS quy định về trình tự thủ tục giải
quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Đây là chế định có vai trò, vị trí rất
quan trọng, quy định khá cụ thể và toàn diện các vấn đề như: Các quy định
chung tại phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án
và tuyên án.
Mặc dù là Bộ luật mới ra đời, có sự kế thừa các quy định trước đó và
được Quốc hội dày công soạn thảo, song một số quy định về phiên tòa sơ



2

thẩm dân sự trong thực tiễn áp dụng còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập và
chưa hợp lý, làm cho quá trình xét xử sơ thẩm gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng
đến chất lượng giải quyết vụ án cũng như kéo dài thời gian giải quyết, chưa
đáp ứng được tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TƯ
ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết 49).
Chính vì vậy, chúng tôi thấy việc đi sâu nghiên cứu các quy định này
này nhằm phân tích, đánh giá đúng các điều luật, tạo điều kiện cho việc nhận
thức và áp dụng trên thực tế một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả
cao. Đồng thời, tìm ra những tồn tại, bất cập của các quy định trên, đưa ra
những giải pháp hữu hiệu đóng góp vào quá trình xây dựng pháp luật cũng
như áp dụng pháp luật là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, chưa có một công trình khoa học pháp lý nào
nghiên cứu một cách đầy đủ các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Hơn
nữa BLTTDS 2004 bắt đầu có hiệu lực kể từ 1/1/2005, nên chưa có một hội
nghị tổng kết hay hội thảo khoa học nhằm nêu ra những tồn tại, vướng mắc
trong quá trình áp dụng. Một số công trình nghiên cứu của một số tác giả
nhưng đề cập đến các vấn đề khác như: Luận văn thạc sĩ "Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Hoài Nam; Luận văn
thạc sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Thị Hà; Luận
văn thạc sĩ "Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận
và thực tiễn" của Nguyễn Thị Thu Hà...
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài



3

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ đi sâu nghiên
cứu các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS mà
không nghiên cứu vấn đề này đối với việc dân sự. Ngoài ra, đề tài còn nghiên
cứu một số quan điểm trong các Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 về cải cách
tư pháp với mục đích làm sáng tỏ trọng tâm nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên
cứu, đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều
tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân
sự theo tinh thần cải cách tư pháp. Từ đó nhiệm vụ của đề tài là giải quyết về
mặt lý luận các khái niệm thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các
vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật
hiện hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng luật trong quá trình giải quyết
các tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật TTDS
về phiên tòa sơ thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự


4


Chương 2: các quy định về phiên tòa sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng dân
sự.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.


5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM PHIÊN TÒA SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Vụ án dân sự - cơ sở làm phát sinh phiên tòa sơ thẩm dân sự
Quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) bao gồm các quan hệ pháp luật dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Các quan hệ
này hết sức đa dạng và phong phú, diễn ra hàng ngày trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gắn liền với bất cứ chủ thể nào. Các chủ thể tham gia quan
hệ dân sự bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu, lợi ích nhất định. Sự đan
xen về mặt lợi ích cũng như tính muôn màu muôn vẻ của các quan hệ dân sự
làm phát sinh các tranh chấp dân sự là điều không thể tránh khỏi. Khi xảy ra
tranh chấp dân sự, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án - cơ quan xét xử của
Nhà nước giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Trong quá trình xảy ra tranh chấp dân sự, các chủ thể có thể thỏa
thuận với nhau để giải quyết tranh chấp. Đó là quá trình tự điều chỉnh thông
qua phương pháp thỏa thuận trong quan hệ pháp luật dân sự mà chưa cần sự
can thiệp của một chủ thể thứ ba. Khi các chủ thể không tự thỏa thuận được

với nhau về việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu tòa án giải quyết thì tranh
chấp đó được giải quyết thông qua con đường tòa án và tranh chấp đó được
gọi là vụ án dân sự.
Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ
thể không tự thỏa thuận được buộc phải khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Việc đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp về quyền và


6

nghĩa vụ dân sự là sự kiện làm phát sinh tố tụng phiên tòa. Hay nói cách khác,
"tranh chấp dân sự" kết hợp với yếu tố "kiện" của đương sự là tiền đề để tòa
án mở phiên tòa xét xử. Ngoài yếu tố "kiện" là bản chất của vụ án dân sự, yếu
tố chủ thể là nguyên đơn, bị đơn cũng là đặc trưng của loại tố tụng xét xử sơ
thẩm dân sự. Vụ án dân sự được BLTTDS quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31
ở trong các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động bao gồm:
* Những tranh chấp dân sự truyền thống:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ
trường hợp các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy
định của pháp luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
- Các tranh chấp về dân sự mà pháp luật có quy định.

* Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.


7

- Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhận bao
gồm: Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi;
thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và
giấy tờ có giá trị khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai
thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về lao động:
- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng
lao động mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ
quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
hòa giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy

định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp
bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao
động; về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật lao động.


8

+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất
khẩu lao động.
- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng
lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động
không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và
các điều kiện khác.
+ Về thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngoài khái niệm vụ án dân sự, BLTTDS còn phân biệt một loại việc
cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án đó là việc dân sự.
Việc dân sự là các loại việc trong đó các chủ thể không có tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ dân sự (theo nghĩa rộng) mà chỉ yêu cầu tòa án công
nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự hay
yêu cầu tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự. Do đó, việc dân sự được
giải quyết theo một thủ tục tố tụng khác độc lập mà không làm căn cứ phát
sinh hoạt động tố tụng xét xử của tòa án.

Việc dân sự được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS như
sau:
* Những yêu cầu về dân sự:
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vị
dân sự.


9

- Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý
tài sản của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố
một người mất tích.
- Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ tuyên bố một người
là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính
của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của tòa án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình:
- Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định

về hôn nhân và gia đình của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án,
quyết định về hôn nhân và gia đình của tòa án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại:


10

- Yêu cầu liên quan đến Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các
vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án,
quyết định kinh doanh, thương mại của tòa án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về lao động:
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
lao động của tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động
của tòa án nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Như vậy, vụ án dân sự mới là sự kiện làm phát sinh tố tụng phiên tòa
xét xử, do đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân
sự.
1.1.2. Cơ chế giải quyết vụ án dân sự theo trình tự tố tụng sơ thẩm
Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, có hai cơ chế tố tụng giải quyết
vụ án dân sự có thể thực hiện là: Có thể thông qua hoạt động hòa giải hoặc

phải mở phiên tòa xét xử.
Hòa giải là một chế định mang tính đặc thù trong TTDS. Xuất phát từ
quyền quyết định và tự định đoạt cũng như yếu tố thỏa thuận trong quan hệ
dân sự, các chủ thể có thể thỏa thuận vào bất cứ thời điểm nào để tự bản thân
họ giải quyết tranh chấp. Hòa giải trong TTDS có nhiều ưu điểm vượt trội,


11

vừa thể hiện tính nhân văn trong hoạt động tư pháp đồng thời phát huy được
các giá trị truyền thống, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ trong nhân dân. Sau khi
thụ lý đơn khởi kiện, tòa án có trách nhiệm tổ chức các phiên hòa giải để
đương sự có điều kiện thỏa thuận với nhau. Khi tiến hành hòa giải, chỉ các
đương sự có quyền quyết định nội dung giải quyết tranh chấp, tòa án chỉ là
người hướng dẫn về mặt pháp luật, khuyến khích các bên thương lượng, đàm
phán đồng thời đảm bảo việc hòa giải không bị ép buộc và phù hợp với quy
định của pháp luật. Nếu đương sự thỏa thuận được với nhau để giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động hòa giải, việc giải quyết vụ án coi như kết
thúc mà không cần tòa án tiến hành xét xử. Hòa giải thành một vụ án dân sự
không chỉ giải quyết dứt điểm mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn giảm bớt
các thủ tục tốn kém thời gian, công sức của đương sự và cơ quan xét xử.
Tuy nhiên, không phải tranh chấp dân sự nào cũng giải quyết được
bằng con đường hòa giải. Nhiều tranh chấp chỉ được giải quyết thông qua
hoạt động xét xử của tòa án. Đối với những tranh chấp dân sự khởi kiện ra tòa
án, sau khi hòa giải không thành, hoặc không tiến hành hòa giải được (một số
trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải) thì tranh chấp đó chỉ có
thể giải quyết thông qua hoạt động xét xử của tòa án tại phiên tòa sơ
thẩm.Việc một vụ án dân sự không thể giải quyết được bằng con đường hòa
giải đồng nghĩa với việc các đương sự không thể tự giải quyết được tranh
chấp của họ, khi đó vai trò giải quyết nội dung tranh chấp thuộc về tòa án

thông qua việc xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét,
đánh giá chứng cứ, kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng như
hoạt động áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử. Nếu trong quá trình hòa
giải, tòa án chỉ giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi tranh chấp giữa các
đương sự thì việc xét xử tại phiên tòa phải xem xét toàn bộ các vấn đề của vụ
án. Ngoài việc xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên
đương sự, tòa án còn giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án.


12

1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Theo quyển sổ tay pháp lý thông dụng, thuật ngữ "phiên tòa" có nghĩa
là "nơi diễn ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân" [14, tr. 270]. Theo Từ
điển Tiếng Việt thì "sơ thẩm" có nghĩa là việc "xét xử một vụ án với tư cách
là tòa án ở cấp xét xử thấp nhất" [38, tr. 869], còn Từ điển Luật học thì định
nghĩa "sơ thẩm" là "lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ án tại một tòa án có thẩm
quyền" [37, tr. 434]. Các khái niệm trên đã xác định được một vài đặc trưng của
phiên tòa sơ thẩm nói chung cũng như phiên tòa sơ thẩm dân sự nói riêng, tuy
nhiên còn phiến diện và chưa phản ánh được đầy đủ bản chất của phiên tòa sơ
thẩm dân sự.
Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự,
thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết
yêu cầu của đương sự, nếu vụ án buộc phải đưa ra xét xử thì tòa án mở phiên
tòa sơ thẩm để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tại phiên tòa sơ thẩm dân
sự có mặt đầy đủ những người tiến hành tố tụng, các bên đương sự và những
người tham gia tố tụng khác. Mọi hoạt động tại phiên tòa được tiến hành theo
trình tự, thủ tục luật định. Các chủ thể tham gia phiên tòa có tư cách tố tụng
khác nhau và có các quyền và nghĩa vụ tố tụng độc lập. Hội đồng xét xử đảm

bảo cho việc xét xử diễn ra theo đúng tố tụng đồng thời tiến hành hoạt động
áp dụng pháp luật xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên
đương sự cũng như giải quyết triệt để các vấn đề khác của vụ án. Các đương
sự thực hiện hoạt động chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình, thuyết
phục Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết có lợi cho họ. Những người tham gia
tố tụng khác có trách nhiệm giúp cho Hội đồng xét xử tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Để có một phán quyết cuối cùng công bằng và thuyết phục,
mọi diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ được quy định trong pháp luật TTDS.


13

Phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành vào thời gian và tại địa điểm
được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu không có căn cứ hoãn
phiên tòa hoặc không phải trong trường hợp pháp luật quy định xét xử vắng
mặt thì những người tiến hành tố tụng, đương sự và những người tham gia tố
tụng khác (trong trường hợp cần thiết) phải có mặt đầy đủ tại phiên tòa. Ngoài
một số trường hợp tòa án phải xét xử kín, phiên tòa sơ thẩm dân sự được xét
xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa.
Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự
như sau: Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử của
tòa án, trong đó vụ án dân sự được đưa ra xét xử lần đầu, do một tòa án cấp
huyện hoặc một tòa án cấp tỉnh thực hiện theo thẩm quyền trên cơ sở một
trình tự, thủ tục nhất định.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hoạt động của cơ quan xét xử được điều
chỉnh bởi Luật tổ chức tòa án nhân dân (TAND) và pháp luật TTDS. Chính vì
vậy, nó cũng có những đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm nói chung như: Thành
phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân; trình tự, thủ tục
xét xử tuân theo trình tự xét xử sơ thẩm; đối tượng xét xử thuộc thẩm quyền

xem xét lần đầu tiên của tòa án cấp sơ thẩm; sự có mặt đầy đủ của các bên
đương sự và những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án (phiên tòa
phúc thẩm chỉ có mặt những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị);
bản án, quyết định tại phiên tòa sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị…
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm dân sự có đặc điểm sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi diễn ra các hoạt động tố tụng của
riêng cơ quan xét xử trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự yêu cầu tòa án giải
quyết tranh chấp dân sự. Nếu như việc mở phiên tòa sơ thẩm hình sự là kết
quả của quá trình điều tra, truy tố thì việc mở phiên tòa sơ dân sự lại xuất phát
từ ý chí của các bên đương sự sau khi vụ án không giải quyết được thông qua
việc hòa giải.


14

Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh
luận đề cao vai trò, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa dân sự (nếu có) không có vai trò như trong phiên tòa hình sự, họ chỉ tham
gia với tư cách là người giám sát hoạt động xét xử của tòa án mà không can
thiệp vào nội dung tranh chấp của các đương sự. Vị trí, vai trò của các đương
sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ trong hoạt động tư pháp, tôn trọng
quyền yêu cầu và tự định đoạt của họ trong quá trình xét xử. Ý chí và sự tự
nguyện của các đương sự luôn được tôn trọng và xem xét trước tiên. Quyết
định tại phiên tòa là sự phán xét của tòa án nhưng có thể đơn giản là ghi nhận
sự thỏa thuận của các đương sự.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự không nhất thiết phải bằng một
bản án được tuyên tại phiên tòa. Nếu như phiên tòa xét xử vụ án hình sự luôn
kết thúc bằng bản án của tòa án kết án một người phạm một tội cụ thể và hình
phạt kèm theo (trừ trường hợp được miễn hình phạt) hoặc tuyên bố người đó
vô tội thì diễn biến và kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự còn tùy thuộc vào

quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong quá trình diễn ra phiên
tòa. Phiên tòa sơ thẩm có thể kết thúc bằng một bản án hoặc cũng có thể kết
thúc bằng một quyết định ngay sau khi đương sự rút yêu cầu hoặc thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
1.1.4. Vị trí và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Trong các giai đoạn của TTDS thì xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là giai
đoạn quan trọng nhất. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn kết
thúc quá trình giải quyết vụ án dân sự của một cấp tòa án đó là tòa án cấp sơ
thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi tập trung kết quả các hoạt động của
các giai đoạn tố tụng trước đó. Mọi hoạt động của các giai đoạn thụ lý, hòa
giải và chuẩn bị xét xử nhằm thực hiện các thủ tục cần thiết hoặc chỉ tập trung


15

giải quyết một số vấn đề cơ bản, làm cơ sở để giải quyết toàn bộ nội dung của
vụ án được tiến hành tại phiên tòa sơ thẩm. Vị trí của phiên tòa sơ thẩm được
thể hiện rõ thông qua thành phần tham dự phiên tòa, nội dung công việc giải
quyết tại phiên tòa cũng như kết quả giải quyết các công việc đó. Tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến hành tố tụng, các bên đương
sự và những người tham gia tố tụng khác. Các chủ thể này "cùng nhau tạo lập
bức tranh toàn cảnh về quan hệ pháp luật dân sự một cách trung thực, khách
quan, toàn diện" [10, tr. 12]. Các tài liệu, chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá
thông qua phần trình bày và tranh luận giữa các bên. Thông qua các hoạt động
này tòa án sẽ ra các phán quyết nhằm giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án,
từ việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự cho đến vấn đề
án phí, các quyết định phải thi hành ngay (nếu có) và quyền kháng cáo đối với
bản án.
Trong mối quan hệ với toàn bộ quá trình TTDS, phiên tòa sơ thẩm dân

sự được coi là thời điểm chấm dứt việc giải quyết một vụ án dân sự nếu như các
chủ thể không thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Tại phiên tòa sơ thẩm,
nếu các thủ tục tố tụng được thực hiện đầy đủ, các tài liệu, chứng cứ đã thu
thập đầy đủ và được xem xét, đánh giá một cách khách quan, phán quyết của
tòa án là có căn cứ, công bằng và thấu tình đạt lý, làm cho các bên đương sự
"tâm phục khẩu phục" thì vụ án dân sự sẽ khép lại sau khi kết thúc phiên tòa.
Trong giai đoạn hiện nay, theo tiến trình cải cách tư pháp được đề ra
theo tinh thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49, phiên tòa sơ thẩm dân sự đang
ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong việc nâng cao chất lượng xét
xử của tòa án. Các phán quyết của tòa án phụ thuộc vào diễn biến tại phiên
tòa sơ thẩm, nhất là phần trình bày, tranh luận, xem xét, đánh giá chứng cứ và
quan điểm của các bên đương sự. Dần dần xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", án
được duyệt sẵn, việc phán xét ở phiên tòa bị áp đặt, không khách quan và
thiếu sức thuyết phục, làm cho hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm mất đi
vai trò đích thực của nó. Phiên tòa sơ thẩm dân sự phải là "nơi nói lên tiếng


16

nói của công lý, nói lên sự xác nhận của luật pháp đối với vụ án đã xảy ra và
thái độ của luật pháp với việc đã xảy ra như thế nào. Tòa án nói lên những
nhận định và quyết định của mình là nhân danh Nhà nước như chúng ta
thường ghi trong bản án" [24]
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiệm vụ đó được thực hiện thông
qua hoạt động xét xử của tòa án, để thực hiện được nhiệm vụ đó "trong công
tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch [12, tr. 188]. Phiên tòa sơ
thẩm dân sự là "nơi phản ảnh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một nền
công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp" [20, tr. 3], nó có ý nghĩa cả
về mặt pháp luật cũng như về mặt chính trị - xã hội.

Phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phản ánh rõ chức năng xét xử của
tòa án. Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự là sự thể hiện cụ thể vai trò,
nhiệm vụ của tòa án trong việc duy trì trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ công lý, giúp cho các quan hệ dân sự phát triển ổn định và lành mạnh, bảo
vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
Bản án, quyết định tại phiên tòa sơ thẩm khi có hiệu lực pháp luật phải
được mọi chủ thể trong xã hội tôn trọng, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ chấp
hành phải nghiêm chỉnh chấp hành. Nội dung bản án, quyết định xác định
quyền và nghĩa vụ cho các bên đương sự và có giá trị pháp lý làm cơ sở cho
việc thi hành án, từ đó khôi phục lại các quyền và lợi ích của các đương sự.
Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, những
người tham gia phiên tòa nói riêng và quần chúng nhân dân nói chung có điều
kiện nắm bắt những kiến thức pháp luật, nhận thức được vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, qua đó giúp cho họ khi tham gia các
quan hệ pháp luật có những xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật.
Đồng thời, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, tòa án là người thực hiện, tuyên truyền


17

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là môi trường để nhân dân
thực hành quyền giám sát của mình đối với hoạt động xét xử của tòa án.
Nếu việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm được tiến hành tốt sẽ
làm tăng thêm tác dụng của công tác giáo dục chính trị, giáo dục
pháp luật. Ngược lại, nếu phiên tòa sơ thẩm tiến hành không tốt
thì kết quả của công tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng
xấu, làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của
tòa án [34, tr. 266-267].
Ngoài ra, phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi công dân thực hiện quyền tự
do dân chủ nói chung cũng như các quyền và nghĩa vụ trong pháp luật tố tụng

nói riêng, thể hiện sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, quyền
được bào chữa, biện hộ, quyền được dùng chữ viết tiếng nói của dân tộc
mình… khẳng định quyền dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp,
khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
1.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CỦA PHIÊN TÒA
SƠ THẨM DÂN SỰ

Khi Tòa án mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, mọi vấn đề
của vụ án đều được đưa ra xem xét, đánh giá để xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên đương sự. Vì vậy, hoạt động tố tụng tại phiên tòa phải đáp ứng
các nguyên tắc của pháp luật tố tụng nói chung cũng như các nguyên tắc của
pháp luật TTDS nói riêng.
1.2.1. Những nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo có giá trị cho cả
phiên tòa sơ thẩm hình sự và phi hình sự. Việc mở phiên tòa sơ thẩm dân sự
trước hết phải đảm bảo yêu cầu của các nguyên tắc chung sau đây:
1. Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.


18

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi,
bổ sung năm 2001), Điều 4 Luật tổ chức TAND 2002 và tiếp tục được khẳng định
tại Điều 11 BLTTDS 2004. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong thành phần
Hội đồng xét xử nhằm tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đảm
bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt động xét xử của toà án, đồng thời là
hình thức nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của cơ
quan nhà nước. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán quyết định mọi
vấn đề thuộc nội dung vụ án, cả về áp dụng luật nội dung cũng như luật tố tụng.
2. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật.
Theo nguyên tắc này, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc
lập với các chủ thể khác bên ngoài Hội đồng xét xử cũng như độc lập giữa các
thành viên trong Hội đồng xét xử với nhau. Quá trình kiểm tra, xem xét, đánh
giá chứng cứ dựa trên cơ sở nhận thức của mỗi thành viên Hội đồng xét xử
mà không bị chi phối bởi yếu tố bên ngoài. Khi nghị án, hội thẩm biểu quyết
trước, thẩm phán là người biểu quyết sau cùng.
3. Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể.
Việc xét xử của tòa án được thực hiện bởi một tập thể bao gồm các
thành viên trong Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử của phiên tòa sơ thẩm bao
gồm các thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Việc xét xử tập thể sẽ tập trung trí
tuệ của các thành viên Hội đồng xét xử giúp cho việc nâng cao chất lượng xét
xử của tòa án. Các thành viên Hội đồng xét xử giải quyết từng vấn đề của vụ
án bằng cách biểu quyết theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền bảo
lưu ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án.
4. Nguyên tắc xét xử công khai.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau: Việc xét xử của
tòa án được tiến hành một cách công khai. Mọi người đều có quyền tham dự
phiên tòa (trừ trường hợp luật định). Xét xử công khai tạo điều kiện để người


19

dân nâng cao kiến thức hiểu biết và ý thức pháp luật, phát huy tính dân chủ
trong hoạt động tư pháp, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của cơ quan
xét xử trước nhân dân. Trong một số trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà
nước, hay cần giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc theo yêu cầu
chính đáng của đương sự thì tòa án có thể xử kín nhưng việc tuyên án phải
tiến hành công khai.
5. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.

Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại
Điều 52 Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 8 Luật tổ chức
TAND 2002. BLTTDS 2004 tiếp tục khẳng định nguyên tắc này tại Điều 8:
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS. Theo nguyên tắc này, các
đương sự khi tham gia tố tụng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ TTDS. Tòa án có trách nhiệm đảm bảo cho các đương sự thực sự
bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng đó.
Nguyên tắc này là cơ sở để đương sự tiến hành hoạt động chứng minh cũng
như tranh tụng tại phiên tòa.
6. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc có tính chất bao trùm, thể hiện tư tưởng chỉ đạo và
có ý nghĩa đối với mọi quan hệ pháp luật nói chung cũng như quan hệ pháp
luật TTDS nói riêng. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo đúng quy định của BLTTDS.
Việc vi phạm tố tụng tại phiên tòa ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án,
thậm chí bản án, quyết định tại phiên tòa có thể bị hủy để xét xử lại từ đầu.
1.2.2. Một số nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động
tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự


20

Các nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động tố tụng tại
phiên tòa dân sự là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, chi phối trực tiếp mọi
hoạt động xét xử của tòa án tại phiên tòa. Ngoài việc đảm bảo các nguyên tắc
chung, phiên tòa sơ thẩm dân sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc như sau:
1. Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
(Điều 4 BLTTDS)
Nguyên tắc này được thể hiện như sau:

Khi đương sự có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và yêu cầu
tòa án giải quyết, tòa án có trách nhiệm xem xét và hướng dẫn họ thực hiện
các thủ tục cần thiết để tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Sau khi tòa án tiến hành
hòa giải không thành, hay không thể tiến hành hòa giải được hoặc trong một
số trường hợp pháp luật không cho phép hòa giải. Nếu có đương sự tiếp tục
yêu cầu thì tòa án phải mở phiên tòa để xét xử theo yêu cầu của họ.
Trong quá trình giải quyết vụ án nói chung cũng như tại phiên tòa sơ
thẩm nói riêng, tòa án phải tôn trọng việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hay
toàn bộ yêu cầu của đương sự. Tòa án chỉ giải quyết vụ án trong phạm yêu
cầu của đương sự. Tại phiên tòa xét xử, nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì
tòa án phải đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Ngoài ra, theo nguyên tắc này, các đương sự có quyền thuê, nhờ, ủy
quyền cho luật sư hay người khác làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho mình trong quá trình giải quyết vụ án.
2. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5
BLTTDS).
Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật TTDS.
Đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt đối với yêu cầu của họ trong
suốt quá trình giải quyết vụ án. Bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại


21

có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình ngay cả sau khi đơn khởi kiện đã được tòa án thụ lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút
một phần hay toàn bộ yêu cầu, Hội đồng xét xử chỉ xét xử trong phạm vi yêu
cầu đó. Nếu tại phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án và sự thỏa thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo
đức xã hội thì Hội đồng xét xử tôn trọng sự thỏa thuận của họ và ra quyết

định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
3. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 BLTTDS).
Hòa giải trong TTDS cũng là một trong những nguyên tắc đặc trưng
của TTDS. Theo nguyên tắc này, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét
xử có phải hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án
hay không, Hội đồng xét xử có trách nhiệm hướng dẫn và tạo điều kiện cho
các đương sự trong quá trình hòa giải, đồng thời đảm bảo cho việc hòa giải
dựa trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật.
4. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
Khi đương sự đưa ra yêu cầu, đề nghị để tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thì đồng thời có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu, đề nghị của mình là có căn cứ. Bởi vì, việc xảy ra tranh
chấp là việc của bản thân các bên đương sự, mặt khác chỉ các đương sự mới
nắm được bản chất của nội dung tranh chấp. Chính vì vậy, không ai ngoài các
đương sự thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình hoặc phản bác yêu cầu của phía bên kia. Trường hợp cá nhân, cơ
quan, tổ chức đưa ra yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì họ cũng có trách nhiệm chứng minh cho đương sự. Việc bổ
sung chứng cứ tại phiên tòa tạo điều kiện tối đa để các đương sự chứng minh


22

cho yêu cầu, đề nghị của mình, đồng thời giúp cho tòa án có cơ sở để xác định
chính xác quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi tòa án phải tôn trọng các tài liệu, chứng
cứ do đương sự cung cấp. Tòa án không được tự ý đi thu thập chứng cứ khi
đương sự không yêu cầu. Đương sự cung cấp chứng cứ đến đâu, tòa án xem
xét đến đó. Tòa án phải có trách nhiệm thông báo và tạo điều kiện cho các
đương sự biết và sao chép tài liệu, chứng cứ của phía bên kia. Các đương sự

phải chịu hậu quả của việc không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu,
chứng cứ.
1.3. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ TRONG
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Cách mạng Tháng tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945 đã mở ra trang sử mới cho lịch sử dân tộc ta.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam gắn liền với
những biến cố lịch sử của dân tộc cũng như các giai đoạn phát triển, tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.1. Giai đoạn 1945 - 1959
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính của cách mạng nước ta là thực
hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giành độc lập dân
tộc và thống nhất nước nhà. Vì vậy, Nhà nước không có điều kiện xây dựng
hệ thống văn bản pháp luật mới mà chủ yếu tiếp tục sử dụng các văn bản pháp
luật của chế độ cũ phù hợp với lợi ích của chính quyền cách mạng và nhân
dân lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn này đã có một số văn bản pháp luật
ra đời đánh dấu sự xuất hiện các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự:
Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm
phán. Theo TS. Định Ngọc Hiện: "Lịch sử tố tụng dân sự tại tòa bắt đầu từ


23

ngày 24/1/1946" [40]. Đây được coi là văn bản đầu tiên chứa đựng các quy
phạm TTDS của nước ta. Về phiên tòa sơ thẩm dân sự, văn bản này đã có các
quy định về người tiến hành tố tụng, nghị án và tuyên án và cách thức tổ chức
một phiên tòa, chẳng hạn như Điều 10 quy định: "Tại phiên tòa thẩm phán
xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản từ"; Điều 31 và Điều 41:
"Nghị án xong tòa lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai bản án";

Điều 10 khoản 2: "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là
ngày chủ nhật. lại có thể nếu cần đến mở phiên tòa ngoài trụ sở của tòa án, ở
nơi cách xa tòa án". Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích của các đương sự: "Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử
đoán" (Điều 81); " Thẩm phán không được tự biện hộ trước tòa án…" (Điều 82);
"Các thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên tòa, xét xử thật
nhanh chóng và thật công minh. Thanh liêm là đức tính thiêng liêng của thẩm
phán" (Điều 83). Bên cạnh các quy định tiến bộ đó, Sắc lệnh 51 ngày
17/4/1946 có quy định: "Khi ra phiên tòa… bên bị cùng bên dân sự nguyên
cáo có quyền yêu cầu Tòa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự
thật" (Điều 26). Đến Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949, quyền bào chữa cho các
đương sự được mở rộng. Điều 1 Sắc lệnh này quy định: "Trước các Tòa án xử
việc hộ và thương mại, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc
tiểu hình, đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can
có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bênh vực cho mình. Công dân
đó phải được ông Chánh án thừa nhận".
Tiếp tục xây dựng bộ máy tư pháp và pháp luật tố tụng, Sắc lệnh 85
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng ra đời đã có những
quy định mới liên quan đến phiên tòa sơ thẩm dân sự, theo đó Ban tư pháp xã
có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những việc đòi bồi thường
dưới 300 đồng và có quyền sơ thẩm những việc đòi bồi thường mà đương sự
nêu trong đơn kiện là trên 300 đồng. Ngoài ra, Sắc lệnh này đã quy định hội
thẩm nhân dân tham gia việc xét xử, được nghiên cứu hồ sơ và ngang quyền


24

với thẩm phán khi xét xử; thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm
phán và hai hội thẩm nhân dân. Quy định luật sư được tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

Mặc dù còn chưa nhiều và đầy đủ nhưng các quy định về phiên tòa sơ
thẩm dân sự trong giai đoạn này đã thể hiện tính manh nha của một ngành luật
đang trong giai đoạn hình thành, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết
các tranh chấp nhỏ trong nhân dân, ổn định đời sống xã hội trong chế độ mới
cũng như tăng cường sức dân vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.3.2. Giai đoạn 1960 - 1989
Giai đoạn này xuất hiện các văn bản có giá trị pháp lý cao có các quy
định liên quan đến ngành luật TTDS như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980,
Luật tổ chức TAND 1960, Luật tổ chức TAND 1981. Trên cơ sở đó, các quy
định về pháp luật TTDS tiếp tục hình thành và phát triển, các quy định về
phiên tòa sơ thẩm ngày càng nhiều hơn, kết cấu của một chế định pháp lý về
trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ thẩm đã được định hình rõ nét.
Trong giai đoạn này, các vấn đề chung có tính nguyên tắc về phiên tòa
sơ thẩm dân sự đã được quy định như: Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân
dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (các Hiến pháp 1959, 1980);
Nguyên tắc xét xử công khai (các Hiến pháp 1959, 1980 và Luật tổ chức
TAND 1960, 1981); Nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia (Hiến
pháp 1980); Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể (Hiến pháp 1980). Ngoài ra, các
nghị quyết, thông tư do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ban hành trong đó
có một số quy định, giải thích, hướng dẫn các hoạt động xét xử tại phiên tòa
sơ thẩm như: Thông tư 03-NCPL ngày 30/1/1962 của TANDTC về các
trường hợp xử kín, xử lưu động; Thông tư 112-NCPL ngày 19/8/1972 của
TANDTC quy định về đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; Thông tư
2421/TC ngày 29/12/1961 của TANDTC hướng dẫn thực hiện chế độ hội
thẩm nhân dân: "Nguyên tắc chung là: Việc xét xử sơ thẩm phải có hội thẩm


25

nhân dân tham gia. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, tòa án nhân dân mới xử

sơ thẩm mà không có hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xử sơ thẩm mà không
có hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là một thẩm phán" (mục
C phần II); Thông tư 16-TATC ngày 27/5/1974 của TANDTC lần đầu tiên đã
khái quát được trình tự xét xử tại phiên tòa:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét hỏi,
tranh luận và giữ gìn trật tự tại phiên tòa. Hội đồng xử án có nhiệm vụ quyết
định mọi vấn đề về nội dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. Đối
với những vấn đề đơn giản không cần phải thảo luận lâu thì Hội đồng xử án
trao đổi và quyết định ngay tại phiên tòa, nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất
nhiều thời gian, hoặc trao đổi để nghị án thì Hội đồng xử án phải vào phòng
nghị án.
Văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong
thời kỳ này là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo
Thông tư số 96 ngày 8/2/1977 của TANDTC. Đây là văn bản quy định các
bước tiến hành tại phiên tòa xét xử như một chỉnh thể, nếu bỏ qua mặt hình
thức của nó thì Bản hướng dẫn này được coi là một chế định quy định đầy đủ
trình tự, thủ tục xét xử vụ kiện dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Theo Bản hướng
dẫn này, việc tiến hành phiên tòa về dân sự phải tuần tự theo các bước sau:
1. Bước chuẩn bị cho việc xét hỏi bao gồm các thủ tục: Khai mạc phiên
tòa; hỏi căn cước của những người được triệu tập và giải quyết vấn đề những
người vắng mặt; phổ biến những quyền của những người tham gia tố tụng và
giải quyết những vấn đề cần thiết để chuẩn bị cho việc xét hỏi; xác định
nhiệm vụ của nhân chứng, của giám định viên, của người phiên dịch.
2. Bước giải quyết nội dung chính của phiên tòa gồm các thủ tục: Xét
hỏi; tranh luận; nghị án và tuyên án.


×