Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA và điều TRA tội PHẠM TRỘM cắp tài sản tại các nơi THỜ CÚNG TRÊN địa bàn TỈNH NAM ĐỊNH của lực LƯỢNG CẢNH sát điều TRA tội PHẠM về TRẬT tự xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.01 KB, 131 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nam Định là một tỉnh có nhiều địa điểm thờ cúng với số lượng quần
chúng nhân dân có tín ngưỡng, tôn giáo đông, tập trung nhiều nhất là Thiên
chúa giáo và Phật giáo chiếm gần 21,6% dân số của toàn tỉnh. Đặc biệt có tới
60 nơi thờ cúng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa các cấp. Trong
đó một số nơi thờ cúng đã trở thành biểu tượng tâm linh trong quần chúng
nhân dân như: Khu di tích đền Trần, đền Phủ Giầy, chùa Cổ Lễ... Tại các nơi
này ngoài những tài sản dùng cho sinh hoạt thông thường còn có nhiều đồ
dùng cho việc thờ cúng là những cổ vật, có giá trị rất lớn, không chỉ là giá trị
vật chất mà còn là giá trị về văn hóa tinh thần nhưng chưa được tổ chức quản
lý, trông coi bảo vệ một cách nghiêm ngặt. Ở những khoảng thời gian nhất
định trong năm, tại các nơi thờ cúng đều tổ chức những buổi lễ theo nghi thức
của từng loại hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và trong đó có những lễ hội
đã mang tính truyền thống không chỉ dành cho cộng đồng tín ngưỡng, tôn
giáo mà còn thu hút rất nhiều quần chúng nhân dân khác ở các địa phương tụ
về tham gia lễ hội. Lợi dụng tình hình trên hoạt động của tội phạm hình sự tại
các nơi thờ cúng đã nảy sinh nhiều diễn biến phức tạp.
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Nam
Định vẫn diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm có xu hướng gia tăng, thủ
đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Theo báo cáo của
Công an tỉnh Nam Định, từ năm 1999 - 2005, tại địa bàn tỉnh Nam Định đã
xảy ra 3.697 vụ phạm pháp hình sự. Nổi lên nhất vẫn là tội phạm trộm cắp tài
sản, xảy ra 2.195 vụ chiếm tỷ lệ 59,37% trong tổng số các vụ phạm pháp hình
sự. Trong đó tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng xảy ra 76 vụ chiếm tỷ
lệ 3,6%. Tuy số vụ trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng chiếm tỷ lệ không lớn so
với tổng số các vụ trộm cắp tài sản nói chung, nhưng hoạt động của tội phạm
trộm cắp loại tài sản này không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu tài sản, mà còn



2

gây ra tâm lý hoang mang lo sợ, thiếu tin tưởng vào cơ quan Công an của
quần chúng nhân dân, xâm hại đến tín ngưỡng, sự tôn nghiêm nơi thờ cúng
của cộng đồng. Bên cạnh đó, đối tượng phạm tội là loại có tiền án, tiền sự,
cấu kết thành băng, ổ nhóm, hoạt động hình thành đường dây kết hợp chặt chẽ
giữa đối tượng gây án với đối tượng tiêu thụ, gây rất nhiều khó khăn cho
Công an địa phương trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Trong những năm qua, Công an tỉnh Nam Định đã huy động và sử
dụng đồng bộ nhiều lực lượng, phương tiện và biện pháp nghiệp vụ để đấu
tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản nói chung, tội phạm trộm cắp tài
sản tại nơi thờ cúng nói riêng nhưng kết quả chưa cao. Tình hình diễn biến
của loại tội phạm này vẫn phức tạp, số lượng xảy ra không những không giảm
mà còn có xu hướng gia tăng, phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội tinh
vi hơn, trong khi đó tỷ lệ điều tra khám phá rất thấp (26,3%). Thực trạng đó
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự, an toàn xã hội và đụng chạm đến
vấn đề nhạy cảm trong tâm linh của nhân dân.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những vấn đề
về lý luận và đánh giá đúng thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra tội
phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả của công tác này đang được đặt ra thành vấn đề hết sức cần thiết.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Hoạt động phòng
ngừa và điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng trên địa
bàn tỉnh Nam Định của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ nhiều góc độ tiếp cận, trên nhiều phương diện và mục
đích nghiên cứu khác nhau, cho đến nay đã có một số đề tài và bài viết về
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản.

Ở góc độ chuyên ngành điều tra tội phạm đã có các công trình nghiên
cứu như:


3

- Tăng Văn Sử, Điều tra các vụ án phạm tội có tổ chức trộm cắp tài
sản công dân tại nơi cư trú trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1997.
- Lê Trọng Hà, Khám nghiệm hiện trường các vụ trộm cắp tài sản
riêng công dân xảy ra tại nhà riêng ở địa bàn Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1997.
- Khổng Minh Hà, Điều tra các vụ trộm cắp tài sản của công dân ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, 2002.
- Nguyễn Trọng Hà, Công tác đấu tranh triệt phá băng nhóm tội
phạm trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội Công an tỉnh Phú Yên. Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2005 v.v...
Nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành hình sự, tố tụng hình sự, tội
phạm học có các công trình nghiên cứu như:
- Nguyễn Thanh Hải, Đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 1998.
- Nguyễn Duy Nga, Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và điều
tra khám phá tội phạm trộm cắp tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự xã hội Công an huyện Đăk Song tỉnh Đăk Nông, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2005 v.v...
Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mang tính chuyên sâu,
đầy đủ về hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại các
nơi thờ cúng trên địa bàn tỉnh Nam Định.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ thực trạng hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm
cắp tài sản tại các nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về


4

trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định. Đánh giá những mặt ưu điểm, khuyết
điểm, những nguyên nhân... Từ đó, đề xuất và kiến nghị các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại
các nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội
Công an tỉnh Nam Định.
- Góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận các biện pháp phòng ngừa
và phương pháp điều tra tội phạm trộm cắp nói chung và tội phạm trộm cắp
tài sản tại các nơi thờ cúng nói riêng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận của hoạt động phòng ngừa và điều
tra tội phạm trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều
tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định.
- Nghiên cứu tình hình hoạt động phạm tội, đặc điểm pháp lý và đặc
điểm hình sự của tội phạm trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm
trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định.
- Xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định
trong phòng ngừa và điều ra tội phạm trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng
tỉnh Nam Định.

4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra loại tội phạm trộm cắp đồ
thờ cúng tại các nơi thờ cúng của cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo, của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định.


5

* Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đề tài nghiên cứu các hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm
cắp đồ dùng để thờ cúng tại các nơi thờ cúng của cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo
theo chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
xã hội Công an tỉnh Nam Định trong 7 năm (từ năm 1999 đến hết năm 2005).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về phòng ngừa và điều tra xử lý tội
phạm trộm cắp tài sản. Các tri thức khoa học của bộ môn Luật, tội phạm học
và khoa học điều tra tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Tổng hợp, thống
kê, phân tích, so sánh, trao đổi tọa đàm, tư vấn chuyên gia, nghiên cứu điển
hình...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa và điều tra tội
phạm trộm cắp tài sản tại các nơi thờ cúng trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể có thể sẽ là nguồn tài liệu
dùng để tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cán bộ,
giáo viên và học viên trong trường Công an nhân dân và tài liệu tham khảo
cho cán bộ chỉ đạo thực tiễn, điều tra viên, trinh sát viên.

7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


6

Chương 1
NHẬN THỨC VỀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRA
TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC NƠI THỜ CÚNG CỦA
LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI PHẠM VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI

1.1. Nhận thức về tội phạm trộm cắp tài sản và trộm cắp tài sản
tại các nơi thờ cúng
1.1.1. Quy định của pháp luật về tội phạm trộm cắp tài sản
1.1.1.1. Khái niệm tội phạm trộm cắp tài sản
Tội phạm trộm cắp tài sản là một loại tội phạm cụ thể nằm trong cơ
cấu các loại tội phạm nói chung được quy định trong pháp luật hình sự của
nước ta. Do vậy, tội phạm trộm cắp tài sản có đặc điểm riêng về bản chất
hành vi phạm tội cũng như những dấu hiệu pháp lý đặc trưng.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm
trộm cắp tài sản, yêu cầu trước hết là phải xác định rõ khái niệm cũng như
những dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này. Đó chính là cơ sở để đề ra các
chủ trương, giải pháp cụ thể có tác dụng tích cực trong hoạt động phòng ngừa
và điều tra khám phá.
Khi chưa ban hành Bộ luật Hình sự, Nhà nước ta quy định tội trộm
cắp tài sản tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
và xâm phạm tài sản riêng công dân ngày 21-10-1970. Tuy nhiên, quy định về
tội trộm cắp tài sản tại Pháp lệnh này còn chung chung, không xác định rõ
được hành vi nào là hành vi trộm cắp cũng như chiếm đoạt tài sản đến mức

nào thì bị phạt tù. Cụ thể quy định trong pháp lệnh như sau: "Kẻ nào trộm
cắp tài sản của công dân thì bị phạt tù..."
Đến năm 1985 Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ra được ban hành.
Hành vi trộm cắp tài sản được quy định tại hai điều ở hai chương khác nhau,
cụ thể.


7

- Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa. Tội trộm
cắp tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 132. Khoản 1 Điều 132
nêu: "Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm".
- Chương VI: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân. Tội trộm cắp
tài sản của công dân được quy định ở Điều 155. Tại khoản 1 Điều 155 nêu:
"Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm...".
Mặc dù đã được quy định thành các điều luật trong Bộ luật Hình sự
nhưng các quy định nêu trên về tội trộm cắp tài sản vẫn chưa làm sáng tỏ các
dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản, hành vi như thế nào được coi là hành
vi trộm cắp tài sản và cũng chưa xác định được giá trị tài sản bị chiếm đoạt
đến mức độ nào thì bị coi là tội phạm. Vấn đề này đã gây ra không ít khó
khăn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình điều tra xác định tội
phạm và dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất trong phạm vi toàn
quốc.
Bộ luật Hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua ngày
21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 đã thay thế cho Bộ luật Hình sự năm 1985. Điều
138 - Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội trộm cắp tài sản như sau:
"Người nào trộm cắp tài sản của người khác từ năm trăm nghìn đồng hoặc
dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí

hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm".
Quy định của Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã xác định được
điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng đã định lượng được giá trị tài
sản bị chiếm đoạt được coi là có tội. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ sở để xác định tội phạm trong quá trình điều
tra và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, quy định của điều 138 Bộ luật Hình sự


8

năm 1999 vẫn còn một số hạn chế, đó là chưa mô tả cụ thể hành vi thế nào
được coi là hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, dẫn đến có nhiều quan điểm và
cách hiểu không thống nhất về khái niệm trộm cắp tài sản cũng như các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này.
Qua nghiên cứu, tham khảo một số tài liệu, bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự, các giáo trình giảng dạy Luật hình sự ở một số trường Đại học của
nước ta thấy: Trong Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, phần các tội phạm
trộm cắp tài sản được giải thích là: "Lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản do
người khác quản lý". Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội trộm cắp tài sản cũng được giải thích là: "Lén lút, bí mật
chiếm đoạt tài sản do người khác quản lý". Theo chúng tôi, "Tài sản đang do
người khác quản lý" và "tài sản đang có người quản lý" thực chất là cùng một
nội dung được diễn đạt bởi hai cách khác nhau. Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, phần các tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân thì lại cho rằng: "Trộm
cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản của người chủ tài sản hoặc người được giao
trực tiếp quản lý tài sản, có thể bằng thủ đoạn lén lút". Định nghĩa như vậy là
không cô đọng vì "chiếm đoạt tài sản của người chủ tài sản hoặc người được
giao trực tiếp quản lý tài sản" tựu trung lại chính là chiếm đoạt tài sản của người

khác. Về thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản, giáo trình trên nêu "có thể bằng thủ
đoạn lén lút" sẽ dẫn đến có thể hiểu chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp được
thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó "lén lút" chỉ là một trong
các thủ đoạn. Quan niệm như thế dễ dẫn đến việc nhầm lẫn hành vi trộm cắp
tài sản với hành vi lén lút của tội phạm khác. Theo chúng tôi, đặc điểm nổi
bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội dùng thủ đoạn lén lút, bí mật để
chiếm đoạt tài sản của người khác. Tính chất lén lút, bí mật của hành vi trộm
cắp tài sản thể hiện ở việc người phạm tội giấu giếm hành vi chiếm đoạt tài
sản. Lén lút, bí mật đối lập với công khai, trắng trợn. Tuy nhiên, lén lút, bí
mật không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản, mà thực tế
trong nhiều loại tội phạm, người phạm tội cũng có hành vi lén lút, bí mật
nhưng để thực hiện mục đích khác như: Lén lút chăng dây ngang đường cản


9

người đi xe mô tô đi qua bị ngã để cướp tài sản, lén lút vào nhà người khác bỏ
thuốc độc vào đồ ăn, uống nhằm giết người... Do vậy, khi nói đến tội trộm cắp
tài sản thì thủ đoạn lén lút, bí mật phải đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, căn cứ vào lý luận cũng như thực tiễn hoạt động phòng ngừa,
điều tra loại án trộm cắp tài sản và căn cứ vào quy định của Điều 138 Bộ luật
Hình sự năm 1999, theo chúng tôi: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí
mật chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở
lên hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những
tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự. Quy định cấu thành tội
phạm có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Bởi vì các dấu hiệu pháp lý quy định trong cấu thành tội phạm mang tính chất
đặc trưng, là cơ sở để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Đồng thời nó
cũng là căn cứ để định tội và xác định trách nhiệm hình sự. Do vậy, chúng ta
cần phải nghiên cứu các yếu tố cấu thành của tội phạm trộm cắp tài sản.
Theo quy định của Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, các yếu tố
cấu thành tội trộm cắp tài sản được thể hiện như sau:
* Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 138 nằm trong Chương XIV Các tội xâm phạm sở hữu. Như vậy, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm sở
hữu. Quan hệ sở hữu chính là khách thể của tội trộm cắp tài sản. Đó là quan
hệ xã hội gắn với các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ
sở hữu là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật bảo vệ.


10

Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác.
Điều 172 Bộ luật Dân sự quy định: "Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản".
Về nguyên tắc, tài sản bị hành vi phạm tội xâm hại là của người khác
sở hữu. Hay nói cách khác, tài sản đó không do người phạm tội sở hữu. Tuy
nhiên, cũng có một số trường hợp tài sản bị xâm hại thuộc sở hữu của người
có hành vi phạm tội. Đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của người có hành vi
phạm tội hoặc là tài sản chung của họ với người khác. Những trường hợp
phạm tội này về hình thức, mặc dù tác động đến tài sản của người thực hiện
hành vi nhưng mục đích là nhằm gây thiệt hại tài sản cho người khác hoặc
cho người cùng sở hữu với mình.
* Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan. Tội trộm cắp tài sản là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên mặt
khách quan của tội phạm bao gồm:

- Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản nên người phạm tội này chỉ có
một hành vi khách quan duy nhất là: Chiếm đoạt tài sản. Hành vi đó phải
được thực hiện bằng cách thức lén lút, bí mật. Tính chất lén lút, bí mật của
hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội che giấu hành vi phạm
tội của mình đối với người chủ sở hữu tài sản hoặc người đang có trách nhiệm
quản lý tài sản, mà không cần che giấu hành vi phạm tội với người khác. Tuy
nhiên, đa số những hành vi trộm cắp tài sản, trong ý thức chủ quan của người
phạm tội cũng vẫn là lén lút, bí mật che giấu hành vi đối với cả những người
khác. Ý thức che giấu trong trường hợp này có thể là:
+ Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội.
+ Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội.
Do đó, trong thực tiễn hoạt động phòng ngừa, điều tra loại tội phạm
này, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nghiên cứu, tỉ mỉ, tổng hợp hết tất cả


11

những dạng che giấu hành vi phạm tội và phải thu thập đầy đủ chứng cứ để
chứng minh. Điều này giúp cho việc đề ra các giải pháp chủ động phòng
ngừa, cũng như chủ trương định hướng điều tra ban đầu cho chính xác, tránh
những nhầm lẫn với các trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản khác.
- Về hậu quả tác hại, căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự
năm 1999 thì chỉ được coi là phạm tội trộm cắp tài sản trong những trường
hợp sau:
+ Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên.
+ Nếu giá trị bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng thì phải có một
trong những điều kiện sau: Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt được áp dụng theo mục II Thông



liên

tịch

số

02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP

ngày

25/12/2003 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định tại Chương XIV: Các tội
xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự năm 1999 (gọi tắt là Thông tư số
02/2001). Theo đó, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá thị
trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Nếu
thực tế tài sản bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng nhưng có đầy đủ căn
cứ chứng minh người có hành vi trộm cắp có ý định chiếm đoạt đến tài sản có
giá trị cụ thể từ năm trăm nghìn đồng trở lên thì vẫn truy cứu trách nhiệm
hình sự. Đối với những trường hợp tài sản bị trộm cắp không thu hồi được, để
xác định giá trị tài sản chính xác thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần thu
nhập đầy đủ các căn cứ chứng minh nguồn gốc của tài sản, chủng loại của tài
sản, số lượng, chất lượng cũng như giá trị của tài sản theo thời giá thực tế tại
địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt. Từ đó, xác định giá trị tài sản
bị trộm cắp.


12


Trong trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp,
nhưng giá trị tài sản của mỗi lần đều dưới năm trăm nghìn đồng và không thuộc
một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, bên cạnh đó lại
chưa có lần nào bị xử lý hành chính, trong các lần trộm cắp đó và chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hành chính, nếu tổng giá trị tài sản các lần trộm cắp từ
năm trăm nghìn đồng trở lên thì vẫn coi là đủ yếu tố cấu thành tội phạm nếu:
+ Các vụ trộm cắp được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về
mặt thời gian.
+ Việc trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp, sử dụng tài sản
trộm cắp được làm nguồn sống chính.
+ Với mục đích trộm cắp, nhưng vì sự tác động của điều kiện hoàn
cảnh khách quan nên phải nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp do đó tài sản
chiếm đoạt được mỗi lần dưới năm trăm nghìn đồng.
Thông tư số 02/2001 đã hướng dẫn về tình tiết "gây hậu quả nghiêm
trọng". Đó là khi thực hiện hành vi trộm cắp đã gây ra những thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất như: Gây ảnh hưởng xấu
đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh
hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Theo mục I điểm 1 Thông tư số 02/2001, bị coi là "đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt" nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một
trong các hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự như sau:
a. Cướp tài sản (Điều 133)
b. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134)
c. Cưỡng đoạt tài sản (Điều 135)
d. Cướp giật tài sản (Điều 136)
đ. Công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137)


13


e. Trộm cắp tài sản (Điều 138)
g. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139)
h. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140)
i. Tham ô tài sản (Điều 278)
k. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280)
Cũng theo Thông tư số 02/2001, nếu như trước đó đã bị kết án về
một trong các tội theo các điều luật được quy định trong Bộ luật Hình sự
nêu trên, chưa được xóa án thì được coi là tình tiết "Đã bị kết án về một tội
chiếm đoạt".
Trong Bộ luật Hình sự còn quy định một số tội phạm có tính chất
chiếm đoạt tài sản như: Tội chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 232), tội chiếm đoạt
vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233), các trường hợp đã bị kết án về
một trong các tội đó nhưng chưa được xóa án, có được coi là tình tiết định tội
hay không, hiện nay chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.
Dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản được
hiểu là chiếm đoạt được. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ được coi là hoàn
thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá việc đã
chiếm đoạt được tài sản hay chưa cần căn cứ vào đặc điểm, vị trí của tài sản
trước khi bị chiếm đoạt để xác định:
+ Tài sản bị chiếm đoạt là loại nhỏ, gọn thì coi là đã chiếm đoạt được
khi người phạm tội giấu được tài sản vào trong người.
+ Tài sản bị chiếm đoạt, không thuộc loại nêu trên thì coi là chiếm
đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi nơi bảo quản.
+ Tài sản bị chiếm đoạt là vật để ở những nơi không hình thành khu
vực bảo quản riêng thì coi là chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi
vị trí ban đầu.


14


- Dấu hiệu cuối cùng trong mặt khách quan của tội phạm trộm cắp tài
sản là công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm
tội. Mặc dù những dấu hiệu này không bắt buộc phải có trong cấu thành tội
phạm, nhưng nghiên cứu nó có ý nghĩa quan trọng trong góp phần xác định
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi giúp cho quá trình điều
tra, truy tố, xét xử được chính xác. Đồng thời, thông qua đó giúp chúng ta
xác định được những nguyên nhân điều kiện và điều kiện của tội phạm để đề
ra chủ trương, giải pháp có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm.
* Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người
phạm tội. Diễn biến tâm lý đó được thể hiện ra bên ngoài thông qua hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Nói cách khác, ý thức chủ quan quy định hành vi
khách quan. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ
phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý.
Người phạm tội trộm cắp tài sản chỉ có thể thực hiện hành vi với hình
thức lỗi cố ý trực tiếp. Khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự quy định Lỗi cố ý trực
tiếp: "Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra".
Đối với tội trộm cắp tài sản, động cơ và mục đích vụ lợi luôn là dấu
hiệu đặc trưng. Động cơ và mục đích vụ lợi thể hiện không chỉ trong trường
hợp chiếm đoạt tài sản của người khác để thành tài sản của mình mà còn cả
trong trường hợp chuyển tài sản đó cho người khác mà mình quan tâm hoặc
nhằm mục đích khác mà người phạm tội mong muốn. Mặc dù Điều 138 Bộ


15


luật Hình sự không nêu những dấu hiệu này nhưng khái niệm chiếm đoạt về
mặt pháp lý đã bao hàm mục đích vụ lợi.
* Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội phạm chỉ có thể là một con người cụ thể nhưng không
phải tất cả những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đều phải chịu
trách nhiệm hình sự. Theo quy định hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là
chủ thể của tội phạm khi có đủ các dấu hiệu sau:
- Là một người cụ thể, đang sống
- Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
- Người đạt độ tuổi theo luật quy định
Theo đó, trước hết chủ thể của tội phạm phải là một con người cụ thể,
đang sống. Bộ luật Hình sự không coi các pháp nhân, cơ quan, tổ chức là chủ
thể của tội phạm.
Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận
thức được hậu quả của hành vi do mình thực hiện và có khả năng điều khiển
được hành vi. Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định người không có
năng lực trách nhiệm hình sự: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự".
Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.


16


Theo quy định trên, đối với tội trộm cắp tài sản thì người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi trộm cắp tài sản của
mình. Trường hợp người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự trong những trường hợp quy định tại các khoản 3 và 4 Điều
138 Bộ luật Hình sự.
Trong khoa học Luật hình sự, chủ thể của một số loại tội phạm cụ thể
ngoài những dấu hiệu bắt buộc nêu trên còn cần phải có thêm các dấu hiệu
đặc biệt khác mới đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm (chủ thể đặc biệt). Chủ
thể của tội trộm cắp tài sản không thuộc loại chủ thể đặc biệt, nên bất kỳ
người nào có đủ những dấu hiệu của chủ thể nêu trên thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản đều là chủ thể của tội này.
1.1.2. Nhận thức về nơi thờ cúng và tội phạm trộm cắp tài sản tại
các nơi thờ cúng
1.1.2.1. Nơi thờ cúng
* Khái niệm nơi thờ cúng
Để xác định cụ thể những tài sản, đồ vật dùng cho việc thờ cúng thì
điều đầu tiên cần phải nhận thức được nội dung thực hiện hoạt động thờ cúng
và nơi diễn ra hoạt động đó. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc góp
phần giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật đề ra các giải pháp hữu hiệu trong
công tác phòng ngừa và những chủ trương, định hướng đúng đắn trong điều
tra, xử lý loại tội phạm này. Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ khái niệm "Nơi
thờ cúng" là rất cần thiết.
Qua nghiên cứu, về mặt pháp lý, từ trước tới nay chưa có văn bản nào
của các cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể khái niệm "Nơi thờ cúng".
Ngày 18/6/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh
số 21/2004/PL-UBTVQH11 quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo (sau


17


đây gọi là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004) đã quy định những địa
điểm cụ thể được phép thực hiện hoạt động thờ cúng của cộng đồng.
Căn cứ vào Pháp lệnh nêu trên và căn cứ vào thực tiễn hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo của quần chúng nhân dân, theo chúng tôi "thờ cúng" được
hiểu: là hoạt động của quần chúng nhân dân có tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện
sự tin tưởng vào những vấn đề thuộc về tâm linh hay vào một tôn giáo cụ thể
được biểu hiện bằng việc dâng lễ, hành lễ theo những cách thức mang tính
truyền thống trong hoạt động tín ngưỡng và các quy định của lễ nghi tôn
giáo.
Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 giải thích:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng, thờ cúng
thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và hoạt động tín ngưỡng dân gian
khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
Hoạt động này được tổ chức tại những địa điểm thuộc về cơ sở tín ngưỡng đó
là: "Nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng, bao gồm đình, đền,
miếu, am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở tương tự khác" (Khoản 2 điều
3 Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo năm 2004).
Các cơ sở tín ngưỡng nêu trên, theo thực tiễn hoạt động tín ngưỡng từ
trước đến nay, đình, đền, miếu, am được hiểu là những nơi thờ thần, thánh
hay các bậc vĩ nhân có công với đất nước, cộng đồng. Còn từ đường là nơi
thờ phụng tổ tiên của dòng họ. Đó là những nơi tổ chức các hoạt động chung
của cộng đồng có cùng tín ngưỡng. Về góc độ sở hữu, các công trình đình,
đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ cũng như những tài sản, đồ vật dùng để
tổ chức hoạt động tín ngưỡng là hình thức sở hữu chung của cộng đồng. Thực
tiễn ở nước ta, hầu hết các gia đình đều có ban thờ để thờ phụng tổ tiên hoặc
thần, thánh hay những linh vật thuộc tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên, ban thờ


18


đó không là nơi thờ cúng chung của cộng đồng, nó chỉ mang tính chất là nơi
thờ cúng của từng gia đình.
Khi nghiên cứu vấn đề này cũng cần phải lưu ý, mặc dù hoạt động tín
ngưỡng là hoạt động của cộng đồng người có chung niềm tin vào những vấn
đề thuộc về tâm linh nhưng chỉ được tổ chức theo tính chất truyền thống như
tế lễ của làng, xóm, giỗ tổ của dòng họ... Chứ không hình thành tổ chức chặt
chẽ, có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi theo một cơ cấu tổ chức nhất định
như tổ chức tôn giáo. Hoạt động của tổ chức tôn giáo bao gồm: truyền bá,
thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo. Theo khoản
7 Điều 3 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: "Cơ sở tôn giáo là nơi
thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ
chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước công nhận".
Thực tế hoạt động tôn giáo cho thấy, nơi thờ tự, nơi tu hành là những địa
điểm tổ chức các hoạt động lễ nghi tôn giáo, gồm: Nhà chùa (Phật giáo), nhà
thờ của các tôn giáo khác như (Công giáo, đạo Tin lành, đạo Hòa hảo...)
Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân và bảo hộ
cho quyền tự do đó. Tuy nhiên, Nhà nước ta chỉ tôn trọng, bảo hộ quyền và
các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong khuân khổ pháp luật quy định.
Từ cách tiếp cận vấn đề nêu trên, căn cứ vào Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2004 và thực tiễn hoạt động tín ngưỡng của quần chúng nhân
dân, theo chúng tôi: "Nơi thờ cúng" được hiểu: Là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
mà ở đó diễn ra các hoạt động chung của cộng đồng có cùng tín ngưỡng, tôn
giáo, thể hiện niềm tin vào những vấn đề thuộc về tâm linh, vào một tôn giáo
cụ thể, được biểu hiện bằng việc dâng lễ, hành lễ theo những cách thức mang
tính truyền thống trong hoạt động tín ngưỡng và các quy định của lễ nghi tôn
giáo, theo quy định của pháp luật.
Nơi thờ cúng bao gồm: đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà chùa, nhà
thờ.



19

* Đồ dùng thờ cúng
Cho đến nay chưa có văn bản pháp lý nào của cơ quan có thẩm quyền
quy định cụ thể thế nào là đồ dùng thờ cúng. Tại Điều 4 Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo có quy định: "Chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, đình,
đền, miếu, trụ sở tôn giáo, các cơ sở đào tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ
sở tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp khác, kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng
được pháp luật bảo hộ". Theo quy định này thì đồ dùng thờ cúng là một loại
tài sản sử dụng trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Trong thực tiễn, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo sử dụng nhiều vật
dụng khác nhau như: lễ vật, kinh bổn và các dụng cụ khác để tổ chức lễ hội...
Ngay như lễ vật cũng có nhiều dạng, có khi hương, hoa, trái quả cũng là lễ
vật. Tuy nhiên, đồ thờ cúng được đề cập là đối tượng nghiên cứu trong luận
văn này là những đồ vật đã trở thành biểu tượng của niềm tin vào tín ngưỡng,
tôn giáo mà cộng đồng tôn thờ.
Như vậy, theo chúng tôi, đồ thờ cúng được hiểu: là những vật dụng
dùng để thờ cúng thuộc sở hữu chung của cộng đồng, có giá trị về vật chất,
văn hóa, là biểu tượng linh thiêng trong tiềm thức của quần chúng nhân dân
có tín ngưỡng, tôn giáo, được tôn thờ và được quản lý tại các nơi thờ cúng.
Theo cách hiểu trên, đồ thờ cúng có một số đặc điểm sau:
- Trước hết, đồ thờ cúng là những vật được tôn thờ, là biểu tượng linh
thiêng trong tiềm thức của quần chúng nhân dân có tín ngưỡng, tôn giáo.
- Đồ thờ cũng được quản lý tại các nơi thờ cúng, thuộc sở hữu chung
của cộng đồng.
- Đồ thờ cúng có giá trị vật chất và các giá trị về văn hóa, tinh thần.
Việc nghiên cứu làm rõ khái niệm đồ thờ cúng cũng như những đặc
điểm của nó có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp loại tài sản này. Bởi vì, thông qua



20

đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật chủ động đề ra các chủ trương, giải pháp
phòng ngừa sát hợp và định hướng chính xác cho công tác điều tra xử lý.
1.1.2.2. Tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng
Để nhận thức rõ về tội phạm trộm cắp đồ thờ cúng, trước hết cần phải
nghiên cứu những tiêu chí áp dụng phân loại tội phạm trộm cắp tài sản nói
chung. Những tiêu chí đó gồm:
- Tính chất phạm tội: Có loại lưu manh chuyên nghiệp và loại tội
phạm do cơ hội nhất thời.
- Số lượng người tham gia phạm tội: có tội phạm trộm cắp tài sản hoạt
động đơn lẻ và tội phạm trộm cắp tài sản hoạt động theo băng, ổ nhóm.
- Địa bàn gây án: trộm cắp tài sản tại các địa bàn công cộng, trộm cắp
tài sản tại cơ quan, nhà dân, trộm cắp tài sản trên các tuyến giao thông và
trộm cắp tài sản tại các địa bàn khác.
- Thời gian gây án: trộm cắp tài sản vào thời gian ban ngày, thời gian
ban đêm. Ngoài ra còn có thể phân chia theo mùa, tháng trong năm hoặc theo
từng khoảng thời gian trong ngày.
- Về tài sản bị chiếm đoạt có thể chia ra các loại: trộm cắp xe máy, xe đạp,
trộm cắp tiền, vàng, đá quý, ngoại tệ, trộm cắp hành lý, trộm cắp đồ thờ cúng....
Pháp luật hình sự của nước ta từ trước tới nay không quy định về tội
trộm cắp đồ thờ cúng. Theo những tiêu chí phân loại tội phạm trộm cắp tài
sản nêu trên thì trộm cắp đồ thờ cúng thực chất chỉ là một loại hành vi cụ
thể của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự
hiện hành.
Như vậy, theo chúng tôi: Tội phạm trộm cắp đồ thờ cúng là một loại
hành vi cụ thể của tội phạm trộm cắp tài sản, trong đó tài sản mà người phạm
tội nhằm vào để chiếm đoạt là đồ thờ cúng. Tội phạm trộm cắp đồ thờ cúng



21

có đầy đủ các dấu hiệu pháp lý quy định trong các yếu tố cấu thành tội phạm
trộm cắp tài sản.
1.2. Nhận thức về hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm
trộm cắp tài sản nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội
1.2.1. Chủ thể của hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm
cắp tài sản tại nơi thờ cúng
Tội phạm trộm cắp tài sản nói chung, trộm cắp tài sản nơi thờ cúng
nói riêng là tội phạm về trật tự xã hội. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội với chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước và ngành Công an
quy định là lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Do
vậy, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội là chủ thể chính
trong hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại các nơi
thờ cúng.
Cùng với quá trình xây dựng, phát triển hệ thống pháp luật hình sự,
trước những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội cũng không ngừng được củng cố, phát triển cả về hệ thống tổ
chức cũng như về chức năng, nhiệm vụ nhằm ngày càng hoàn thiện hơn.
Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Pháp lệnh Tổ chức điều tra
hình sự năm 1989 và Chỉ thị số 11/CT-BNV ngày 09/5/1989 của Bộ Nội vụ
(nay là Bộ Công an) được ban hành thì lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội (lúc đó là lực lượng Cảnh sát hình sự) có chức năng: Thực
hiện các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an (như sưu tra, đặc tình, điều tra
trinh sát bí mật...) và một số biện pháp điều tra tố tụng để phòng ngừa, ngăn
chặn và phát hiện, điều tra khám phá các loại tội phạm xâm phạm trật tự an

toàn xã hội. Ngày 09/06/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 37/1998/NĐCP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy Bộ Công an


22

và Bộ trưởng Bộ Công an có Quyết định số 1023/2000/QĐ-BCA(V19) quy
định tạm thời phân công thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra và các cơ
quan khác của lực lượng Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Trên cơ sở đó, Tổng cục Cảnh sát nhân dân đã hướng
dẫn thực hiện Quyết định nêu trên, trong đó xác định: Lực lượng Cảnh sát
hình sự với tư cách là cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (Điều 10 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự) ngoài việc sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ để tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm hình
sự thì lực lượng Cảnh sát hình sự còn được tiến hành một số hoạt động điều
tra khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thuộc các tội phạm quy định tại các
chương từ Chương XII đến Chương XXII phần các tội phạm cụ thể của Bộ
luật Hình sự năm 1999. Những tài liệu, dấu vết, vật chứng mà lực lượng Cảnh
sát hình sự thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định thì được coi là chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm trước pháp luật.
Quá trình thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989 và
những văn bản có liên quan, lực lượng Cảnh sát hình sự đã đạt được những
kết quả quan trọng trong hoạt động phòng ngừa và điều tra xử lý tội phạm
hình sự. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đó còn bộc lộ những hạn chế cần phải
khắc phục. Thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, ngày 20/8/2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa
XI đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự mới thay thế Pháp lệnh
Tổ chức điều tra hình sự ngày 04 tháng 4 năm 1989 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 10 năm 2004.
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 quy định, trong Công an

nhân dân có Cơ quan Cảnh sát điều tra và Cơ quan An ninh điều tra. Trong đó
Cơ quan Cảnh sát điều tra được tổ chức thành hệ thống ở các cấp từ Trung ương
đến cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Theo quy định tại Điều 11
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, "Cơ quan Cảnh sát điều tra có


23

thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm cụ thể quy định tại các
chương từ XII đến chương XXII của Bộ luật Hình sự...". Cơ quan Cảnh sát
điều tra có nhiệm vụ "... áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề
nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan,
tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa" (Điều 3
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004)
Để triển khai thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004
trong Công an nhân dân, Bộ Công an đã ban hành một số văn bản như: Chỉ thị
số 13/2004/CT-BCA(V11) ngày 22/9/2004, Thông tư số 12/2004/TTBCA(V19) ngày 23/9/2004 và các quyết định ban hành quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cục nghiệp vụ. Căn cứ vào quy định của
các văn bản này thì Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội là một bộ phận
hợp thành cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp. Về tổ chức, Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự xã hội bao gồm tổ chức của lực lượng Cảnh sát hình sự hiện có
và một bộ phận điều tra tội phạm về trật tự xã hội của lực lượng Cảnh sát điều
tra các cấp trước kia chuyển sang. Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội có
chức năng sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để phòng ngừa các loại tội phạm về
trật tự xã hội và trực tiếp điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 và các
văn bản có liên quan, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội đã
được xây dựng, củng cố thành một hệ thống tổ chức chặt chẽ, thẩm quyền và

chức năng, nhiệm vụ theo hướng chuyên sâu gắn kết giữa trinh sát nghiệp vụ
với công tác điều tra khám phá. Cùng lẽ đó, với bề dày kinh nghiệm đấu tranh
phòng chống tội phạm về trật tự xã hội và kết quả đạt được của công tác này
trong thời gian qua, có thể khẳng định lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội là chủ thể chính trong hoạt động phòng ngừa và điều tra tội


24

phạm về trật tự xã hội nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản và trộm cắp tài
sản tại các nơi thờ cúng nói riêng.
Ngoài chủ thể chính là lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã
hội, một số lực lượng khác trong ngành Công an, theo chức năng nhiệm vụ
được phân công cũng là những chủ thể tham gia tích cực vào công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng như: lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính, Cảnh sát phụ trách xã... Do vậy, lực lượng Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội cần phải có mối quan hệ phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng với các lực lượng chức năng khác để nâng cao hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng. Chống loại tội phạm này.
Nội dung hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm trộm cắp tài sản
nơi thờ cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội bao
gồm: phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra tội phạm và áp dụng các biện
pháp điều tra để nhanh chóng phát hiện, điều tra khám phá loại tội phạm này.
1.2.2. Hoạt động phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ
cúng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội
Trong đấu tranh chống tội phạm hình sự nói chung, tội phạm trộm cắp
tài sản nơi thờ cúng nói riêng, phòng ngừa, ngăn chặn không để tội phạm nảy
sinh và phát triển luôn được coi là công tác có vị trí cơ bản nhất. Hoạt động
phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng là việc sử dụng tổng
hợp các biện pháp nhằm xóa bỏ các nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh, phát

triển tội phạm và ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội không để chúng gây ra
thiệt hại cho xã hội.
Để công tác này đạt hiệu quả đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn
xã hội, sử dụng đồng bộ các biện pháp, trong đó có những biện pháp phòng
ngừa mang tính rộng rãi do toàn xã hội tiến hành và những biện pháp phòng
ngừa nghiệp vụ do lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội tiến


25

hành. Đó chính là hai mức độ khác nhau hợp thành hệ thống phòng ngừa tội
phạm, có quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau.
1.2.2.1. Hoạt động phòng ngừa xã hội
Đây là hoạt động phòng ngừa tội phạm được tiến hành trên bình diện
xã hội, với sự tham gia của các lực lượng trong toàn xã hội và sử dụng các
biện pháp mang tính xã hội. Để phát huy hết hiệu quả của hoạt động phòng
ngừa xã hội đối với tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi thờ cúng, lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội cần thực hiện tốt một số mặt công tác
sau:
- Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền có biện pháp phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Từ đó sẽ có tác dụng xóa bỏ đói nghèo, tạo điều kiện việc làm ổn định
cho những quần chúng nhân dân không có nghề nghiệp. Xây dựng và ổn định
trật tự xã hội, hạn chế sự tha hóa đạo đức. Thực hiện tốt công tác này chính là
việc tiến tới xóa bỏ tận gốc nguyên nhân, điều kiện của tình trạng tội phạm.
- Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn
thể nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giáo dục đối với mọi thành viên trong
xã hội. Từ đó góp phần nâng cao trình độ văn hóa, xã hội và ý thức pháp luật
cho quần chúng nhân dân, tự điều chỉnh hành vi của mình theo chuẩn mực
đạo đức xã hội và pháp luật quy định.

- Phối hợp với các ngành, các tổ chức tôn giáo để tuyên truyền vận
động, hướng dẫn quần chúng nhân dân nói chung và cộng đồng tín ngưỡng,
tôn giáo nói riêng nâng cao tinh thần cảnh giác quản lý bảo vệ tài sản, tích
cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi
thờ cúng.
1.2.2.2. Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ


×