Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long (1992-2008) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.04 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

TRẦN ĐĂNG KẾ

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
RUỘNG ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG (1992 – 2008)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN HIỆN ĐẠI
MÃ SỐ: 62.22.54.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2015


Download và đọc trọn cuốn sách tại:



CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Văn Sen
Phản biện:
Phản biện 1: PGS. TS. Đinh Huy Liêm
Phản biện 2: TS. Lê Hữu Phước
Phản biện 3: PGS. TS. Đặng Văn Đoài



Phản biện đọc lập:
1. PGS. TS. Đinh Quang Hải
2. PGS. TS. Huỳnh Thị Gấm

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn
Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 29 tháng 8 năm 2015.
Có thể tìm luận án tại:
Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Thư viện Trung tâm ĐHQG – HCM.
Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trần Đăng Kế (1998), Biên niên lịch sử trường Đại học Cảnh sát nhân dân
(1976-1996).
2. Trần Đăng Kế -Viết chung (2004), Biên niên lịch sử trường Đại học Cảnh sát
nhân dân (2000-2004).
3. Trần Đăng Kế (2006), Kỷ yếu “Công cuộc đổi mới ở Việt Nam những vấn đề
khoa học và thực tiễn - An ninh, quốc phòng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ
năm 1986 đến nay”, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Trần Đăng Kế (2007), Luận văn Thạc sĩ lịch sử: Giải quyết vấn đề tranh chấp
ruộng đất sản xuất của đồng bào Khmer ở ĐBSCL (1988-2006). Mã số:5.03.15.
5. Trần Đăng Kế (2010), Nhận diện các yếu tố lịch sử ảnh hưởng đến an ninh
trật tự trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Tạp chí CAND, số 9-2010, tr.59,
tháng 9 năm 2010.
6. Trần Đăng Kế (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Công an nhân dân, số 11, năm
2011, tr.35-38.

7. Trần Đăng Kế (2011), Thể chế chính trị và dân chủ trong Hiến pháp, Tạp chí
Công an nhân dân, số kỳ 2, tháng 3, năm 2011tr.35-38.
8. Trần Đăng Kế (2011), Một số bất cập trong Luật đất đai năm 2003, Tạp chí
CAND, số 8-2011, tr.65, tháng 8 năm 2011.
9. Trần Đăng Kế (2011), Chủ nhiệm đề tài cấp cơ sở: Tác động của văn hóa,
giáo dục đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của
Công an các tỉnh ĐBSCL-Thực trạng và giải pháp phát huy hiệu quả. Mã số:
SC.2011.T48.057.
10. Trần Đăng Kế (2012), Lịch sử xây dựng trường Đại học Cảnh sát nhân dân
tại phường tân Phong, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Trần Đăng Kế (2012), Công đoàn trường Đại học Cảnh sát nhân dân: Bài
học từ kinh nghiệm tổ chức, thực hiện phong trào thi đua “Lao động giỏi, Lao động
sáng tạo”, Tạp chí Bảo hộ lao động, số tháng 11 năm 2012, tr.39-40.
12. Trần Đăng Kế (2013), Tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho công
nhân các tỉnh ĐBSCL đáp ứng sự nghiệp CNH,HĐH, Tạp chí Lao động & Công đoàn,
số 521, tr.10, (kỳ 1 tháng 4 năm 2013).
13. Trần Đăng Kế (2013), Những thành tựu thể hiện sự phát triển của trường
Đại học Cảnh sát nhân dân sau 10 năm có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tạp
chí KHGDCSND, số 38 tháng 9, năm 2013, tr.52-55.
14. Trần Đăng Kế (2014), Về việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL từ 1992
đến 2003), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 461 (9-2014), tr.45-65.
15. Trần Đăng Kế (2014), Vài nét về tình hình quản lý và sử dụng ruộng đất ở
ĐBSCL (2003-2008), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 286 (9-2014), tr.110.
16. Trần Đăng Kế (2014), Công tác thi đua khen thưởng và phong trào thi đua
dạy tốt, học tốt tại trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Tạp chí KHGDCSND, số 60
(4/2015), tr.39-45.


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), ngay từ đầu Đảng ta đã xác định
ruộng đất là vấn đề rất quan trọng. Giải quyết “vấn đề ruộng đất” không những
đem lại ruộng đất cho người nông dân, mà còn tổ chức cho nông dân sử dụng tư
liệu sản xuất có hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
họ, đưa nông dân đi vào con đường sản xuất lớn XHCN, góp phần giữ vững ổn
định vùng nông thôn.
Để giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân, Đảng và Nhà
nước ta đã lãnh đạo đề ra chính sách ruộng đất phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng 1930-1945; 1945-1954; 1954-1975 tạo tiền đề quan trọng cho xây dựng Chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Sau năm 1975, Đảng đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh, thành
ở ĐBSCL tập trung giải quyết tốt chính sách ruộng đất, như điều chỉnh ruộng đất;
hàn gắn vết thương chiến tranh; thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, góp
phần tạo ra những chuyển biến về kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Những thành tựu đạt được trong những năm đầu đi lên xây dựng CNXH và nhất là
thời kỳ đổi mới đã góp phần đưa nông thôn ĐBSCL không ngừng phát triển ổn
định về chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh; góp phần tăng trưởng giá trị xuất
khẩu gạo, nông sản hàng hóa,... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn
tồn tại, hạn chế, đó là: một bộ phận quần chúng nhân dân và cán bộ ở cơ sở trình
độ còn thấp, chưa nhận thức hết tầm quan trọng và tác dụng của việc thực hiện
chính sách ruộng đất cũng như Luật đất đai; còn lúng túng trong việc triển khai
thực hiện các chính sách về ruộng đất. Chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng,
Nhà nước còn có hạn chế, nhất là khi triển khai thực hiện ở ĐBSCL, như vấn đề lý
luận về chính sách đất đai chưa được tổng kết rút kinh nghiệm; quan hệ sở hữu, sử
dụng ruộng đất qua từng giai đoạn lịch sử chưa được giải quyết thỏa đáng; từ

“Khoán 100” (1981) đến “Khoán 10” (1988) và việc thực hiện Luật đất đai 1993,
2003 còn nhiều lúng túng, chưa cụ thể để trao quyền sử dụng ruộng đất ngày càng
nhiều hơn cho nông dân, xây dựng kinh tế nông hộ thực sự là đơn vị tự chủ. Một
bộ phận cán bộ, cá nhân lợi dụng sự thiếu sót, sơ hở trong tổ chức thực hiện chính
sách ruộng đất để thao túng ruộng đất, làm giàu cho cá nhân, xây dựng lợi ích
nhóm; gây mâu thuẫn ở cơ sở; kích động, lôi kéo quần chúng tranh chấp đất đai,
khiếu kiện, tố cáo kéo dài ở tỉnh, thành ĐBSCL,...
Để góp phần giải quyết vấn đề ruộng đất trước đây cũng như từ năm 1992 đến
nay, nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn trên
các phương diện về tình hình ruộng đất, tình hình phát triển công nghiệp, nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản,... đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sở hữu ruộng
đất, tranh chấp ruộng đất,... Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã góp phần
cùng Đảng, Nhà nước và các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương ở ĐBSCL tháo


2

gỡ những khó khăn, để tiếp tục triển khai thực hiện chính sách ruộng đất thuận lợi
hơn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nội dung còn riêng biệt, gắn liền với
từng tỉnh, thành địa phương, chưa có công trình nào nghiên cứu về quá trình giải
quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL thời kỳ 1992 – 2008. Từ nhận thức về tầm quan
trọng ĐBSCL Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Quá trình giải quyết vấn đề ruộng
đất ở Đồng bằng sông Cửu Long (1992 - 2008)” để làm luận án tiến sĩ, chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng tới mục đích làm rõ quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở
ĐBSCL từ năm 1992 đến 2008, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc
giải quyết vấn đề ruộng đất nói chung và việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở
ĐBSCL nói riêng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL, trước và sau năm 1992 có nhiều tác giả tham gia
nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau, liên quan đến ruộng đất, như:
Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận và pháp luật ruộng đất có những tác phẩm,
công trình khoa học sau:
Các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện
Đảng: cung cấp những vấn đề cơ bản về vấn đề ruộng đất, vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nhất là quan điểm của Lênin về “tự nguyện” của người nông dân khi vào
hợp tác xã; tư tưởng, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng CSVN về
vấn đề ruộng đất, với khẩu hiệu “người cày có ruộng”.
Các tác giả Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) với tác
phẩm“Vấn đề dân cày”; Viện nghiên cứu địa chính, Trung tâm nghiên cứu chính
sách pháp luật đất đai (2005) với “Các chủ trương, văn bản quy phạm pháp luật
mới về chính sách quản lý sử dụng đất đai”; PGS.TS. Trần Quốc Toản - Ban chủ
nhiệm Chương trình KX-08-02, với tác phẩm “Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai lý
luận và thực tiễn”; TS. Đinh Xuân Thảo với tác phẩm “Hoàn thiện chế định sở
hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay”; Phạm Hữu Nghị: “Những quan
điểm mới của Luật đất đai 2003” (2004); Nguyễn Tấn Phát: “Chính sách đất đai ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (2006); Nguyễn Thị Phượng: “Những bất cập
trong quản lý nhà nước về đất đai hiện nay” (2007); Minh Huệ: “Sở hữu ruộng
đất, vấn đề lớn cần giải quyết” (2008); Trần Đăng Kế: “Một số bất cập trong luật
đất đai năm 2003”, tạp chí Công an nhân dân (2011); Nguyễn Sinh Cúc: “Nghiên
cứu về nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2002”.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về ĐBSCL trong giai đoạn cuối thế kỷ
XX, đầu thế kỷ XXI trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đời
sống như: GS. Phan Quang: “Đồng Bằng sông Cửu Long” (1981); PGS Huỳnh
Lứa: “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” (1987). Viện khoa học xã hội Việt
Nam: “Báo cáo nghiên cứu bước đầu về vùng đất Nam Bộ trong lịch sử” (2004)
và “Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam” (2006) của Hội khoa học lịch sử Việt
Nam.



3

Các bài viết liên quan đến người Khmer ở ĐBSCL, như Ngô Đức Thịnh:
“Người Khmer ĐBSCL là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”,
(1984); GS. Mạc Đường: “Vấn đề dân cư và dân tộc ở ĐBSCL vào những năm đầu
thế kỉ XX” (1982),...
Thứ ba, những công trình nghiên cứu về vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL trong
thời gian gần đây có các công trình sau: GS, TS. Phan An: “Một số vấn đề kinh tế xã hội vùng nông thôn Khmer ĐBSCL”, “Vấn đề Dân tộc học ở ĐBSCL” (1981)
và “Vài nét về ruộng đất nông thôn của người Khmer ở ĐBSCL”, trong “Sưu tầm
Dân tộc học 1979” (1980); Phương Ngọc Thạch: “Những biện pháp thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL; Nguyễn Văn
Luật:“Suy nghĩ về tích tụ ruộng đất ở ĐBSCL” (2007); Lê Du Phong:“Hộ nông
dân không đất và thiếu đất ở ĐBSCL” (1998); Phạm Thị Cầm - Vũ Văn Kỷ Nguyễn Văn Phúc: “Kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Việt Nam” (2003);
Hoàng Liên: “Một dạng kinh tế hàng hóa ở nông thôn” (1980); Phạm Bảo
Dương:“Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp trong nông nghiệp nông
thôn” (2004); Trần Đăng Kế: luận văn thạc sĩ “Vấn đề tranh chấp đất đai sản xuất
của đồng bào Khmer ở ĐBSCL 1988 - 2006”; TS Nguyễn Văn Nghệ: đề tài khoa
học cấp Bộ “Giải quyết tranh chấp đất đai với vấn đề đảm bảo an ninh trật tự ở
ĐBSCL - Thực trạng và giải pháp”; Trần Đăng Kế: “Về việc giải quyết vấn đề
ruộng đất ở ĐBSCL từ 1992-2003”,tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 9-2014; “Vài nét
về tình hình quản lý và sử dụng ruộng đất ở ĐBSCL (2003-2008)”, tạp chí Lịch sử
Đảng, 9-2014; PGS, TS Trần quốc Toản: “Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai – Lý
luận và thực tiễn; Chính sách ruộng đất ở nông thôn” (KX – 08 – 02), thuộc
chương trình khoa học nhà nước Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn
(KX-08), giai đoạn 1991 - 1995.
Nhìn chung, các công trình khoa học nghiên cứu về ĐBSCL có liên quan đến
vấn đề ruộng đất được công bố ở các khía cạnh khác nhau từ năm 1992 đến năm
2008 rất phong phú, là nguồn tư liệu quan trọng định hướng cho luận án.
Kế thừa thành quả nghiên cứu khoa học của TS Lâm Quang Huyên về “Cách

mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam”; PGS, TS Võ Văn Sen: “Vấn đề ruộng đất
ở ĐBSCL của Việt Nam 1954 - 1975”; Nguyễn Thành Nam: Luận án tiến sĩ “Việc
giải quyết vấn đề ruộng đất trong quá trình đi lên sản xuất lớn ở ĐBSCL giai đoạn
1986 - 1992” và những công trình mà tác giả tiếp cận, nghiên cứu đã được công
bố, cùng những tài liệu trực tiếp khảo sát nghiên cứu tại các địa phương, các trung
tâm lưu trữ của Trung ương, thư viện các trường Đại học để hoàn thành luận án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Quá trình giải quyết vấn đề ruộng
đất ở ĐBSCL thời kỳ 1992-2008. Nội dung bao gồm: tình hình thực hiện chính
sách, pháp luật đất đai của Đảng, Nhà nước thời kỳ triển khai Luật đất đai năm
1993, 2003, các luật sửa đổi, bổ sung và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến vấn đề ruộng đất; thực trạng tình hình ruộng đất ở ĐBSCL, những chuyển biến
vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng ruộng đất; tình hình và việc giải quyết tranh


4

chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất; tác động của việc giải quyết vấn đề ruộng đất
đối với phát triển kinh tế - xã hội; rút ra những đặc điểm, những vấn đề có tính quy
luật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình giải quyết vấn đề ruộng
đất giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2008
- Phạm vi không gian: Địa bàn nghiên cứu là vùng ĐBSCL, gồm 13 tỉnh,
thành: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Trà
Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần
Thơ, trong đó tập trung nhất là các tỉnh có những nội dung liên quan đến mục đích
nghiên cứu của luận án.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu sử dụng

4.1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất trong thời kỳ lịch sử hiện
đại là công việc hết sức khó khăn, khi nhiều vấn đề lịch sử, vấn đề lý luận chưa
được tổng kết đánh giá đúng mức. Do đó, để nghiên cứu luận án áp dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng CSVN về vấn đề ruộng đất, vấn đề
nông thôn, nông dân; phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để nghiên cứu các
vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất qua thực hiện Luật đất đai
năm 1993, 2003 và các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước; phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê để tổng hợp đánh giá những đặc điểm, những vấn đề có tính
quy luật trong giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn, nhằm rút ra
những ưu điểm, hạn chế trong chính sách ruộng đất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cũng như các giải pháp đã được thực hiện trong giải quyết về vấn đề ruộng
đất ở ĐBSCL từ 1992 đến 2008.
4.2. Nguồn tài liệu sử dụng
Nguồn tài liệu chính sử dụng gồm các tài liệu điều tra, báo cáo, lưu trữ ở các
cơ quan lãnh đạo, quản lý và lưu trữ của Đảng, Nhà nước như văn kiện của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, các Ban của Trung ương
Đảng như Ban Tuyên giáo, Tổng cục Thống kê, các báo cáo tổng kết, báo cáo
chuyên đề, tài liệu lưu trữ của Tỉnh ủy, Thành ủy và Ủy ban nhân dân, các sở ban
ngành, đặc biệt là sở thống kê của tỉnh, thành ĐBSCL,...
Bên cạnh nguồn tài liệu nói trên, luận án còn kế thừa các công trình nghiên
cứu khác, để tham khảo, đối chiếu đảm bảo tính chính xác, đó là những tác phẩm,
đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, những bài viết đăng
trên các tạp chí chuyên ngành.
5. Những luận điểm chính và đóng góp mới của luận án
Để thực hiện nội dung luận án, những luận điểm chính cần giải quyết:
- Để giải quyết tốt vấn đề ruộng đất, thì chính sách ruộng đất phải được thể
hiện bằng luật, đó là cơ sở khoa học cho quá trình giải quyết.



5

- Luật đất đai năm 1993, năm 2003 và các luật đất đai sửa đổi, các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, Nhà nước là sự thể hiện việc Đảng, Nhà nước ta luôn quan
tâm, chú trọng hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai.
- Những bất cập của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; sự yếu kém trong
công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai; sự thiếu gương mẫu, suy thoái về
phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức là những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất.
- Chuyển biến về sở hữu ruộng đất với hai quyền: quyền sở hữu, quyền sử
dụng ruộng đất là một tất yếu khách quan dẫn đến tích tụ, tập trung ruộng đất, là cơ
sở hình thành các mô hình liên kết tổ chức sản xuất mới ở ĐBSCL.
- Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL đã xuất hiện các mối quan
hệ mới giữa nông thôn - nông nghiệp - nông dân. Sự phân tầng xã hội, sự chuyển
dịch kinh tế, sự liên kết tổ chức lại sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Luận án hoàn thành, có những đóng góp khoa học sau:
- Luận án là một công trình nghiên cứu về lịch sử kinh tế thời kỳ cận, hiện
đại liên quan đến ĐBSCL, sẽ giúp nhân dân ta hiểu rõ hơn những thuận lợi và khó
khăn về một vùng đất có vai trò, vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp hàng
hóa của nước ta.
- Luận án phản ánh quá trình vận dụng vào thực tiễn từ chính sách, pháp luật
đất đai của Đảng ở ĐBSCL; tình hình giải quyết vấn đề ruộng đất và những tác
động của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1992-2008.
- Luận án giúp cho đội ngũ cán bộ và nhân dân ta hiểu rõ thêm những quan hệ
có tính quy luật giữa hai quyền: quyền sở hữu, quyền sử dụng ruộng đất trong từng
trường hợp cụ thể của ĐBSCL; thấy được một số mô hình sản xuất nông nghiệp ở
ĐBSCL và hiệu quả của nó đối với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
trong thời kỳ đổi mới.

- Luận án tổng hợp và cung cấp những tư liệu khoa học phục vụ cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy liên quan đến ruộng đất ở ĐBSCL.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận án gồm 3 chương, 9 tiết.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT
GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1992
1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và quá trình khai phá ĐBSCL
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay gồm có 12 tỉnh và một thành
phố: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh,
Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Có
diện tích tự nhiên gần 40.602,3km2, chiếm 12,8% diện tích cả nước, dân số trên


6

17.695 người. Có đường biên giới Tây Nam giáp Vương quốc Campuchia. Phía
Đông giáp biển Đông với đường biển dài trên 700 km với khoảng 360.000 km2 khu
vực đặc quyền kinh tế phía Nam, đất sử dụng cho nông nghiệp 26.500km2; đất phù
sa chưa được khai thác chiếm khoảng 67 vạn ha. ĐBSCL có hai hệ thống sông
chính: hệ thống sông Cửu Long (sông MêKông) dài 4.200km và sông Vàm Cỏ.
ĐBSCL có hai mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch và mùa khô từ
tháng 11 hàng năm đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ bình quân trong năm vào
khoảng 26-27, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500 - 1900mm,...
ĐBSCL có hệ sinh thái tự nhiên rất độc đáo, đó là hệ sinh thái rừng ngập
nước ngọt (Vườn quốc gia Tam Nông, rừng Trà Sư, vùng Đồng Tháp Mười), và

rừng ngập mặn ven biển (Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia U Minh
Hạ), hệ sinh thái nông nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên. Đặc biệt, hệ sinh thái
rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh,
Bến Tre,... có vai trò quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, giữ cân bằng môi
trường sinh thái.
Lúa gạo, nuôi trồng và đánh bắt hải sản chiếm một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế ĐBSCL; theo các tài liệu của tổ chức lương thực thế giới FAO Liên hợp
quốc sản lượng, cá tôm ở bờ biển Tây Nam Bộ ước tính vào khoảng 490.000
tấn/năm. Vùng rừng ngập mặn với diện tích khoảng 350.000ha ở Cà Mau, Bạc
Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên còn cung cấp một nguồn lớn lâm sản, như tràm, đước, sú
vẹt và động vật rừng. Ở ĐBSCL còn có vỉa than bùn rộng lớn khoảng 80.000ha, ở
rừng U Minh, là nguồn nhiên liệu quí đồng thời là nguồn phân bón có giá trị đối
với nông nghiệp.
Với điều kiện tự nhiên và lịch sử cấu tạo ĐBSCL có nhiều yếu tố thuận lợi
cho việc phát triển các ngành kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp đặc biệt do đất đai
màu mỡ, khí hậu ôn hoà nên ĐBSCL là vùng trọng điểm trồng lúa của Việt Nam
và khu vực.
1.1.2. Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL là một vùng đất màu mỡ, rất thuận lợi cho sự cư trú và phát triển của
con người. “Đất lành chim đậu”, ĐBSCL là nơi cư trú khá sớm của nhiều thành
phần dân cư, nhiều tôn giáo và hình thức tín ngưỡng khác nhau trong đó có, người
Việt, người Chăm, người Khmer, người Hoa. Trước thế kỷ XVIII, văn hóa người
Khmer có ảnh hưởng lớn ở vùng đất này, nhưng từ thế kỷ XVIII đến nay cư dân
người Việt và văn hóa vượt trội của họ đã trở thành nền tảng căn bản cho toàn bộ
vùng ĐBSCL. Dân số toàn vùng năm 1999 là 16.1334 người, tỷ lệ tăng bình quân
giai đoạn 1989-1999 là 1,13%. Năm 2007 là 17.524.000 người, chiếm 20,6% dân
số cả. Mật độ cư trú là 432 người/km2, gấp 1,7 lần mật độ bình quân cả nước. Tỉnh
An Giang dẫn đầu khu vực với 2.231.000 người, thấp nhất là tỉnh Hậu Giang với
798.800 người. Người Khmer có mặt ở hầu hết các tỉnh ĐBSCL, nhất là ở các tỉnh
Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang.

1.1.3. Sơ lược lịch sử phát triển ĐBSCL
Công cuộc định cư khai phá đất đai ở ĐBSCL, qua các tư liệu sử học, khảo cổ
học, địa lý cho thấy người Khmer có mặt ở nơi này từ rất sớm. Nhưng qua các di


7

tích để lại, thì sự xuất hiện của con người ở đầu Công nguyên lại gắn liền với
Vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VI, điều đó cho thấy cư dân Phù Nam
có mặt ở đây trước người Khmer. Những dấu tích được khai quật ở Óc Eo (Ba Thê
- An Giang), nền Chùa (Kiên Giang), đã minh chứng điều đó. Song trong quá trình
phát triển và biến mất của Vương quốc Phù Nam thì còn nhiều vấn đề chưa được
làm sáng tỏ. Đến thế kỷ XVII, số dân ở Nam Bộ có khoảng 20 vạn người, trong đó
người Khmer cổ chưa phải là đa số, công cuộc khai phá ĐBSCL, ta thấy có công
lao của người Khmer, nhưng bên cạnh đó còn có công lao to lớn của người Việt và
người Hoa, nhất là người Việt đã đến chinh phục vùng đất này từ rất sớm. Người
Khmer và người Hoa, người Việt tới ĐBSCL lập nghiệp, khai khẩn đất hoang
chính họ đã cùng với người Khmer lao động đẩy lùi rừng hoang, đầm lầy, chinh
phục đất bồi ven biển,... để ổn định cuộc sống mới. Đặc biệt, khi nhà Nguyễn thực
thi chính sách mở rộng bờ cõi xuống phía Nam thì làn sóng người Việt đến
ĐBSCL khai hoang lập ấp ngày càng nhiều. Chúa Nguyễn đã thực thi công cuộc
khai phá đất đai ở ĐBSCL với quy mô và tổ chức ngày càng lớn và về cơ bản đến
năm 1757, những phần đất còn lại ở ĐBSCL đã thuộc quyền cai quản của Chúa
Nguyễn. Chúa Nguyễn chia vùng đất Nam bộ thành 3 trấn: Biên Hòa, Gia Định,
Hà Tiên. Đến đời Minh Mạng, nhà Nguyễn chia thành 6 tỉnh gọi là Nam kỳ lục
tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
1.2. Tình hình ruộng đất ở ĐBSCL trước năm 1992
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1954
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ĐBSCL trở thành "thuộc địa"
của thực dân Pháp. Mặc dù Nam kỳ được Pháp thiết lập chế độ thuộc địa nhưng

tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến thể hiện rất rõ nét trong nền kinh tế
ĐBSCL, đó là chế độ sở hữu ruộng đất. Ruộng đất ở ĐBSCL tập trung trong tay
địa chủ phong kiến ở mức cao; ở Nam bộ có 2,3 triệu ha thì địa chủ chiếm hữu
56,9%. Tính đến năm 1900 tư bản Pháp chiếm 4346 ha ruộng đất ở Nam kỳ, riêng
ĐBSCL tư bản Pháp chiếm hữu và khai thác trên 70% diện tích canh tác. Thực dân
Pháp chiếm đoạt ruộng đất đã làm cho đời sống của người nông dân ĐBSCL hết
sức cực khổ. Trong số gần một triệu ha ruộng đất mà tư bản Pháp chiếm được ở
ĐBSCL thì hơn hai phần ba là đất trồng lúa; tư bản Pháp áp dụng phương thức
phát canh thu tô, địa chủ phong kiến duy trì bóc lột nông dân dưới hình thức địa tô,
nặng lãi và thuê mướn bóc lột nhân công. Chính sách bóc lột của tư bản Pháp và
địa chủ phong kiến đã kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất trong nông nghiệp
và bần cùng hóa nông dân.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Chính cương vắn tắt
và Sách lược vắn tắt thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Đảng CSVN đã xác
định Cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
sau khi thắng lợi sẽ đi tới xã hội Cộng sản”. Cách mạng Việt Nam thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và đánh
đổ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Về cơ bản đến cuối năm 1953 trên
50% ruộng đất của thực dân đã được chia cho nông dân, tầng lớp trung nông ở
ĐBSCL có vai trò quyết định đối với sở hữu ruộng đất và tổ chức sản xuất.


8

1.2.2. Giai đoạn 1954 - 1975
Ở miền Nam, Mỹ không thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm
1954, từng bước hất cẳng Pháp dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, xây
dựng miền Nam thành căn cứ quân sự, thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Do vậy,
thời kỳ 1954-1975 chế độ sở hữu ruộng đất ở ĐBSCL chuyển biến qua hai đợt cải
cách lớn tương ứng với thời kỳ cầm quyền của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn

Thiệu. Ngô Đình Diệm thực hiện Chương trình cải cách điền địa để khôi phục
quyền lợi của giai cấp địa chủ, mở đường cho việc thiết lập chế độ thực dân kiểu
mới của Mỹ, thì luật "Người cày có ruộng" của Nguyễn Văn Thiệu lại là bước mở
đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn miền Nam nói chung
và ĐBSCL nói riêng.
1.2.3. Giai đoạn 1975 - 1985
Sau năm 1975, để tổ chức cho nông dân sản xuất, thực hiện các Nghị quyết số
24, 254 của Trung ương Đảng các cấp ủy Đảng, chính quyền ở ĐBSCL đã tổ chức
đánh giá toàn diện tình hình sử dụng ruộng đất. Từ thực tiễn tình hình, các cấp
chính quyền ĐBSCL triển khai chủ trương giữ nguyên canh, thực hiện điều chỉnh
ruộng đất, cấp đất cho các hộ chưa có đất hoặc thiếu đất canh tác.
Thực hiện Chỉ thị 236-CT/TW, tháng 9-1976 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam, tháng 9-1976 Chính phủ có
Quyết định số 188-CT/CP về xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các
hình thức bóc lột thực dân phong kiến ở miền Nam. Chủ trương này đã góp phần
đẩy nhanh tiến độ điều chỉnh ruộng đất ở miền Nam nói chung và ĐBSCL nói
riêng. Quỹ đất dùng để điều chỉnh là từ ruộng đất thu hồi ruộng vắng chủ, ruộng
đất của những chủ hộ có nhiều đất và một phần từ đất chưa sử dụng, đất khai
hoang; tập trung ở các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Minh Hải. Việc điều chỉnh
ruộng đất đạt được một số kết quả nhất định, phù hợp với đường lối cách mạng của
Đảng đề ra là “người cày có ruộng”; song ở nông thôn ĐBSCL tỷ lệ hộ nông dân
không có ruộng và thiếu ruộng đất sản xuất vẫn chiếm tỷ lệ cao, ở nhiều vùng còn
đến 20 - 30% số hộ nông dân không có ruộng đất, ở một số nơi còn duy trì bóc lột.
Để đẩy mạnh việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở Nam bộ, Bộ Chính trị, Trung
ương Đảng, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 75-CT/TƯ, ngày 15-11-1978; Quyết
định số 319-CP, ngày 14-12-1978; Chỉ thị 100-CT/TƯ, ngày 13-01-1981 về khoán
sản phẩm trong nông nghiệp và Chỉ thị 19, tháng 5-1983 về điều chỉnh ruộng đất
và cải tạo nông nghiệp Nam bộ.
Tính đến năm 1982, qua 6 năm (1976-1982) thực hiện điều chỉnh ruộng đất,
các tỉnh Nam bộ đã rút trên 270.000ha ruộng đất, gần bằng 1/10 diện tích canh tác

để chia, cấp cho những hộ nông dân không có và thiếu đất. Năm 1983, Nam bộ
chia 213.785ha cho các hộ thiếu đất. Trong đó Hậu Giang là tỉnh chia nhiều ruộng
đất nhất. Năm 1985, hầu hết các tỉnh ĐBSCL đều báo cáo hoàn thành cơ bản
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Kết quả trong 10 năm, Nam bộ nói chung và
ĐBSCL nói riêng đã hoàn thành điều chỉnh ruộng đất. Có 381.517ha ruộng đất
được rút ra để điều chỉnh cho 40.342 hộ nông dân, bình quân mỗi hộ được từ 0,4
đến 0,8ha.


9

Song, do nóng vội trong việc đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, do
quá trình xây dựng ồ ạt TĐSX, HTX mang tính hình thức nên sau khi được thành
lập các TĐSX, HTX bộc lộ ngay những yếu kém và dẫn đến mô hình tổ chức sản
xuất này tan rã hàng loạt. Cuối năm 1979 đầu năm 1980, trong tổng số 13.000
TĐSX được xây dựng thì đã có 6.000 tập đoàn không thể tổ chức được sản xuất, số
còn lại lúng túng và gặp không ít khó khăn. Năm 1980, trong nông thôn Nam bộ
chỉ còn lại 3.789 TĐSX và 137 HTX với qui mô vừa và nhỏ, với khoảng 9% số hộ,
7% diện tích ruộng đất là mang tính tập thể, còn 90% nông dân làm ăn cá thể.
Cuối 1981, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, trên cơ sở kết quả đã đạt
được đại hội tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp ở các tỉnh
Nam bộ, từng bước phát huy tác dụng hợp tác hóa đối với việc đưa nông nghiệp
lên sản xuất lớn XHCN và xây dựng nông thôn mới". Nghị quyết Trung ương V
(Khóa V) chủ trương: “Đối với ĐBSCL, phải tiến hành phân bố lại lao động trong
vùng và tiếp nhận lao động từ nơi khác đến nhằm thâm canh, tăng vụ và sử dụng
hết 50 vạn ha đất hoang hóa”.
Quá trình tập thể hoá, do đặt nặng việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất đai
của hộ nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh và xáo
canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Nam bộ. Việc giải quyết vấn đề ruộng
đất ở miền Nam đã đưa lại kết quả nhất định là góp phần hoàn thành cách mạng

ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột của đế quốc và địa chủ phong kiến
trên phạm vi cả nước. Nhưng bên cạnh thắng lợi đó, trong điều chỉnh ruộng đất
gắn liền với tập thể hoá, Đảng ta xác định đã mắc những sai lầm, khuyết điểm
nghiêm trọng trong việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm trên đã không tính đến
lợi ích của người sản xuất và tình hình sở hữu tồn tại ở miền Nam sau 30-4-1975;
đã vi phạm nghiêm trọng lợi ích của nông dân, đặc biệt là trung nông - nhân vật
trung tâm của sản xuất nông sản hàng hoá ở Nam bộ, những người có vốn, lao
động và kinh nghiệm sản xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất đang phát triển ở
nông thôn Nam bộ. Việc điều chỉnh ruộng đất nhiều lần dẫn đến bình quân, cào
bằng, xoá xâm canh, gây ra xáo canh, làm triệt tiêu động lực của sản xuất hàng hóa
trong nông nghiệp. Việc chia ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các
lĩnh vực phi nông nghiệp là không phù hợp, không phát huy được tiềm năng sản
xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL.
1.3.4. Giai đoạn 1986 - 1992
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trên cơ sở đánh giá
những thành tựu và yếu kém tồn tại của chặng đường 10 năm (1975-1985), Đại hội
đã nhìn thẳng vào sự thật về những sai lầm khuyết điểm của cách mạng nước ta
thời kỳ đầu đi lên CNXH và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đã
đề ra 3 chương trình kinh tế lớn, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, kinh tế quốc
doanh, tập thể, phát huy vai trò chủ động sản xuất của người lao động. Tư tưởng
chỉ đạo của nghị quyết là các kế hoạch và chính sách kinh tế là phải giải phóng mọi
năng lực sản xuất, khai thác mọi năng lực tiềm năng của đất nước, phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất. Đại hội xác định "nông nghiệp mặt trận hàng đầu, phải đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế; xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao


10

cấp, sửa đổi các chính sách đòn bẩy kinh tế, giải phóng năng lực sản xuất của hàng
chục triệu lao động với hàng triệu ha đất đai trong nền nông nghiệp".

Ngày 29-12-1987, Quốc hội thông qua Luật đất đai 1987 đã tháo gỡ những
vướng mắc trong mối quan hệ giữa chế độ quản lý đất đai với việc phát triển sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc Luật quy định nghiêm cấm mua, bán, kể cả
quyền chuyển nhượng đã trở thành rào cản quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất
vào những hộ có khả năng và kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Mặc dù có sự chỉ đạo rất chặt chẽ của Trung ương và địa phương trên thực tế ở
nông thôn ĐBSCL vẫn diễn ra quá trình tích tụ; đó là quá trình chuyển nhượng
ruộng đất giữa các hộ nông dân với nhau diễn ra khá phổ biến. Tình hình chuyển
nhượng ruộng đất, cho thấy nền kinh tế hàng hóa đã tác động mạnh đến sản xuất
nông nghiệp ở ĐBSCL.
Việc chuyển nhượng ruộng đất đã tạo nên những tiền đề mới, nông dân không
còn bị trói chặt vào ruộng đất, có thể chuyển nhượng, chuyển đổi ngành nghề phù
hợp với khả năng, làm cho sản xuất nông thôn sống động. Do giá trị của đất tăng
cao, thị trường bất động sản ĐBSCL xuất hiện với việc nhiều người có nhu cầu
mua đất và cũng có nhiều người muốn sang nhượng đất. Cơ cấu sở hữu ruộng đất
có sự thay đổi tăng - giảm, những hộ có khả năng tổ chức sản xuất nhận chuyển
nhượng, tăng diện diện tích, những hộ không có khả năng sản xuất chấp nhận
chuyển nhượng và một số hộ do khó khăn phải cầm cố. Số hộ có diện tích ruộng
đất (chiếm 72%); do thuê (15%); số hộ có ruộng đất giảm do chuyển nhượng, cầm
cố (chiếm 13%) và tập trung ở những vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống.
Việc thay đổi quy mô về sở hữu ruộng đất thực chất là quá trình tích tụ ruộng đất
và đi cùng với nó là nhiều hộ nông dân chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang
làm các nghề dịch vụ, kinh doanh trong nông nghiệp (chuyển dịch nội bộ ngành);
nhiều hộ sau khi chuyển nhượng, cầm cố thì đi làm thuê. Sự phân tầng xã hội, sự
phân hóa giàu nghèo diễm ra mạnh mẽ.
Luật đất đai năm 1987 và khoán 100, thời gian đầu có phát huy tác dụng tạo
điều kiện cho người nông dân ĐBSCL phát triển sản xuất, tăng năng suất, sản
lượng. Sản lượng lương thực ĐBSCL không ngừng tăng đã góp phần quan trọng
giải quyết những khó khăn về lương thực của cả nước trong những năm (19821985). Trước nhưng những hạn chế của Luật đất đai năm 1987 và khoán 100 về
chính sách hạn điền dẫn đến nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển

sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) xác
nhận và thường gọi là khoán 10. Số lượng kinh tế hộ tăng nhanh đến cuối năm
1993, ĐBSCL có 2.328 đơn vị kinh tế hộ chiếm 22,6% tổng số hộ cả nước; riêng
An Giang có khoảng 30% số hộ sản xuất hàng hóa, 50% số hộ sản xuất tự túc, 20%
số hộ sản xuất không đủ ăn.
Tình hình tranh chấp ruộng đất diễn từ năm 1986 và lan ra khắp cả nước, tập
trung nhất, phổ biến nhất là ở ĐBSCL. Nhiều tỉnh, huyện do cơ sở không giải
quyết thấu đáo để bà con tổ chức thành từng nhóm, từng đoàn kéo về các cơ quan
Trung ương, Chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội để đòi hỏi về ruộng
đất.


11

Tiểu kết chương 1
“Vấn đề ruộng đất” theo nghĩa “việc giải quyết ruộng đất cho nông dân” ở
ĐBSCL trong lịch sử cho đến đầu những năm 1990 đã trải qua nhiều quá trình hết
sức phức tạp, chịu tác động của rất nhiều nhân tố chủ nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa
thực dân mới, chính sách ruộng đất của Đảng ta trong cách mạng DTDCND dưới
hình thái cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng
như những điều chỉnh ruộng đất cải tạo XHCN đối với nông nghiệp sau ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Về cơ bản đến năm 1975 chế độ sở hữu ruộng đất của
giai cấp phong kiến đã bị xóa bỏ, ruộng đất về tay nông dân lao động, trong nông
nghiệp đã bước đầu có sự phát triển chủ nghĩa tư bản; nông dân bị phân hóa thành
các từng lớp khác nhau, tuy rằng Trung nông vẫn còn là nhân vật trung tâm ở
ĐBSCL.
Từ năm 1975-1992, bên cạnh những thành tựu nhất định, thì những sai lầm,
nóng vội trong điều chỉnh ruộng đất theo tinh thần “bình quân, cào bằng”, “tập thể
hóa nông nghiệp” đã gây ra những xáo trộn lớn cho chế độ ruộng đất và sự phát
triển kinh tế - xã hội ở ĐBSCL.

Chương 2
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐBSCL GIAI ĐOẠN 1992-2002

2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ĐBSCL giai đoạn 1992- 2002
Từ năm 1992, cả nước thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc các khóa
VII, VIII, IX và đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới về tư duy
kinh tế. Tận dụng những thế mạnh của vùng đất rộng lớn giàu tiềm năng, nhân dân
ĐBSCL đã tạo ra được một khối lượng sản phẩm to lớn về sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp và nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Sản xuất lương thực, năng suất,
sản lượng không ngừng tăng lên, tính chung cả giai đoạn ước đạt trên 16 triệu tấn,
bình quân một năm tăng thêm trên 1 triệu tấn. Nhiều tỉnh như An Giang, Hậu
Giang, Đồng Tháp đạt trên 1 triệu tấn/năm. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hộ,
kinh tế trang trại, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,... hợp
với quy luật và quy định của pháp luật đã tạo ra diện mạo mới trong nông thôn
ĐBSCL. Sự ra đời các khu công nghiệp, các điểm công nghiệp đã gắn công nghiệp
trực tiếp phục vụ nông nghiệp.
2.2. Luật đất đai 1993 và những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL
2.2.1. Luật đất đai 1993 và chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước
Luật đất đai năm 1993, các luật sửa đổi và chính sách kinh tế - xã hội ra đời
có sự kế thừa phát triển chính sách đất đai của cuộc Cách mạng ruộng đất mà Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo từ khi Đảng ra đời đến nay; đồng thời cụ thể hóa nội
dung chiến lược của Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991. Nội dung quan trọng được luật quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, hộ gia đình và cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài; Nhà nước giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất
để sản xuất”.


12


2.2.2. Tình hình triển khai thực hiện chính sách ruộng đất ở ĐBSCL giai
đoạn 1992-2002
Sau khi Luật đất đai năm 1993 ra đời, các tỉnh ĐBSCL đã sớm triển khai các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý sử dụng đất đai, tạo lập cơ sở pháp lý quan
trọng trong việc tổ chức, thực hiện các nội dung quản lý, sử dụng ruộng đất. Các
tỉnh đã tập trung lập bản đồ địa chính, lập quy hoạch sử dụng ruộng đất, thực hiện
kiểm kê đất đai nhằm từng bước quản lý đất đai chặt chẽ từ thực địa đến sổ sách.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp ngăn chặn tình trạng chuyển nhượng QSDĐ
không đúng quy định của pháp luật; xây dựng Quy chế tiếp công dân và giải quyết
đơn khiếu kiện, tố cáo của tổ chức, công dân trên địa bàn; Tăng cường giải quyết
tranh chấp đất đai, nhất là tranh chấp đất đai ở vùng có đồng bào Khmer sinh sống.
2.2.3. Thay đổi trong quản lý nhà nước về đất đai ở ĐBSCL
Triển khai Luật đất đai năm 1993, các tỉnh, thành ĐBSCL đã phân loại đất đai
theo diện tích được đưa vào sử dụng, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên
dùng và đất chưa sử dụng. Quản lý tài chính về đất đai chủ yếu sử dụng công cụ
hành chính mà chưa sử dụng công cụ điều tiết kinh tế cho phù hợp với quy luật
kinh tế thị trường, hệ thống thuế chưa điều tiết được người có thu nhập cao từ kinh
doanh bất động sản đã gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước và địa phương.
Hầu hết các tỉnh ĐBSCL đến năm 1995 đã hoàn thành quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đai đến năm 2010, tầm nhìn 2015-2020 và đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt. Song, việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do làm gấp, để đảm
bảo tiến độ và chưa có kinh nghiệm nên ngay sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất phần lớn các tỉnh ĐBSCL từ năm 1996 đã đề nghị Chính phủ duyệt điều chỉnh,
gây khó khăn cho công tác quản lý chung.
Công tác giao đất, cho thuê đất ở ĐBSCL đã đáp ứng yêu cầu sử dụng đất
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, song cũng như tình hình chung trên cả nước,
thủ tục còn rườm rà, thiếu kiểm tra xem xét khi có quyết định giao đất, cho thuê
đất đối với dự án đầu tư. Tình trạng giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền,
sử dụng đất sai mục đích được giao, xảy ra khá phổ biến, nhất là ở thành phố Cần

Thơ, tỉnh An Giang, Kiên Giang nơi có nhiều dự án đầu tư.
Hầu hết các tỉnh ĐBSCL công tác thu hồi đất được triển khai mạnh, phục vụ
cho nhu cầu xây dựng các dự án, công trình kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
quá trình thực hiện còn nhiều bất cập: giá bồi thường chưa hợp lý, quỹ nhà ở phục
vụ cho công tác tái định cư chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân.
Đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ, quản lý các hợp đồng thuê đất, thống kê,
kiểm kê đất đai triển khai còn chậm, nhất là cấp GCNQSDĐ do tình hình tranh
chấp ruộng đất diễn ra khá phức tạp, nhất là các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cà
Mau, Tiền Giang.
2.3. Tranh chấp, khiếu kiện về quản lý và sử dụng đất đai ở ĐBSCL giai
đoạn 1992 - 2002
2.3.1. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện
Các dạng tranh chấp đất đai trong giai đoạn 1992 - 2002 ở ĐBSCL rất đa
dạng, phức tạp, đan xen lẫn nhau. Về cơ bản có thể được chia làm hai loại chủ yếu:


13

các tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp
đất đang tranh chấp; tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất
hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình.
Từ công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách pháp luật đất đai các
địa phương ĐBSCL đã phát hiện nhiều dạng vi phạm pháp luật đất đai, trong đó
các vi phạm phổ biến nhất là: giao đất trái thẩm quyền, bán đất thu tiền trái pháp
luật, chuyển nhượng và cho thuê đất trái phép, sử dụng đất không đúng mục đích,
chuyển mục đích sử dụng đất tùy tiện, lấn chiếm đất đai, để đất hoang hóa không
sử dụng trong thời gian dài, người sử dụng đất không thực hiện các nghĩa vụ tài
chính đối với Nhà nước,... Các sai phạm chưa được xử lý kiên quyết, hình thức
“phạt cho tồn tại” phổ biến ở ĐBSCL, không những không ngăn chặn vi phạm mà

còn làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh khi thực thi pháp luật về đất đai, gây mất
lòng tin trong nhân dân, dẫn đến khiếu kiện dài ngày và phức tạp.
Tình hình khiếu kiện đòi lại đất khi thực hiện chủ trương “nhường cơm, sẽ
áo” ở giai đoạn 1980 - 1990 vẫn còn nhiều. Tính đến thời kỳ triển khai Luật đất đai
2003, các tỉnh phía Nam còn hơn 3.000 vụ khiếu kiện về đất đai chưa được giải
quyết, trong đó có những trường hợp là người có công với cách mạng, đi hoạt động
vắng nhà nhưng nhà, đất đã bị giao cho người khác sử dụng, nay trở về không có
nhà ở hoặc không có đất sản xuất, tập trung chủ yếu ở ĐBSCL với trên 80% số vụ.
Ở ĐBSCL còn có tranh chấp mới phát sinh: tranh chấp ruộng đất giữa người đi xây
dựng vùng kinh tế mới, di cư tự do với người địa phương (chủ yếu ở Đồng Tháp
Mười); tranh chấp những vùng đất bãi bồi ven sông, ven biển có giá trị nuôi trồng
thủy sản (ở Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh), đường đi ngõ
xóm, ranh giới đất ở, đất vườn,...
2.3.2. Giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về quản lý và sử dụng đất đai ở
ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2002
Quá trình thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, với sự chỉ đạo sát sao của
Đảng, Nhà nước và của lãnh đạo các cấp, các ngành ở địa phương, cũng như sự
đồng thuận của bà con nông dân với nhau, ĐBSCL đã giải quyết được đa số các vụ
tranh chấp ruộng đất, chỉ còn trên 10% số vụ tranh chấp phức tạp.
Quá trình giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về ruộng đất trong những năm
1998 - 2002 có xuất hiện hành vi của một số đối tượng lợi dụng việc tranh chấp,
khiếu kiện của quần chúng nhân dân để trục lợi như: viết đơn thuê, lừa đảo, cò
mồi, làm tiền,... Việc giải quyết hành chính không thành phải khởi tố, bắt giam,
truy tố một số đối tượng,...
Thời gian từ 1997-2002 tranh chấp, khiếu kiện đất đai còn có liên quan đến
yếu tố nước ngoài. Tình trạng một số người tham gia khiếu kiện tìm cách tiếp cận,
quan hệ nhờ vả các tổ chức quốc tế, nước ngoài can thiệp với mong muốn sớm
được giải quyết những khiếu kiện của họ hoặc có những ý đồ xấu về chính trị.
Việc giải quyết tranh chấp ruộng đất ở ĐBSCL được điều chỉnh theo hướng
khắc phục tình trạng bình quân trước Luật đất đai năm 1993 về đất xen canh, xáo

canh, cào bằng, điều chỉnh không hợp lý; đã giao lại cho chủ cũ với tổng diện tích


14

26 vạn ha. Trường hợp chủ mới tiếp tục sử dụng thì được bồi hoàn “Hoa lợi ruộng
đất” cho chủ cũ. Việc thực hiện điều chỉnh chủ yếu bà con nông dân thương lượng,
thuyết phục, thỏa thuận với nhau để đôi bên cùng có lợi. Tăng cường công tác
thanh tra, xử lý vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai và giải quyết các khiếu
kiện, tố cáo, tranh chấp đất đai. Tập trung thanh tra theo quyết định 273/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về quản lý đất đai.
2.4. Tác động của chính sách ruộng đất đối với phát triển kinh tế - xã hội
ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2002
2.4.1. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Chính sách pháp luật đất đai là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ĐBSCL
phát triển nhanh. Trong nông nghiệp, nhờ chính sách thừa nhận hộ nông dân là một
đơn vị kinh tế tự chủ và nhờ chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài nên nông nghiệp có điều kiện để tăng vượt bậc về
năng suất và sản lượng. Năng suất đạt trên 45 tạ/ha, sản lượng toàn vùng đạt trên
16 triệu tấn lương thực. Giá trị sản xuất trên một diện tích đất nông nghiệp ở
ĐBSCL năm 2000, đạt trên 20 triệu đồng/ha, tăng 55% so với năm 1990. ĐBSCL
đã góp phần quan trọng bình ổn lương thực trong cả nước và góp phần xuất khẩu
gạo, nông sản hàng đầu trên thế giới. Nhiều tỉnh ĐBSCL đạt trên 1 triệu tấn năm
như An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, đời sống người nông dân được cải thiện
đáng kể.
Tuy nhiên, ĐBSCL còn một số tồn tại liên quan đến đất đai đó là: một bộ
phận nông dân thiếu đất sản xuất, tình hình di dân tự phát vẫn tiếp diễn, các địa
phương lúng túng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ thiếu đất sản xuất.
2.4.2. Hình thành quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất
Luật đất đai năm 1993 đã phần nào “cởi trói” cho nông dân ĐBSCL. Song

quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất diễn ra cùng lúc với sự phân hóa giàu - nghèo
trong nội bộ nông dân. Bộ phận nông dân có vốn liếng có sức lao động, biết tận
dụng các lợi thế do đầu tư nhà nước đem lại như thủy lợi, giao thông, khuyến
nông, khuyến ngư, giống mới, giá thu mua nông sản có lợi cho nông dân,... mạnh
dạn chuyển nhượng ruộng đất hoặc thực hiện khai phá thêm đất hoang, áp dụng
các biện pháp khoa học kỹ thuật nên đã đạt hiệu quả cao, thu lợi lớn và giàu lên ở
nông thôn ĐBSCL, mua thêm ruộng; những nông dân nghèo khó phải “cấm cố”
ruộng đất và một số đã mất đất hẳn vì không có khả năng trả nợ.
2.4.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân
tầng xã hội
Thực hiện ba chương trình kinh tế mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII đề ra, kinh tế ĐBSCL tăng trưởng, nhưng tăng chưa thật sự ổn định. Thu
nhập bình quân một người trên tháng ở ĐBSCL từ năm 1996 đến năm 1999 tăng
141,19%. Tăng trưởng kinh tế ở ĐBSCL gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các hoạt động công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp gia
tăng đáng kể thể hiện qua cơ cấu sản phẩm sản xuất khu vực I, II, III. Khu vực I
giảm, khu vực II tăng và tăng nhanh ở khu vực III. Tăng trưởng khu vực III điều


15

đó nói lên có sự chuyển dịch lớn lao động nông thôn ĐBSCL sang lao động công
nghiệp, dịch vụ và sự phân công lao động trong nông nghiệp.
Do nhiều nguyên nhân từ sự phát triển kinh tế-xã hội đã có sự phân tầng xã
hội mạnh mẽ ở ĐBSCL. Sự phân tầng xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống,
gia tăng sự đối kháng các lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của các tầng lớp dân cư.
Sự đối kháng các lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của các tầng lớp dân cư gia tăng
có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Tiểu kết chương 2
Giai đoạn 1992-2002, để góp phần phát triển kinh tế - xã hội việc giải quyết

vấn đề ruộng đất được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở ĐBSCL quan
tâm, là nguồn lực là yếu tố “động” nhất trong triển khai thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng, Nhà nước ở vùng đất này. Giải
quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL đã được xem xét cụ thể những yếu tố tác động về
vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, những vấn đề tồn tại do lịch sử; những nguyên
nhân về chính trị - xã hội mới phát sinh, nhất là vấn đề nông nghiệp, nông thôn,
nông dân và theo hướng gắn với pháp luật đất đai. Trong nông nghiệp việc tích tụ,
tập trung ruộng đất, bố trí cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát
triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ đã
tạo bước chuyển biến cho các liên kết sản xuất theo hình thức mới đó là hợp tác xã
dịch vụ, xí nghiệp, công ty trong sản xuất nông nghiệp theo hướng làm ăn lớn
XHCN, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ giới hóa, nâng cao năng
suất, hiệu quả sản phẩm hàng hóa đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Giai đoạn từ năm 1992-2002, có nhiều tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng
đất ở các tỉnh ĐBSCL. Điều đó cho thấy chính sách và pháp luật đất đai đúng đắn
còn phải có một cơ chế quản lý phù hợp, tình hình tranh chấp ruộng đất giai đoạn
này không chỉ nói lên còn có những bất cập trong cơ chế quản lý ruộng đất, cơ chế
quản lý nông nghiệp mà còn là những bất cập trong thực hiện các chính sách xã hội
và mối quan hệ công dân liên quan đến ruộng đất.
Chương 3
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐBSCL GIAI ĐOẠN 2003-2008

3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ĐBSCL giai đoạn 2003-2008
Đây là Giai đoạn ĐBSCL cùng cả nước thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, X, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Với sự quan
tâm của Đảng, Chính phủ về đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy
sản; xây dựng vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL; có sự đầu tư của Nhà nước và các
nguồn đầu tư khác để phát triển cơ sở hạ tầng ĐBSCL góp phần phát triển toàn
diện về kinh tế - xã hội. Tình hình đời sống của các hộ nông dân ĐBSCL không

ngừng được cải thiện, yên tâm đầu tư cho sản xuất và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội. Giá trị sản xuất hàng hóa nông nghiệp ở ĐBSCL đã góp phần quan trọng thu
ngoại tệ, GDP cho quốc gia.
3.2. Luật đất đai 2003 và những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn
2003-2008


16

3.2.1. Luật đất đai năm 2003 và Chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà
nước giai đoạn 2003-2008
Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai sửa đổi 1998, 2001 đã góp phần quan
trọng giải phóng LLSX, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội. Bên cạnh thành quả đạt được, Luật đất đai năm 1993, các luật đất đai sửa đổi
bổ sung và các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, chính sách xã hội có liên
quan đến đất đai đã bộc lộ hạn chế, phát sinh nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
Từ thực tiễn tình hình tổng kết thực hiện Luật đất đai năm 1993, ngày 06-11-2003
tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật đất đai năm 2003 với nhiều
nội dung đổi mới theo hướng hoàn thiện chính sách đất đai. Luật đất đai năm 2003
tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Nhà nước, không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân hay bất kỳ một hình thức
sở hữu nào khác. Nhà nước xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đất đai thống nhất
từ Trung ương đến địa phương, có sự phân cấp và tăng cường tính chủ động cho
địa phương, đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý đất đai. Nhà nước không
thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người
khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những người có công với đất
nước mà có khó khăn thực sự về nhà ở sẽ được giải quyết theo chính sách chung
của Nhà nước về người có công. Tạo điều kiện đối với những người trực tiếp sản

xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; ưu đãi đầu tư, đào tạo nghề,
phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn phù hợp với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sử dụng đất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đổi mới toàn diện về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Luật đất đai 2003 triển khai thực hiện sớm có những bất cập so với các luật
khác và các chính sách kinh tế xã hội nên năm 2009, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết Luật số 34/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật nhà ở và điều 121
của Luật đất đai.
3.2.2. Những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008
Từ năm 2003 đến 2008, ở ĐBSCL có sự biến động lớn về cơ cấu diện tích
ruộng đất, tổng diện tích các loại đất toàn vùng về cơ bản không thay đổi, nhưng
có sự biến động cục bộ do phân loại mới (gồm 3 nhóm: nhóm đất nông nghiệp;
nhóm đất phi nông nghiệp; nhóm đất chưa sử dụng), do phương pháp thống kê
mới, điều tra chính xác hơn, do bổ sung diện tích đất khai hoang phục hóa,...
Các tỉnh có diện tích đất nông nghiệp cao: Long An, Kiên Giang, Cà Mau, An
Giang. Các tỉnh có diện tích đất trồng cây hàng năm cao: Kiên Giang, An Giang,
Long An, Đồng Tháp, Sóc Trăng. Các tỉnh có diện tích đất trồng lúa cao: Kiên
Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng. Các tỉnh có diện tích đất trồng
cây lâu năm cao: Bến Tre, Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Các tỉnh có diện tích
đất lâm nghiệp cao: Cà Mau, Kiên Giang, Long An. Các tỉnh có diện tích đất nuôi
trồng thủy sản cao: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bến Tre.


17

Vấn đề lớn trong giải quyết vấn đề ruộng đất thời kỳ 2003 - 2008 là sự chu
chuyển các loại đất sang đất phi nông nghiệp phù hợp với quá trình đô thị hóa, phát
triển các dự án phục vụ kinh tế - xã hội. Đất phi nông nghiệp chủ yếu là đất ở kế
đến là đất chuyên dùng; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất

sông suối và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác. Phần lớn đất
chuyển sang đất phi nông nghiệp là đất chưa sử dụng, một phần đất trồng lúa kém
hiệu quả, đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Để tăng cường công tác quản lý, sử dụng đất và xuất phát từ nhu cầu chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ công tác
cấp giấy CNQSDĐ được UBND các tỉnh, thành ĐBSCL chỉ đạo sát sao. Nhìn
chung đến năm 2008, phần lớn các tỉnh, thành ĐBSCL đã hoàn thành cơ bản lập
hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ. Kết quả công tác cấp giấy chứng nhận đã thực sự đóng
góp một phần quan trọng cho việc ổn định, phát triển và giữ gìn an ninh trật tự xã
hội của các tỉnh, thành ĐBSCL.
Để phục vụ cho công tác quản lý, cùng với kiểm kê, tình hình quản lý, sử
dụng đất nói chung, các tỉnh, thành ĐBSCL đồng thời tiến hành kiểm kê công tác
giao đất, cho thuê đất, của các tổ chức được Nhà nước giao, cho thuê đất.
Công tác quản lý tài chính về ruộng đất được các tỉnh, thành ĐBSCL quan
tâm lãnh đạo thực hiện triệt để, vì đây vừa là yêu cầu khách quan và cũng là công
cụ quản lý quan trọng trong điều hành Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong thời kỳ này diện tích đất công cộng tăng đáng kể do mở rộng
một số tuyến đường, mở rộng giao thông nông thôn, phát triển hệ thống thủy lợi
phục vụ sản xuất,... ĐBSCL đã có những bước phát triển khá nhanh về cơ sở hạ
tầng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội..
Song để khai thác có hiệu quả đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội
thì diện tích đất chưa sử dụng, đất mặt nước, bãi bồi ven biển thuộc các tỉnh Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Tiền Giang còn rất lớn.
3.3. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp ruộng đất giai đoạn 2003-2008
3.3.1. Tình hình tranh chấp ruộng đất
Trong những năm 2003 - 2008, tình hình tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về
lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh, thành ĐBSCL tuy không tăng nhưng diễn
biến phức tạp, mặc dù đã được các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể nỗ lực tập
trung nhiều giải pháp để vừa giải quyết các vụ việc đang tồn đọng, vừa kiềm chế
phát sinh mới. Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn, thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gia

tăng các vụ tranh chấp khiếu kiện, tố cáo phức tạp trên địa bàn, khi công tác xây
dựng cơ sở hạ tầng được đẩy mạnh, các dự án có sử dụng diện tích đất lớn tiếp tục
được đầu tư.
Nguyên nhân và nội dung dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo
giai đoạn 2003 đến 2008 diễn biến phức tạp được các cấp chính quyền ĐBSCL xác
định: Do nhận thức của nhân dân về chính sách pháp luật đất đai chưa thấu đáo,
nhiều nội dung pháp luật đất đai sau khi triển khai thực hiện phát sinh những điểm
chưa phù hợp, còn bất cập với các luật khác; các chính sách kinh tế - xã hội mới
ban hành và có những nguyên nhân mới phát sinh như việc lợi dụng chức vụ,


18

quyền hạn để tham nhũng, trục lợi trong thu hồi đất, lợi dụng chính sách thu hồi
đất để bao chiếm; tố cáo chính quyền địa phương giao đất trái thẩm quyền, bồi
thường không đủ diện tích đất, xét duyệt để bồi thường không đúng loại đất; tố cáo
chính quyền địa phương quản lý sử dụng đất công ích sai mục đích; tố cáo cán bộ
nhũng nhiễu, bao che, bồi thường đất không đúng đối tượng,... cơ chế mới về quản
lý tài nguyên đất, về quản lý nông nghiệp được hình thành chưa đồng bộ,...
Trong các vụ tranh chấp, khiếu kiện phát sinh mới đứng đầu là đơn khiếu
kiện có sự liên kết xã, huyện tổ chức theo từng đoàn, nhóm người mang theo cờ,
băng rôn kéo đến trụ sở cơ quan Đảng, Nhà nước và có những hành vi vượt quá
quyền khiếu kiện, tố cáo như: khiếu kiện dài ngày, đeo bám, nằm lỳ, gây mất trật
tự công cộng, cản trở giao thông, chống người thi hành công vụ, lập ra các tổ chức,
hội nhóm trái phép, rào đường, tổ chức canh gác cản trở các đoàn công tác, bất hợp
tác kiểm tra,... Điển hình ở Cà Mau là vụ tranh chấp lấn chiếm bãi bồi ở huyện
Ngọc Hiển, vụ lấn chiếm đất nông trường 402 huyện Trần Văn Thời, vụ cản trở
giao thông đòi đền bù giải phóng mặt bằng ở huyện Cái Nước. Ở Sóc Trăng vụ các
sư sãi đòi lại đất hiến của các đền, chùa sau giải phóng. Ở Kiên Giang, Trà Vinh
tranh chấp, khiếu kiện về đất khai hoang lấn biển được quy hoạch xây dựng các dự

án nhưng đến bù không thỏa đáng. Ở An Giang, tranh chấp, khiếu kiện tập trung
chủ yếu các huyện biên giới, vùng có nhiều đồng bào Khmer sinh sống như Thoại
Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn,....
Thời kỳ 2003-2008, tình hình tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất đã
xuất hiện những nội dung liên quan đến chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” được Đảng ta đề ra trong thời kỳ thực hiện
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và nay khi thực hiện chủ trương tích tụ ruộng
đất, phát triển kinh tế trang trại với nhiều người tham gia ở Long An, Tiền Giang,
Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhiều hộ nông dân do nhiều hoàn cảnh khác nhau
thiếu ruộng đất để sản xuất hoặc không có ruộng đất để sản xuất, đời sống gia đình
khó khăn chưa được giải quyết chuyển sang những ngành nghề phù hợp.
3.3.2. Giải quyết tranh chấp ở các địa phương
Những năm đầu triển khai Luật đất đai năm 2003, công tác giải quyết tranh
chấp, khiếu kiện, tố cáo về đất đai ở ĐBSCL đã có những chuyển biến rất tích cực,
số vụ tồn đọng hàng năm đã giảm đi nhiều so với trước, song các vụ mới lại xuất
hiện, có vụ diễn biến phức tạp, quá trình giải quyết phải xác minh nhiều lần nên
gặp phải khó khăn, đây cũng là áp lực lớn đối với thực hiện chính sách ruộng đất,
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Ở tỉnh Cà Mau, tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo tập trung ở việc thực hiện các
dự án phát triển kinh tế vùng bán đảo Cà Mau; ở Bạc Liêu tranh chấp, khiếu kiện,
tố cáo tập trung ở nội bộ nhân dân về phân chia thừa kế, tính đến tháng 10 năm
2004 Bạc Liêu đã giải quyết được trên 60% số vụ, tạm ổn 23% và còn tồn đọng
trên 10% số vụ còn phức tạp; ở Sóc Trăng số vụ tranh chấp, khiếu, kiện tố cáo
không nhiều nhưng chủ yếu về đất đai, tính đến tháng 10 năm 2004 Sóc Trăng có
7/8 vụ, nhưng các vụ tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo có nhiều người tham gia nhất ở
ĐBSCL. Các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang việc giải quyết


19


tranh chấp được các cấp chính quyền tích cực giải quyết nhưng còn nhiều vụ tồn
đọng nhất là Vĩnh Long và Tiền Giang.
3.4. Tác động của chính sách ruộng đất đối với phát triển kinh tế - xã hội
ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008
3.4.1. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế
ĐBSCL cung cấp khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản, 70%
sản lượng trái cây của cả nước hàng năm. Với những lợi thế trên, ĐBSCL là vùng
có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp
chế biến nông sản, chế biến thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Công thương tại hội nghị ngành Công thương các
tỉnh ĐBSCL năm 2009 được tổ chức tại Tiền Giang vào cuối tháng 10/2009, thì
tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL còn chậm, nông nghiệp chiếm trên
40% cơ cấu GDP, trong khi bình quân cả nước chỉ có trên 20%,...
3.4.2. Tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008
Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước giai đoạn
2003-2008 đã có tác động toàn diện đến kinh - xã hội ĐBSCL. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế của vùng giai đoạn 2001- 2005 là 10,5%, giai đoạn 2006 - 2010 là 12%,
trung bình giai đoạn 2001 - 2010 vào khoảng 11% (Trung bình của cả nước giai
đoạn 2001 - 2010 là 7,3%,). Chính sách ruộng đất thời kỳ 2003-2008 đã có tác
động mạnh kinh tế vùng, kinh tế trang trại, kinh tế hộ; đồng thời góp phần điều
chỉnh mô hình kinh tế nông trường.
Vùng ĐBSCL có thể chia ra thành 3 vùng, (1) vùng ven biển; (2) vùng đệm
giữa thành phố Hồ Chí Minh và ĐBSCL và (3) thành phố Cần Thơ và các tỉnh liền
kề1, thì thấy rằng vùng thứ 3 tăng trưởng nhanh hơn từ năm 2007, khi thành phố
Cần Thơ được tách ra thành đô thị trực thuộc Trung ương và được đầu tư thêm về
cơ sở hạ tầng. Ngược lại, vùng 1 gồm các tỉnh ven biển tăng trưởng khá cao từ năm
1996 - 2003 thì sau đó tăng trưởng chậm hơn, còn các tỉnh vùng 2 thuộc khu vực
tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và vùng ĐBSCL luôn có tốc độ tăng trưởng
chậm thời gian qua.
Các khu công nghiệp bắt đầu hình thành phát triển ở vùng ĐBSCL khoảng từ

năm 2000, do ở đây đất nông nghiệp giá rẻ chi phí bồi hoàn thấp, nhà cửa cất tạm
bợ chi phí di dời không cao nên việc xây dựng các khu công nghiệp có nhiều thuận
lợi. Theo ngành công thương các địa phương ĐBSCL tính đến năm 2008 có 65
Khu công nghiệp được quy hoạch với diện tích 26.511ha.
Hợp tác xã nông nghiệp, ở thời kỳ này khác về bản chất so với hình thức
HTX đã được vận động xây dựng trong những năm tám mươi của thế kỷ XX, là
một tổ chức kinh tế do nông dân tự nguyện lập ra với nguồn vốn hoạt động do
chính họ góp cổ phần và huy động từ các nguồn khác, nhằm duy trì, phát triển kinh
tế hộ gia đình và tăng nhanh tỷ suất hàng hoá, đạt hiệu quả kinh tế cao. Phân bố
rộng rãi ở các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đó là: HTX trồng Nấm rơm, HTX trồng
1

. Vùng 1 ven biển gồm các tỉnh Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng và Bạc Liêu; Vùng 2 – vùng đệm giữa thành phố Hồ chí
Minh và ĐBSCL gồm Long An, Tiền Giang và Bến Tre; Vùng 3 gồm thành phố Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, và Hậu
Giang.


20

Chanh dây, HTX bưởi Năm roi Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, HTX
rau an toàn Phước Hậu, Long Hồ, các tổ đoàn kết sản xuất nấm rơm ở Vũng Liêm
(Vĩnh Long); HTX xoài cát Hoà Lộc, Tiền Giang; Đồng Tháp; các làng nghề trồng
và chế biến cây lác ở Vũng Liêm; các tổ sản xuất lúa giống ở Trà Vinh,...
Kinh tế trang trại, ở ĐBSCL hình thành sớm và ngày càng phát triển mạnh
cả về quy mô và số lượng. Năm 1999 cả khu vực ĐBSCL có 19.259 trang trại
chiếm 42,4% tổng trang trại cả nước, cao hơn đồng bằng sông Hồng 39,3%. Năm
2006, ĐBSCL có 54.442 trang trại. Năm 2008 cả nước có gần 72.000 trang trại,
ĐBSCL chiếm hơn một nửa tổng số trang trại cả nước, mỗi tỉnh,thành phố ở
ĐBSCL có hàng nghìn trang trại. Hầu hết những trang trại vùng ĐBSCL được
thành lập từ vốn tự có, vốn vay chỉ chiếm khoảng 18%. Trang trại ở ĐBSCL theo

mô hình “VAC” hoặc “VAC” cải tiến, quy mô nhỏ, phát triển tự phát, sử dụng lao
động không nhiều, chủ yếu lao động gia đình, chưa hoàn toàn gắn sản xuất với chế
biến và tiêu thụ sản phẩm.
Kinh tế nông hộ, với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản
xuất theo cơ chế thị trường, các hộ nông dân ở ĐBSCL đã và đang tích cực đẩy
mạnh phát triển sản xuất một cách năng động, đa dạng phù hợp với năng lực và
điều kiện cụ thể của từng hộ, tạo ra một thị trường hàng hóa phong phú và dồi dào.
Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL còn gắn với việc tổ chức lại
sản xuất của các nông trường. Hiện nay ở ĐBSCL có 17 nông trường, các nông
trường chủ yếu do các đơn vị quân đội quản lý sản xuất kém hiệu quả đã được sắp
xép lại và tiếp tục được sắp xếp lại.
Tiểu kết chương 3
Từ năm 2003-2008, ở ĐBSCL có sự biến động lớn về diện tích đất do việc
phân loại đất thành 3 nhóm theo Luật đất đai năm 2003. Cùng với quy hoạch sử
dụng đất các tỉnh ĐBSCL tập trung giao đất, lập hồ sơ quản lý sử dụng đất, cấp
GCNQSDĐ và giải quyết đơn thư khiếu kiện, tố cáo.
Giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL thời kỳ từ năm 2003-2008 tuy còn có
chịu tác động của các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, những tồn tại
do lịch sử để lại,...Song đã có những yếu tố mới liên quan đến “vấn đề ruộng đất”,
đó là yêu cầu cấp thiết của phát triển nông nghiệp hàng hóa, vấn đề xây dựng nông
thôn mới,...
Hoạt động của các HTX theo mô hình liên kết sản xuất mới, chủ thể có liên
quan trực tiếp đến QSDRĐ đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều HTX nông
nghiệp đã đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng,
xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, góp sức xây dựng kết cấu hạ tầng,
củng cố quan hệ kinh tế nông thôn.
Việc phân loại đất đai thành 3 nhóm lớn có thuận lợi cho quản lý và nắm
được tình hình sử dụng đất đai, nhưng lại sớm bộc lộ những kẽ hở cho nạn tham
nhũng trong quản lý sử dụng đất đai, trục lợi thông qua chuyển đổi mục đích sử
dụng, nhất là khi quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, một phần diện tích đất

nông nghiệp, đất chưa sử dụng chuyển sang đất phi nông nghiệp. Đó là nguyên
nhân tiềm ẩn của việc phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất.


21

Vấn đề có tính đột phá, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong kinh tế nông
nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL thời kỳ 2003-2008 là quá trình tích tụ và tập trung
ruộng đất khắc phục sự sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chuyển sang sản xuất tập trung
quy mô lớn, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ giới hóa, nâng cao
năng suất, hiệu quả và tạo nên sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, khối lượng lớn
đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
KẾT LUẬN
Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất giai đoạn 1992 - 2008 ở ĐBSCL gắn
với thời kỳ cả nước thực hiện đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đưa nước ta từ một nước nông nghiệp sản xuất lương thực yếu kém trở thành một
nước sản xuất lương thực, xuất khẩu lương thực đứng hàng đầu thế giới và khu vực
Đông Nam Á. Để góp phần thu được những kết quả to lớn đó, các địa phương
ĐBSCL đã giải quyết tốt vấn đề ruộng đất, nguồn tư liệu sản xuất quan trọng nhất
của quá trình sản xuất. Điểm nổi bật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở
ĐBSCL thể hiện ở những điểm chính sau:
1. Đặc điểm nổi bật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL
giai đoạn 1992 - 2008
Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL là quá trình vận dụng sáng
tạo chính sách ruộng đất, luật đất đai vào điều kiện cụ thể của ĐBSCL. Đây là thời
kỳ ĐBSCL cùng cả nước thực hiện Luật đất đai 1993, 2003 và các luật đất đai sửa
đổi. Tác dụng của chính sách ruộng đất là rất to lớn, đã góp phần từng bước hoàn
thiện cơ chế quản lý đất đai, quản lý nông nghiệp và triển khai Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, đưa đất nước ta nói
chung và ĐBSCL thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng về lương thực, đưa ĐBSCL

trở thành vùng trọng điểm sản xuất lương thực của cả nước, thực hiện thắng lợi 3
chương trình kinh tế lớn của Đảng.
Giai đoan 1992 - 2008, là thời kỳ tranh chấp và khiếu kiện đất đai nhiều và
diễn biến phức tạp. Trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất giai đoạn 1992 2008 cũng đã phát sinh nhiều vi phạm trong quản lý sử dụng ruộng đất và tình
trạng các hộ dân tranh chấp ruộng đất do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
các khiếu kiện tăng, giảm phụ thuộc vào thời gian triển khai Luật đất đai năm
1993, 2003. Có thể nói đây là thời kỳ tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo liên quan đến
đất đai phục vụ cho sản xuất diễn biến phức tạp trong lịch sử dân tộc cho đến nay
và diễn ra tập trung ở ĐBSCL; 100% tỉnh thành ở ĐBSCL có tranh chấp, khiếu
kiện về đất đai.
Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2008, là
quá trình chủ động đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Từ
năm 1978 - 1982 thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa và hợp tác hóa
trong nông nghiệp, nông nghiệp ĐBSCL có những bước phát triển nhất định. Tuy
nhiên, mô hình hợp tác trong nông nghiệp những năm đầu sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng không phù hợp với tình hình ruộng đất ở ĐBSCL dẫn đến sự
tan rã trong những năm 1982 - 1986. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng từ
năm 1986 - 1991, nông nghiệp ĐBSCL có bước phát triển mới với mô hình tổ


×