Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NHỮNG BIỂU HIỆN đặc THÙ của tâm lý NGƯỜI NÔNG dân ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.83 KB, 75 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nớc một cách toàn diện, Đảng và Nhà
nớc ta đã nhất quán thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, có sự
quản lý của Nhà nớc. Trong điều kiện một đất nớc nông nghiệp, 80% dân số
là nông dân, muốn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc trong những năm trớc mắt phải
hớng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chính vì thế Đại hội VIII của
Đảng khẳng định: Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn [26; tr 24].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong cả nớc
nói chung và ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là một việc làm hết sức
khó khăn, phức tạp, một mặt do điều kiện kinh tế - xã hội, mặt khác do tâm
lý sản xuất nhỏ của ngời nông dân quy định.
Việc khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ, tác phong, nếp sống, nếp nghĩ lạc
hậu gắn liền với nền sản xuất nhỏ là rất cần thiết và là việc làm cực kỳ khó
khăn, gian khổ. Nhng chính việc ấy lại đa lại hiệu quả to lớn cho việc xây
dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Những thói quen, nếp nghĩ,
truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến
bộ, nên cần cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, lâu dài [19; tr 25].
Vì vậy, việc tìm hiểu tâm lý của ngời nông dân đồng bằng sông Cửu
Long là nhiệm vụ cấp thiết, góp phần thực hiện thắng lợi đờng lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nớc nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu vấn
đề tâm lý sản xuất nhỏ. Nhng mới dừng lại ở từng khía cạnh tâm lý ngời

1



nông dân nông thôn miền Bắc, miền Trung. Việc tìm hiểu tâm lý ngời nông
dân đồng bằng sông Cửu Long thì cha có công trình nào đề cập tới, có
chăng chỉ là những bài viết mang tính khái quát ở một mặt nào đó của tâm
lý ngời nông dân vùng đất mới.
3. Giới hạn của luận văn
Luận văn nghiên cứu tâm lý ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long
với t cách là một bộ phận của ý thức xã hội, nhng chủ yếu tập trung nghiên
cứu, tìm ra những biểu hiện đặc thù của tâm lý, trên cơ sở khảo sát ở một số
tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (chủ yếu trên địa bàn tỉnh Kiên Giang).
4. Mục đích và nhiệm vụ.
- Xác định những đặc điểm của tâm lý ngời nông dân đồng bằng
sông Cửu Long qua khảo sát ở Kiên Giang và nêu một số giải pháp chủ yếu
để phát huy tính tích cực, khắc phục biểu hiện tâm lý tiêu cực của ngời
nông dân đồng bằng sông Cửu Long.
- Để thực hiện mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ dới
đây:
+ Phân tích những điều kiện hình thành tâm lý ngời nông dân đồng
bằng sông Cửu Long.
+ Tìm hiểu đặc điểm tâm lý ngời nông dân đồng bằng sông Cửu
Long và sự biến đổi của nó qua các thời kỳ lịch sử.
+ Nêu lên một số biện pháp nhằm phát huy những tâm lý tích cực và
hạn chế tâm lý tiêu cực của tâm lý ngời nông dân đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nớc về lĩnh vực t tởng, ý
thức xã hội.

2



+ Luận văn có tham khảo các công trình trong và ngoài nớc có liên
quan đến đề tài.
- Phơng pháp: Trong luận văn sử dụng tổng hợp các phơng pháp,
phân tích tổng hợp, lịch sử, logíc, phơng pháp điều tra xã hội học ở một số
địa phơng huyện, thị trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
6. Cái mới của luận văn
- Nêu lên sự biến đổi của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu
Long qua các thời kỳ lịch sử.
- Chỉ ra những mặt tích cực và những biểu hiện tiêu cực mang tính
đặc thù của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
- Nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của tâm lý nông dân đồng bằng sông Cửu Long.
7. ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu giảng
dạy những vấn đề ý thức xã hội nói chung và các vấn đề về tâm lý của ngời
nông dân nói riêng.
- Giúp cấp ủy địa phơng góp phần hoạch định chính sách đối với
nông dân trong vùng. Mặt khác cũng giúp Đảng, chính quyền Nhà nớc tìm
ra những phơng thức giáo dục nhằm hạn chế những biểu hiện tiêu cực đối
với một bộ phận cán bộ chủ chốt ở cơ sở có nguồn gốc xuất thân từ nông
dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 3 chơng, 9 tiết.

3


Chơng 1

Vấn đề tâm lý và những yếu tố tác động
đến việc hình thành tâm lý ngời nông dân
đồng bằng sông Cửu Long

1.1. Tâm lý nông dân

1.1.1. Tâm lý cộng đồng và đời sống tinh thần của xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, đời sống xã
hội đợc chia thành đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đó đời
sống tinh thần đợc nảy sinh trên cơ sở đời sống vật chất, và là sự phản ánh
đời sống vật chất. Mác viết: không phải ý thức của con ngời quyết định tồn
tại của nó, trái lại, chính tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ [16;
tr 78]. Trong ý thức xã hội, tâm lý xã hội và hệ t tởng là hai bộ phận chủ
yếu cấu thành nội dung của nó. Cả tâm lý xã hội và hệ t tởng đều do tồn tại
xã hội quyết định, đều là sự phản ánh tồn tại xã hội nhng sự phản ánh đó ở
những trình độ khác nhau. Tâm lý xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội ở
trình độ thấp, ở dạng ý thức thông thờng còn hệ t tởng là sự phản ánh trình
độ cao, ở dạng ý thức lý luận.
So với tâm lý xã hội, hệ t tởng ở trình độ cao hơn nhng không phải
nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội. Nó là kết quả phản ánh những điều kiện
sinh hoạt vật chất, những quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội
bằng khái quát lý luận trên cơ sở những t liệu đã có từ trớc. Nó chính là
những t tởng, quan điểm đã đợc hệ thống hóa thành lý luận, thành các học
thuyết khác nhau về chính trị xã hội, đại diện cho lợi ích của các giai cấp
nhất định.
Giữa hệ t tởng và tâm lý xã hội có sự khác nhau về sự hình thành, hệ
t tởng hình thành một cách tự giác, còn tâm lý xã hội là toàn bộ những tình

4



cảm, những tâm trạng, xúc cảm... của con ngời đợc hình thành tự phát dới
ảnh hởng trực tiếp của những điều kiện sinh sống hàng ngày.
Trong xã hội có giai cấp, tâm lý xã hội mang tính giai cấp, những
giai cấp khác nhau có sự khác nhau về tâm lý. Sự khác nhau đó xuất phát từ
sự khác biệt về lợi ích của họ. Chủ nghĩa Mác không phủ nhận tính chất
phổ biến của tâm lý xã hội, bởi vì, tính phổ biến ấy không những không xóa
bỏ tính giai cấp mà nhiều lúc còn tồn tại nh tầng sâu của tính giai cấp.
Tâm lý xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Do đó, khi tồn tại xã hội
thay đổi, tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của nó. Song, thực tế đã chứng
minh rằng tâm lý xã hội có sức bền vững, tính ỳ rất lớn. Nó có thể tồn tại
ngay khi cơ sở kinh tế - xã hội đã bị thay đổi. Để khắc phục những nét tâm
lý cũ, lạc hậu, Lênin đã chỉ rõ: nhiệm vụ cơ bản của các cán bộ làm công
tác giáo dục và của Đảng cộng sản - đội tiền phong trong cuộc đấu tranh là
phải giúp đỡ việc rèn luyện và giáo dục quần chúng lao động để khắc phục
những thói quen cũ, những tập quán cũ do chế độ cũ để lại" [9; tr 474].
Tâm lý cộng đồng là một bộ phận của đời sống tinh thần cộng đồng
và thuộc lĩnh vực ý thức xã hội. Với t cách là sự phản ánh tồn tại xã hội,
tâm lý con ngời trở thành yếu tố cơ bản và biểu thị cho sự tiến bộ xã hội.
Hơn nữa, bản chất con ngời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Thông qua
giao tiếp, thông qua tiếp thu các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng mà
mỗi cá nhân hình thành cho mình một hệ ý thức về quan hệ.
Thông qua giao tiếp, con ngời tiếp thu và sáng tạo ra các giá trị văn
hóa. Nghiên cứu sự giao tiếp giữa con ngời với con ngời trong cộng đồng,
chúng ta thấy có hai yếu tố tác động vào sự phát triển của văn hóa; tính
khép kín và tính mở rộng. Con ngời có thể giao tiếp trong phạm vi một cộng
đồng khép kín nào đó hoặc cũng có thể sự giao tiếp đợc mở rộng sang cộng
đồng khác. Hoạt động giao tiếp không chỉ nhằm tái sản xuất ra cá nhân con
ngời mà còn hình thành nên tâm lý và lối sống của họ.


5


Phơng thức giao tiếp, cách thức hoạt động trong cộng đồng bị chi
phối bởi những yếu tố vật chất tức là các điều kiện kinh tế - xã hội, địa lý,
khí hậu của từng vùng mà cộng đồng đó tồn tại [13; tr 20]. Vì vậy, phơng
thức giao tiếp, cũng nh cách thức hoạt động đã để lại những dấu ấn tâm lý
chung cho mỗi cộng đồng ngời. Từ đó cho chúng ta thấy, tâm lý cộng đồng
nh một tấm gơng phản ánh những điều kiện sống mà con ngời đang tồn tại
và phát triển. Việc nghiên cứu điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội
cũng cho ta thấy những yếu tố đặc trng trong tâm lý của mọi cộng đồng.
Nói một cách khác, tâm lý cộng đồng đợc hình thành trong lịch sử nh một
bộ phận của ý thức xã hội và tâm lý đó bị chi phối bởi cả những yếu tố bên
trong và bên ngoài cộng đồng.
Tâm lý cộng đồng của nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng
nh các vùng dân c khác đều vận động và phát triển theo một số quy luật chủ
yếu dới đây:
Thứ nhất, Tâm lý cộng đồng phát triển trong sự phụ thuộc và tác
động tích cực đến đời sống vật chất của xã hội.
Tâm lý cộng đồng đợc hình thành trong đời sống tinh thần của con
ngời và bị tác động của cả những yếu tố bên ngoài, song sự tác động về
kinh tế là tác động mạnh nhất và quyết định nhất. Con ngời là chủ thể sáng
tạo ra các giá trị văn hóa trong đó có tâm lý cộng đồng. Những con ngời
hiện thực đang hành động theo các quy luật kinh tế và chịu sự chi phối bởi
sự phát triển nhất định của một trình độ lực lợng sản xuất. Sự giao tiếp giữa
các cá nhân trong cộng đồng phải phù hợp với sự phát triển ấy, với quá trình
sản sinh ra các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần để thỏa mãn các nhu
cầu của mình. Sản xuất ra các giá trị tinh thần chỉ có thể đợc nhờ các phơng
tiện vật chất. Con ngời giao tiếp với nhau trớc hết để trao đổi các giá trị vật
chất và thông qua đó con ngời sáng tạo ra các giá trị tinh thần. Vì vậy, phơng thức sản xuất và đời sống vật chất quyết định quá trình sáng tạo ra các


6


giá trị văn hóa tinh thần. Tuy nhiên tâm lý cộng đồng với t cách là một hệ
thống mở và nhạy cảm không hoàn toàn phụ thuộc vào các phơng thức sản
xuất; nó có sự vận động và phát triển nội sinh, đồng thời cũng chịu ảnh hởng của yếu tố ngoại sinh. Mặt khác, đến lợt nó, tâm lý cộng đồng lại có
ảnh hởng lớn đến sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Thứ hai, Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã chứng minh và kiểm
nghiệm mối quan hệ phụ thuộc của tâm lý cộng đồng và đời sống tinh thần
của xã hội, thông qua việc khẳng định sự kế thừa có chọn lọc các giá trị
truyền thống.
Kế thừa những mặt tích cực và loại bỏ những mặt tiêu cực trong
các giá trị văn hóa truyền thống là nét đặc trng nhất trong quá trình hình
thành và phát triển tâm lý cộng đồng. Quá trình chuyển tiếp từ xã hội này
sang xã hội khác làm thay đổi lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất và cả hệ
thống chính trị, nhng những yếu tố tâm lý lại tỏ ra bền vững hơn vì nó có
sự kế thừa tâm lý cộng đồng và bao hàm cả việc phê phán các yếu tố tinh
thần đã lạc hậu, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế tồn tại của nó. Sự
giao lu giữa cá nhân trong cộng đồng ngời mang bản chất xã hội - lịch sử
đã tạo ra những nếp nghĩ, những tình cảm, thói quen. Chính những hiện tợng tâm lý đó khi ăn sâu vào tiềm thức con ngời, nó có thể biến thành một
sức mạnh vật chất. Vì vậy, những biểu hiện tâm lý bên cạnh sự di truyền
sinh học còn có di sản xã hội, tức là khả năng chuyển tâm lý cộng đồng
vào mỗi cá nhân. Di sản này bao giờ cũng phụ thuộc vào trình độ phát
triển của xã hội.
Thứ ba, Cùng với những quy luật trên, tâm lý cộng đồng phát triển
trong sự tác động qua lại giữa các cá nhân, các lĩnh vực của đời sống xã
hội và sự giao lu giữa các nền văn hóa [14; tr 14].
Sự phát triển của tâm lý cộng đồng bị ảnh hởng bởi sự tác động qua
lại lẫn nhau giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội [23; tr 11].


7


Sự giao lu giữa các vùng lãnh thổ, các miền, các nền văn hóa cũng
ảnh hởng rất lớn đến yếu tố tâm lý. Chẳng hạn, khi đợc tiếp xúc với một
nền văn hóa mới, khác lạ, con ngời có điều kiện so sánh và từ đó đánh giá
lại những giá trị văn hóa của mình để thấy đợc những khác biệt và tơng
đồng giữa văn hóa của mình và văn hóa thế giới, cũng nh văn hóa của vùng
này với văn hóa của vùng khác. Sự tơng tác giữa các lĩnh vực và những ảnh
hởng của bên ngoài không phải lúc nào cũng có thể làm thay đổi bản sắc
tâm lý cộng đồng, song nó có thể giúp con ngời có một tấm gơng để nhìn
kỹ lại mình, từ đó thấy rõ mình hơn.
Nh vậy, tâm lý cá nhân hay tâm lý cộng đồng cũng đều là sự phản
ánh hiện thực khách quan, đặc biệt là sự giao tiếp giữa con ngời với con ngời. Đồng thời nó chịu sự chi phối của hàng loạt các yếu tố bên ngoài mà trớc hết là đời sống lao động của mỗi ngời và cộng đồng.
1.1.2. Tâm lý nông dân
Tâm lý là sản phẩm của sự tác động qua lại bằng tín hiệu của hệ
thống hữu sinh. Khi nói đến bản chất của tâm lý, cần phân biệt khái niệm
triết học của nó với khái niệm khoa học cụ thể của nó. Khái niệm triết học
của tâm lý gắn với vấn đề cơ bản của triết học. Về mặt này khái niệm tâm
lý cùng loại với khái niệm nhận thức luận, ý thức, t duy, nhận thức,
lý tính, ý niệm, tinh thần [23; tr 518] và đợc chủ nghĩa duy vật biện
chứng coi nh là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao. Đó là sự
phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tâm lý xã hội phản
ánh tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm ba yếu tố cấu thành (phơng thức
sản xuất, hoàn cảnh địa lý, dân số) trong đó phơng thức sản xuất là yếu tố
cơ bản nhất. Do đó, ở một khía cạnh cụ thể, có thể nói tâm lý xã hội là sự
phản ánh trực tiếp những đặc điểm của nền sản xuất xã hội ở giai đoạn lịch
sử nhất định. Với những nớc mà ở đó, nền sản xuất nhỏ giữ vai trò chủ đạo


8


thì tất yếu sẽ hình thành tâm lý sản xuất nhỏ - một dạng tâm lý xã hội đ ợc
nảy sinh, hình thành từ sự phản ánh những đặc điểm của nền sản xuất nhỏ
đó.
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, là lịch sử phát
triển của các phơng thức sản xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã đề cập đến loại hình sản xuất nhỏ, đặc biệt khi các ông phân tích
sản xuất Châu á và xã hội tiền t bản. Trong các tác phẩm kinh điển, khái
niệm sản xuất nhỏ nhiều khi đợc thay thế bởi các khái niệm kinh tế tự
nhiên, "kinh tế gia trởng, "sản xuất hàng hóa giản đơn, kinh tế tiểu
nông, sản xuất hàng hóa nhỏ...
Theo Mác: Tiền đề của phơng thức sản xuất của những ngời sản
xuất nhỏ độc lập, làm việc cho bản thân, là ruộng đất thì chia manh mún,
các t liệu sản xuất thì phân tán [15; tr 287].
Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, khi bàn về các nền sản xuất có trớc chủ nghĩa t bản, Ăngghen viết: Trớc khi nền sản xuất t bản chủ nghĩa
xuất hiện, tức là trong thời trung cổ, ở đâu ngời ta cũng chỉ thấy toàn là
nền sản xuất nhỏ, dựa trên cơ sở quyền t hữu của những ngời lao động về t
liệu sản xuất của mình nh: nông nghiệp của ngời tiểu nông tự do hay nông
nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Các t liệu lao động - nh ruộng đất, nông cụ,
xởng thợ, dụng cụ của ngời thợ thủ công - đều là những t liệu lao động của
cá nhân, chỉ tính toán cho vừa với việc sử dụng cá nhân. Cho nên, những t
liệu ấy tất nhiên là vụn vặt, rất nhỏ bé và có hạn [18; tr 448, 449].
Từ ý kiến của Mác và Ăngghen nh đã nêu trên, chúng ta thấy cơ sở
của nền sản xuất nhỏ là quyền chiếm hữu những t liệu sản xuất nhỏ bé, vụn
vặt. Về điểm này, Mác đã nêu trong bộ T bản: Quyền t hữu của ngời lao động
đối với những t liệu dùng vào hoạt động sản xuất của mình là cơ sở của nền
kinh doanh nông nghiệp nhỏ hoặc thủ công nghiệp nhỏ" [15; tr 286].


9


Lênin cũng chú ý đến đặc trng của sản xuất nhỏ, Ngời viết: Quyền
t hữu của nông dân đối với ruộng đất mà anh ta cày cấy là cơ sở của sản
xuất nhỏ, là điều kiện cho nền sản xuất nhỏ ấy đợc phồn thịnh và đạt tới
một hình thái điển hình [11; tr 34].
Nh vậy theo quan niệm của Mác, Ăngghen và Lênin, tâm lý sản
xuất nhỏ bao gồm tâm lý nông dân. Hơn nữa, tâm lý xã hội là sự phản ánh
tồn tại xã hội mà tồn tại xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử cơ bản là nền sản
xuất của xã hội đó. Trong điều kiện của nền sản xuất đó, ngời nông dân
muốn tồn tại phải tiến hành sản xuất để tạo ra những sản phẩm cho nhu cầu
tiêu dùng của mình. Quá trình đó, đã nảy sinh những biểu hiện tâm lý tốt
đẹp, nhng mặt khác, từ nền sản xuất nhỏ cũng làm nảy sinh những mặt tâm
lý tiêu cực của ngời nông dân làm cản trở quá trình xây dựng xã hội mới.
Do vậy, xét về nguyên tắc, trong quá trình xây dựng xã hội mới, chúng ta
phải luôn luôn kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của cái đã qua,
đồng thời phải xóa bỏ và khắc phục những yếu tố tiêu cực đang cản trở sự
ra đời của xã hội mới.
Nh trên ta đã khẳng định sản xuất nhỏ đồng thời cũng là cơ sở để từ
đó hình thành tâm lý nông dân, tâm lý tiểu t sản. Tuy vậy, tâm lý sản xuất
nhỏ và tâm lý nông dân không hoàn toàn thống nhất, mà giữa chúng chỉ có
những điểm tơng đồng. Khi ta nói tâm lý nông dân, tâm lý tiểu t sản là ta
chủ yếu đi vào xét ở khía cạnh giai cấp, nhấn mạnh mặt giai cấp của vấn đề.
Chẳng hạn, khi ta nói tâm lý nông dân là nói tâm lý của một giai cấp gắn
liền với những điều kiện lao động sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Sản
xuất nông nghiệp ở nớc ta mang tính chất của một nền sản xuất nhỏ, những
tính chất sản xuất nhỏ ấy cũng thể hiện ở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Tâm lý sản xuất nhỏ đợc chú ý ở các biểu hiện đặc trng gắn với
những điều kiện lao động của nền sản xuất nhỏ nói chung.


10


ở nớc ta hiện nay, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ. Những biểu
hiện đó có thể thấy đợc rất rõ trong những thói quen, suy nghĩ, tình cảm,
hành động, trong lối sống của các cá nhân, trong mọi lĩnh vực hoạt động
của đời sống xã hội... Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn này chúng tôi
chỉ tập trung phân tích những biểu hiện đặc thù của tâm lý ngời nông dân
đồng bằng sông Cửu Long, qua việc khảo sát tại tỉnh Kiên Giang, một tỉnh
có thế mạnh nông nghiệp vào loại hàng đầu của khu vực.
1.2. Cơ sở hình thành tâm lý của ngời nông dân đồng
bằng sông Cửu Long

1.2.1. Tác động của những yếu tố địa lý, khí hậu
Chủ nghĩa Mác cho rằng cơ cấu tâm lý của một cộng đồng xã hội
phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế, là sự phản ánh kinh tế. Song không thể nhìn
đơn giản, máy móc, suy diễn tâm lý một cách phiến diện, bắt nguồn một
cách trực tiếp từ kinh tế. Tâm lý phản ánh kinh tế qua rất nhiều khâu trung
gian nh điều kiện địa lý, hệ thống chính trị, đạo đức xã hội, tôn giáo, văn
hóa.. [23; tr 26]. Tâm lý sản xuất nhỏ vừa là tàn d của quá khứ do xã hội cũ
để lại, vừa là sản phẩm hiện tại của tồn tại xã hội, vì vậy muốn hiểu rõ tâm
lý ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long trớc hết phải xem xét những
điều kiện cơ bản ảnh hởng của nó.
Điều kiện địa lý tự nhiên đồng bằng sông Cửu Long có những nét
đặc thù. Do lịch sử kiến tạo về cấu trúc, đồng bằng sông Cửu Long gồm ba
bộ phận chính, rìa phía đông là dãy phù sa giáp với miền cao đông Nam bộ,
ở giữa là một bộ phận phù sa mới nổi lên giữa sông Tiền và sông Hậu. Đất
đai ở đây nhiều màu mỡ, có thể trồng trọt quanh năm. Phía sau là miền đất
trũng Đồng Tháp Mời với độ chua mặn trung bình và nay đang trong quá

trình đợc cải tạo. Khí hậu đồng bằng sông Cửu Long mang tính chất cận
xích đạo và thể hiện rõ ảnh hởng của hệ thống hoàn lu Tây Nam từ ấn Độ
Dơng tới. Nhiệt độ trung bình hàng tháng ở khu vực đồng bằng sông Cửu

11


Long vừa cao vừa ổn định. Sự phân mùa không theo nhiệt độ mà theo biến
động của lợng ma. Mùa khô từ tháng 12 năm trớc đến tháng 4 năm sau,
mùa ma bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm. Tháng 9, tháng 10 là
tháng lũ lụt, nớc sông Cửu Long lên từ từ, khác hẳn thủy chế sông Hồng.
Nhng lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long xảy ra chủ yếu là do nớc phía trên
nguồn, vì khi bão đổ bộ vào khu Bốn cũ vợt qua Trờng Sơn gây ma lớn ở
Trung hạ Lào và đông Campuchia thì có thể có lũ đột xuất ập tới đồng bằng
sông Cửu Long ngay trong thời kỳ khô hạn.
Với một nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào nớc trời, chúng ta cần
biết đến sự phân bố ma theo thời gian và cả không gian, cùng với chế độ
thủy văn và ảnh hởng của thủy triều. Cơ cấu thủy văn ở đây hàng năm
không đồng đều do gió mùa Tây Nam từ ấn Độ Dơng đem ma tới miền ven
biển Rạch Giá và Cà Mau là nơi nhận đợc ma sớm nhất, ngay từ tháng t.
Phía Gò Công Tiền Giang lại là nơi nhận đợc ma chậm đến hơn một tháng
sau, cuối tháng t, có khi sang tháng sáu. Lợng ma hàng năm trung bình giao
động từ 1.300mm đến 2.000mm rải ra trên một địa hình đồng bằng bằng
phẳng, trên 2/3 diện tích cao cha đến 1 m so với mặt biển. Đó chính là
nguồn gốc của những dòng chảy bao gồm cả một mạng lới sông rạch thiên
nhiên chằng chịt bao quanh các tỉnh trong vùng, hình thành nên một hệ
thống thủy văn dày đặc, tỏa đều khắp lãnh thổ cùng với các nhánh sông
Đồng Nai.
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên khoảng hơn 4 triệu
ha trồng lúa nớc, có độ màu mỡ cao. Đất đai phì nhiêu, tài nguyên phong

phú, thiên nhiên u đãi, dành nhiều thuận lợi cho con ngời. Sông sâu, nớc
quanh năm mấp mé bờ chảy đều đặn. Độ chênh lệch giữa mực nớc và mặt
đất không đáng kể. Đó là điều kiện lý tởng đối với nhà nông.
Với điều kiện nh trên, ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm
ruộng chủ yếu dựa vào thiên nhiên. Hàng năm vào tháng t đầu mùa ma, họ

12


tiến hành vỡ đất hàng loạt, sau một thời gian ma nhiều, hai con sông Tiền
và sông Hậu dâng lên từ từ, đa nớc vào đồng ruộng, đất đang đợc phơi ải,
gặp nớc trở lên thục, thích hợp với sự phát triển của cây lúa. Ngời nông dân
trong vùng chỉ cần gieo giống xuống và cứ thế không cần phải làm cỏ, bỏ
phân, sau một thời gian, đến tháng chín là đợc thu hoạch lúa ngắn ngày.
Còn loại lúa dài ngày gọi là lúa mùa, cũng chẳng phải tốn kém nhiều, chủ
yếu là theo dõi sâu bệnh, hoặc một khi thấy lúa tốt quá, phải hãm lại bằng
cách cắt bớt lá hay có thể dùng trâu bừa cho lúa dập xuống. Phần lớn ngời
nông dân trong vùng canh tác dựa vào sự u đãi của thiên nhiên. Sau khi
xuống giống, ngời nông dân chỉ ngồi trông trời, trông đất, trông mây cho
tới khi đợc thu hoạch. Cách thức sản xuất nh trên, đã dẫn đến tâm lý làm
chơi ăn thiệt. Phơng thức canh tác chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nghề
nông phát triển phần lớn nhờ lợng phù sa đã làm cho lúa xanh tốt và năng
suất cao. ở vùng này đất đai tốt nhng phân bổ không đều, có nơi mùa ma
trồng cây đợc, song đến mùa khô lại phải bỏ hoang, ngợc lại, cũng có nơi
giống này cấy thì đợc thu hoạch, giống loại khác cấy lại không đợc thu
hoạch v.v... Chính vì vậy giống trở thành vấn đề quan trọng đối với nông
nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài giống ra phân cũng có tác dụng
mạnh đến quá trình phát triển nông nghiệp ở nơi đây, song có điều ngời
nông dân trong vùng chỉ quen sử dụng phân hóa học; bởi vì nớc sông hàng
năm đã đem lại phù sa cho đồng ruộng thờng xuyên. Nếu bón nhiều phân

hữu cơ nh đồng bằng sông Hồng thì có vụ không đợc thu hoạch.
Bên cạnh những yếu tố kỹ thuật, nớc, phân, giống, khí hậu là yếu tố
cũng ảnh hởng đến nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng
sông Cửu Long là vùng cận xích đạo có nhiệt độ trung bình hàng năm
không chênh lệch bao nhiêu. Xét về mặt thuận lợi vùng này có nhiệt độ
thích hợp đối với canh tác lúa. Lịch sử đồng bằng sông Cửu Long ít thấy có
tình trạng gieo mạ hai ba lần trong một vụ. ở đây có đặc điểm khí hậu trái
ngợc với đồng bằng sông Hồng, ở đồng bằng sông Hồng nhiệt độ chênh

13


lệch các mùa khá cao, mùa đông là mùa rét nhất. ở đồng bằng sông Cửu
Long mùa đông lại là mùa khô và có nhiệt độ cao nhất so với các mùa trong
năm. Về mùa đông, đồng bằng sông Hồng tuy chịu ảnh hởng của cái rét gió
mùa đông bắc làm cho hoa màu kém phát triển, nhng vẫn sản xuất đợc.
Trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long lại chịu ảnh hởng cái hạn khô
của gió mùa đông bắc làm cho nhiều nơi không thể trồng cấy đợc. Đặc
điểm tự nhiên nh trên đã tác động đến tâm lý ngời nông dân đồng bằng
sông Cửu Long. Thời gian từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau, là thời gian
nông nhàn chỉ có ăn chơi, nhậu nhẹt và giao lu văn hóa.
1.2.2. Điều kiện kinh tế
Tâm lý nông dân là một bộ phận của ý thức xã hội. Vì lẽ đó, tâm lý
của ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long phản ánh chính đời sống và
điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Mặt khác, đời sống và điều kiện sinh
hoạt vật chất của ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long luôn biến đổi
cùng với sự biến đổi của cơ cấu xã hội, cho nên tâm lý ngời nông dân nơi
đây cũng dần dần biến đổi theo.
Nhìn một cách khái quát, nền kinh tế đồng bằng sông Cửu Long
phát triển qua những thời kỳ sau đây: nền kinh tế thời kỳ mới khai phá ngời

nông dân phát triển kỹ thuật lúa nớc cổ truyền dới chế độ phong kiến. Thời
kỳ thứ hai dới chế độ thực dân cũ, Pháp biến đồng bằng sông Cửu Long
thành vùng nông nghiệp độc canh, lạc hậu, thiết lập chế độ địa chủ để vơ
vét lúa gạo xuất khẩu kiếm lời. Thời kỳ thứ ba là thời kỳ Mỹ Ngụy. Thời kỳ
thứ t là nền kinh tế thị trờng hiện nay, cách phân kỳ kinh tế nêu trên chỉ
mang tính chất ớc lệ. Nhng mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế đã để lại
những dấu ấn khác nhau trong tâm lý ngời nông dân vùng này. Dới đây là
những đặc điểm kinh tế ảnh hởng đến tâm lý ngời nông dân đồng bằng sông
Cửu Long qua các thời kỳ.

14


Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII đồng bằng sông Cửu Long mới đợc khai phá. Những ngời nông dân đàng ngoài tiến vào khai hoang vùng đất
mới này, phần đông là những ngời nghèo khổ, bị thiếu thốn về vốn liếng,
công cụ, trâu, bò... cho nên đất đai mà họ khai thác lúc đầu chỉ mới đợc một
diện tích nhỏ bé. Điều nó đã đa tới sự hình thành nền kinh tế dựa trên chế
độ t hữu nhỏ là phổ biến. Phơng thức sản xuất nh thế đã không cho phép
ngời nông dân tập trung t liệu sản xuất và trong sản xuất cũng không cho
phép họ có sự hợp tác trên quy mô lớn, không có điều kiện cho con ngời
phát huy sức mạnh của mình chống lại sự thống trị của thiên nhiên. Ngời
nông dân chỉ quen làm ăn trên miếng đất nhỏ bé của mình với công cụ thô
sơ cầm tay, với kỹ thuật thủ công lạc hậu đã có từ ngàn xa để lại theo phơng
thức canh tác cổ truyền. Cơ sở ruộng đất ở thời kỳ này nh Mác nói: Là
phòng thí nghiệm tự nhiên của anh ta [14, tr. 101], họ sản xuất bằng sự nỗ
lực của cơ bắp là chủ yếu thì đơng nhiên kiến thức khoa học kém phát
triển. Trong điều kiện nh vậy, nhận thức của ngời nông dân đồng bằng
sông Cửu Long chủ yếu là chủ nghĩa kinh nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm
thể hiện ở chỗ, phơng pháp suy nghĩ dừng lại ở cái cụ thể, ở cái đơn nhất,
ở mức độ cảm tính, trực quan, t duy khái quát lý luận kém phát triển. Chủ

nghĩa kinh nghiệm khiến cho ngời nông dân có t tởng ỷ lại thiên nhiên,
thiếu sáng kiến, ngại đổi mới. Họ thờng lấy kinh nghiệm của cá nhân, của
ngời xa, của cha ông làm chân lý vĩnh cửu.
Đi vào vùng đất mới, thoạt đầu ngời nông dân trút bỏ đợc ách áp
bức, bóc lột của bọn phong kiến, địa chủ. Nhng những khó khăn mới đã
xuất hiện. Trớc mặt họ, một thiên nhiên đầy u đãi nhng cũng hết sức khắc
nghiệt. Những ngời đầu tiên đi khai sơn, lập địa phải đơng đầu với thú dữ,
cá sấu, muỗi mòng cùng những bệnh tật ác hiểm của vùng sình lầy, hoang
dại dới nắng trời nhiệt đới.

15


Để chiến thắng những trở lực trên bớc đờng chinh phục thiên nhiên,
con ngời không những cần có sức mạnh đôi tay mà còn cần ý chí và lòng
dũng cảm, sự chung lng đấu cật, tình đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng yêu
thơng gắn bó, đùm bọc lẫu nhau... Từ đó, ngời nông dân đồng bằng sông
Cửu Long sớm hình thành tinh thần đoàn kết, dân chủ và bình đẳng. Tinh
thần đó không những thể hiện trong cuộc sống mà cả trong lao động, sản
xuất và chiến đấu chống kẻ thù chung.
Tinh thần đó phát triển song song với sự hình thành và phát triển của
cấu trúc xã, ấp và kết cấu kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long .
Làng là nơi c trú của ngời Việt ở đồng bằng sông Hồng, là đơn vị xã
hội tơng đối khép kín, sau lũy tre xanh, có ngôi đình làng, cây đa, giếng nớc
với quan hệ họ hàng, làng xóm chặt chẽ dựa trên chế độ công điền, công
thổ của làng xã.
Đơn vị c trú tơng đơng với làng ở đồng bằng sông Hồng là ấp ở
đồng bằng sông Cửu Long. Trên vùng đất mới, dân tứ phơng di chuyển đến
tụ họp ven các sông, lạch, kênh chằng chịt của lu vực sông Cửu Long, tạo
nên những ấp, xã mới, không nằm giữa những lũy tre xanh bao bọc mà đợc

xây dựng theo bờ kênh rạch, đằng trớc ghe thuyền qua lại, xung quanh là vờn cây ăn trái, đằng sau là ruộng vờn.
Cùng với cấu trúc xã, ấp, chế độ sở hữu ruộng đất ở đồng bằng sông
Cửu Long thời kỳ đầu cũng không giống với đồng bằng sông Hồng, ở đồng
bằng sông Cửu Long, tỷ lệ ruộng đất công rất thấp (khoảng 3%), có nơi hầu
nh không đáng kể. Chế độ t hữu về ruộng đất sớm đợc xác lập; quan hệ họ
hàng, làng xóm không bị ràng buộc chặt chẽ nh ở đồng bằng sông Hồng.
Tất cả những điều kiện trên thúc đẩy hình thành tâm lý tự lập và bồi
đắp tinh thần dân chủ, bình đẳng cho ngời nông dân nơi đây.
Bớc vào thời kỳ lịch sử cận đại, cùng chung với số phận của cả dân
tộc, nông dân đồng bằng sông Cửu Long bị bọn thực dân Pháp thống trị và

16


làm đảo lộn cuộc sống. Sự thay đổi về chế độ sở hữu ruộng đất kéo theo sự
biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long.
Chính sách cơ bản của thực dân Pháp đối với nông thôn Nam Bộ nói
chung và đối với nông dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là tập trung
cao độ ruộng đất vào tay địa chủ (bao gồm địa chủ ngời Việt và địa chủ ngời Pháp) và biến nông thôn Nam Bộ thành nơi sản xuất hàng hóa, biến lúa
gạo Nam Bộ thành món hàng xuất cảng chính ở Đông Dơng.
Dới tác động của chính sách đó, diện tích canh tác và lúa gạo hàng
hóa ở đồng bằng sông Cửu Long tăng lên rất nhanh. Nhng diện tích canh
tác càng tăng lên thì mức độ tập trung ruộng đất càng lớn. Quá trình tập
trung ruộng đất của thực dân Pháp gắn liền với quá trình bần cùng hóa, phá
sản hóa ngời nông dân lao động. Trong khi một số ít đại địa chủ, chiếm tỷ
lệ rất nhỏ trong c dân nông thôn, nắm trong tay hầu hết ruộng đất canh tác
thì đại bộ phận nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng cày. Họ phải
lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, bị địa chủ bóc lột địa tô một cách nặng nề
và hầu nh lệ thuộc vào chúng. Nh vậy, từ khi Pháp xâm lợc nền kinh tế của
đồng bằng sông Cửu Long đã có bớc phát triển từ tình trạng sản xuất nhỏ

manh mún, tự cung, tự túc ở thời kỳ đầu khai phá đã chuyển dần thành nền
sản xuất hàng hóa (sản phẩm chủ yếu là lúa gạo). Nh Mác đã nói: Phơng
thức sản xuất của họ nh thế nào, thì phơng thức tinh thần của họ nh thế ấy.
Từ chỗ tâm lý của ngời nông dân nơi đây sản xuất ra sản phẩm không phải
mục đích để bán mà chủ yếu để ăn, có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít. Điều kiện
kinh tế ở thời kỳ này tác động mạnh đến tâm lý ngời nông dân, làm nảy
sinh t tởng, dám nghĩ, dám làm, làm có tính toán hiệu quả. Đến giai đoạn
này đã xuất hiện tâm lý sản xuất nông nghiệp không phải chủ yếu để ăn mà
để bán ra.
Đến thời Mỹ ngụy, nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long có bớc phát triển cao hơn so với trớc đã tác động mạnh mẽ

17


đến tâm lý ngời nông dân trong sản xuất. Tâm lý làm ăn chạy theo lợi
nhuận đã đợc thể hiện rõ nét ở phần đông tầng lớp nông dân là trung nông.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nớc thống nhất bớc vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt từ khi chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, định hớng xã hội chủ nghĩa. Điều kiện kinh tế trong vùng phát triển
nhanh chóng đã tác động đến tâm lý nông dân, làm nảy sinh t tởng, dám
nghĩ dám làm, làm ăn lớn và có tính toán đến hiệu quả kinh tế. Nếu trớc
đây các hộ nông dân có tâm lý làm nông nghiệp sao cho có số lúa đủ ăn
hoặc da thừa chút ít thì lúc này tâm lý sản xuất kinh doanh trong nông
nghiệp đã đợc nảy sinh không phải chỉ ở tầng lớp trung nông mà còn ở mọi
ngời nông dân, khi có điều kiện cho phép. Chính vì vậy mà hiện nay có hộ
nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long một vụ làm tới 200 - 300 công ruộng
và thu hoạch tới hàng trăm tấn lúa trong năm.
1.2.3. Các yếu tố chính trị - xã hội
Nông dân đồng bằng sông Cửu Long cũng đã trải qua các thể chế

chính trị, chế độ phong kiến; chế độ thực dân cũ và mới và hiện nay là một
xã hội phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Mỗi một thể chế chính trị
đã tác động vào tâm lý nông dân theo những cách rất khác nhau. Chế độ
phong kiến tồn tại ở đồng bằng sông Cửu Long không dài nh ở đồng bằng
sông Hồng. Do vậy dấu ấn phong kiến trong tâm lý ngời nông dân đồng
bằng sông Cửu Long không rõ nét. Chẳng hạn, theo t tởng phong kiến quy
định một tôn ty trật tự rất nghiêm khắc; quan niệm về đẳng cấp trong xã hội
cũng rất chặt chẽ, thì ở đồng bằng sông Cửu Long những quy định đó chỉ có
ý nghĩa tơng đối. Nếu ngời trọng dụng nhất theo quan niệm phong kiến là
ngời có địa vị trong xã hội, thì quan niệm của ngời nông dân đồng bằng
sông Cửu Long trong lĩnh vực tình cảm lại có quan niệm trọng nghĩa khinh
tài. Mặt khác, quan niệm phong kiến quy định quan hệ c xử chặt chẽ trong

18


gia đình, thì ở ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long tâm lý này lại đợc
mở rộng ra ngoài xã hội, ở đâu cũng thấy ba, thấy má, anh hai, chị hai, chú
ba, anh ba, chị ba...
So với hệ thống chính trị phong kiến thì hệ thống chính trị của đế
quốc có ảnh hởng đối với ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long nặng
hơn. Thời kỳ lịch sử từ năm 1945 đến 1975 chỉ dài 30 năm nhng đặc biệt
quan trọng đối với tâm lý ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Đây là
thời gian cách mạng kháng chiến dồn dập và sôi động nhất, nhiều khi một
ngày hơn nhiều năm, hơn nhiều chục năm phát triển bình thờng. Các biến
động chính trị đều lớn và sâu, bao gồm những biến đổi to lớn ở nông thôn
Nam Bộ, ảnh hởng đến ý thức t tởng của các tầng lớp dân cày. ảnh hởng đó
tích cực có, song tiêu cực có và nhiều khi đậm nét.
Thời gian này diễn ra cuộc đấu tranh cực kỳ quyết liệt trên các mặt
trận t tởng, kinh tế chính trị, văn hóa để giành dân, chủ yếu đấu tranh để

giành dân cày, giữa một bên là bọn đế quốc và ngụy quân, ngụy quyền, với
một bên là Đảng cộng sản và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Ta thì
xây dựng củng cố liên minh công nông, địch thì phá hoại sự liên minh đó và
lôi kéo giai cấp công nhân về phía giai cấp t sản thỏa hiệp, nhằm mở rộng
cơ sở xã hội cho ngụy quyền.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc của dân tộc ta nói chung và
đồng bào Nam Bộ nói riêng càng gần thắng lợi càng diễn ra hết sức ác liệt.
Tình hình đó đã tác động đến tâm lý ngời dân chẳng những ở thành phố, đô
thị mà ngay cả ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. T tởng ăn
chơi, sống gấp, trụy lạc, buồn bã, tuyệt vọng không có hớng đi đã đợc thể
hiện ở một bộ phận nông dân, nhất là những ngời nông dân thiếu t liệu sản
xuất.
Qua nghiên cứu của đồng bằng sông Cửu Long ta nhận thấy, mỗi sự
phát triển của xã hội, cũng nh sự tiến bộ của sản xuất, đều có ảnh hởng đến
biến đổi tâm lý của nông dân trong vùng.

19


1.2.4. Những yếu tố văn hóa t tởng
Gắn liền với sự lạc hậu về kinh tế là tình trạng lạc hậu về văn hóa.
Điều đó ảnh hởng không nhỏ tới tâm lý nông dân. Trong chế độ cũ, giai cấp
bóc lột đã nô dịch ngời nông dân bằng một nền văn hóa phản động. Ngời
nông dân đồng bằng sông Cửu Long ít đợc học hành, lại bị tiêm nhiễm
những ảnh hởng xấu xa nhất của hệ t tởng của giai cấp bóc lột. Do bị hạn
chế bởi một trình độ văn hóa, khoa học thấp kém, ngời nông dân thờng dễ
chấp nhận những hình thức mê tín dị đoan, dễ bị trói buộc vào lễ giáo
phong kiến.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng văn hóa lúa nớc, văn hóa sông
rạch, sông biển. Dĩ nhiên nghề trông lúa nớc ở đây đợc kết hợp với nhiều

loại cây trồng khác nhau nh các loại rau củ, bầu bí, cây ăn trái... và kết hợp
với nghề phụ chăn nuôi, đánh cá, thủ công nghiệp gia đình v.v...
Tuy nhiên, nói đến bản sắc của nền văn hóa đồng bằng sông Cửu
Long, trớc hết cần phải nói đến một nền văn hóa nông nghiệp lúa nớc, trong
điều kiện cụ thể của vùng nhiệt đới. Đặc trng đó in dấu sâu sắc trên toàn bộ
đời sống vật chất và tinh thần của ngời nông dân nơi đây, ảnh hởng rõ nét
đến nếp sống, phong tục tập quán và nhiều nghi lễ khác của họ. Đất và nớc
là hai yếu tố cơ bản nhất của điều kiện thiên nhiên gắn liền với nghề lúa nớc và cũng vì thế đất, nớc, trở thành gần gũi với ngời nông dân vùng đất
mới. Văn hóa lúa nớc là nền văn hóa nông nghiệp cổ truyền của ngời nông
dân Việt Nam.
Những đặc điểm sản xuất sinh hoạt của con ngời trong nền nông
nghiệp lúa nớc ở đồng bằng sông Cửu Long đã đợc phản ánh vào văn hóa
tinh thần của họ. Nó phản ánh sự gắn bó của ngời nông dân với mảnh đất
mà họ đổ mồ hôi và nớc mắt ra khai phá. Nó đã thể hiện tình thơng của con
ngời đối với quê hơng đất nớc và với chính ngời lao động.
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre,
Thấy bông lúa đẹp thơng ngời Hậu Giang

20


Văn hóa dân gian Nam Bộ đã thể hiện tâm lý ngời nông dân đồng
bằng sông Cửu Long và làm cái nền vững chắc cho sự tồn tại và phát triển
của các loại hình văn hóa dân tộc qua các thời kỳ biến động của đất nớc.
Dới thời phong kiến hầu hết ngời nông dân đồng bằng sông Cửu
Long không biết chữ, có chăng chỉ đợc số ít ngời con nhà giàu biết chữ
Hán, chữ Nôm.
Đến thời thực dân Pháp xâm lợc, suốt ba mơi năm kể từ khi Pháp
chiếm đợc đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá
nói riêng cho đến hết thế kỷ XIX, thực dân Pháp chỉ mở đợc vài ba trờng sơ

học với số học sinh trên dới 100 ngời. Theo địa phơng chí tỉnh Hà Tiên do
hội nghiên cứu Đông phơng phát hành năm 1901, tỉnh Hà Tiên có ba trờng
tổng, trờng Bình Trị (Hòn Chông) có 25 học viên và trờng Phú Quốc tại Dơng Đông, học viên nhiều hơn một ít khoảng trên 30 học viên; Trờng tỉnh lỵ
Hà Tiên cũng khoảng 30 học viên.
Số liệu giáo dục của tỉnh Hà Tiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX [30, tr. 70].
Biểu 1:
Năm học

Trờng tổng

Trờng xã

Tổng số học viên

Số giáo viên

1800

1

2

137

3

1900

3


3

207

6

1918

4

4

340

6

Tại tỉnh Rạch Giá, vào năm 1899 trờng tiểu học mới bắt đầu đợc mở
nhng cha xây dựng cơ bản. Mãi đến năm 1918 mới xây dựng trờng Nam
tiểu học và mãi đến năm 1931 cả tỉnh mới có 12 lớp trờng Nam và 6 lớp trờng Nữ.
Sau cách mạng tháng 8/1945, dới sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta, Hồ Chí Minh chỉ ra nạn dốt là một trong những phơng

21


pháp thâm độc mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Ngời cũng khẳng
định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu [20, tr. 20]. Ngời đã chỉ đạo
chiến dịch chống nạn mù chữ trong cả nớc.
Thực hiện lời dạy của Bác, ở các vùng thị xã, thị trấn của đồng bằng

sông Cửu Long đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, phong trào bình dân học vụ
phát triển. Trong khi đó ở các vùng nông thôn, nông dân phần lớn là tá điền,
là tay rìu nghèo khổ, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, nên ít quan tâm
đến việc cho con em đi học chữ lấy táo đong lúa, không ai lấy táo đong
chữ là quan niệm phổ biến của ngời nông dân nơi đây. Nhiều gia đình
nông dân mang nặng t tởng phong kiến, không cho con gái học chữ sợ viết
th cho trai [29, tr. 95].
Dới thời Mỹ Diệm, với ý đồ đa thanh niên vào nhà trờng để giáo
dục theo tinh thần của chế độ cộng hòa nhân vị giả hiệu, hệ thống giáo
dục có phát triển nhanh so với trớc. Nhng điều đó không phải nhằm mục
đích nâng cao sự hiểu biết của ngời nông dân , mà chủ yếu phục vụ âm mu
thống trị lâu dài của đế quốc Mỹ. Nội dung giáo dục, kết hợp văn hóa với
triết học phản động, nhằm mục đích chống cộng sản, chống Hiệp định
Giơnevơ.
Song song với hệ thống giáo dục của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và
mới, trong suốt thời gian kháng chiến, hệ thống giáo dục cách mạng cũng
đợc phát triển mạnh mẽ ở đồng bằng sông Cửu Long. Phần lớn các trờng
dân lập ở nông thôn và vùng giải phóng đợc hình thành do sự giúp đỡ quyên
góp của nông dân. Nh vậy, trong thời kỳ này có hai hệ thống giáo dục đấu
tranh lẫn nhau. ở nông thôn thì hệ thống giáo dục cách mạng chiếm u thế.
ở đồng bằng sông Cửu Long dới thời Mỹ-Ngụy nền giáo dục có phát triển
hơn trớc, nhng nhìn chung ở trình độ thấp, phần lớn học tập trung chủ yếu ở
thị trấn, thị xã nhằm phục vụ con em nhà giàu.
Nh vậy, nông dân đồng bằng sông Cửu Long, sống dới thời Mỹ
ngụy, bị áp bức về kinh tế, kìm hãm về văn hóa nghệ thuật, bế tắc về đời

22


sống tinh thần. Văn nghệ lành mạnh mang sắc thái dân tộc phản ánh hiện

thực của xã hội, của cuộc sống thì bị bóp nghẹt, cấm đoán. Văn hóa nghệ
thuật rác rởi lai căng lại đợc phát triển. Tuồng chèo, thơ ca, mang giá trị
truyền thống dân tộc bị lãng quên, hoặc muốn tồn tại phải phản ánh ca tụng
chế độ Mỹ ngụy. Tình trạng văn hóa nh vậy đã dẫn đến đời sống tinh thần
hết sức tiêu cực, làm nảy sinh tâm lý mê tín dị đoan phát triển không phải ở
ngời già mà cả trong thanh niên, nạn rợu chè nhậu nhẹt lu bù không phải
chỉ ở thành thị mà cả ở vùng nông thôn.
Trong quá trình khai phá vùng đất mới nền văn hóa của ngời nông
dân ở đây vẫn mang cốt cách Việt Nam qua những biểu hiện phong phú,
độc đáo của nó. Từ việc khai hoang, trồng cấy rất sáng tạo của nghề trồng
lúa cổ truyền, tới việc lập ấp với cơ cấu, thiết chế ít nhiều thay đổi mà vẫn
giữ đợc hình thức làng xã là cơ sở của nớc, vẫn gắn làng với nớc. Mặc dù
nảy sinh những điệu dân ca mới, nghệ thuật cải lơng mới rất Nam Bộ, nhng
vẫn là ngôn ngữ Việt Nam, phản ánh tính cách, đặc sắc Việt Nam. Đó là sự
chung sống hòa hợp của nhiều dân tộc thiểu số với ngời Việt. Có rất nhiều
thứ tôn giáo khác nhau trong một vùng mà vẫn giữ đợc truyền thống khoan
dung vốn có của dân tộc.
Tóm lại, con ngời ta sản xuất nh thế nào thì tình cảm của họ nh thế
ấy. Ngời nông dân đồng bằng sông Cửu Long về tính chất và đặc điểm có
những nét giống nông dân cả nớc, song cũng có những biểu hiện đặc thù về
tâm lý do các yếu tố khác nhau quy định.
1.2.5. Những yếu tố tôn giáo
Xét về mặt lịch sử tôn giáo ở đồng bằng sông Cửu Long hình thành
mới khoảng bảy tám thập kỷ. Còn các tôn giáo thịnh hành ở nơi đây, từ buổi
đầu khai phá vùng đất mới chủ yếu là tôn giáo truyền thống, đạo phật, lão
giáo, ki tô giáo cùng với một vài tôn giáo khác. Vào vùng đất mới dần dần
cách thức sản xuất của ngời nông dân nơi đây có sự thay đổi. Sự thay đổi

23



của cách thức sản xuất làm cho các tôn giáo truyền thống ngày càng lu
mờ. Trớc tình hình đó ngời nông dân muốn tìm một tôn giáo mới, khi
thấy các tôn giáo cũ không còn thỏa mãn nhu cầu tâm linh tăng tục của
bản thân.
Bất kỳ một tôn giáo nào ra đời cũng do một bối cảnh lịch sử nhất
định thai nghén và quy định. Bất kỳ hiện tợng tôn giáo nào cũng nhằm đáp
ứng một nhu cầu tâm lý tín ngỡng của một cộng đồng dân c (nói cho đúng
hơn một bộ phận cộng đồng dân c) một cộng đồng lãnh thổ nhất định trớc
khi phổ quát hóa.
Hai tôn giáo lớn ở đồng bằng sông Cửu Long là Cao Đài và Hòa
Hảo ra đời giữa hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai.
Hòa Hảo và Cao Đài là hai tôn giáo nhng có đặc điểm chung; đều
dựa vào cốt lõi của tôn giáo truyền thống ở nơi xuất phát, biến đổi ít nhiều
về giáo lý và nghi thức, dới nhãn hiệu cải cách, canh tân, thêm hoặc bớt
những yếu tố tôn giáo mới. Các đạo mới tìm ra mục đích hấp dẫn bằng
nhiều vẻ, cả về tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa... trớc hết với quần
chúng tại chỗ, sau đó mới phát triển ra bên ngoài. Những tôn giáo đứng đợc
phụ thuộc vào nội dung hình thức và nhất là đáp ứng đợc tâm lý xã hội của
quần chúng tín đồ. Quần chúng thấy ở đó một cái gì mới, hấp dẫn so với
các tôn giáo cùng thời Cao Đài, Hòa Hảo, xét riêng về mặt này, đã đáp ứng
đợc yêu cầu đó đối với một bộ phận ngời dân Nam Bộ, (nhất là ngời nông
dân đồng bằng sông Cửu Long) trong giai đoạn lịch sử mà ngời đơng thời
đang thất vọng với thất bại của phong trào Cần Vơng, của Phan Chu Trinh
và Phan Bội Châu... Họ cũng cha gửi đợc niềm tin vào một ngọn cờ giải
phóng dân tộc nào khác. Mặt khác, họ lại bị áp bức, đè nén cùng cực hơn
bởi cuộc khai thác thuộc địa tàn nhẫn sau chiến tranh thế giới thứ nhất và
cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp. Vì vậy, Cao Đài, Hòa Hảo cũng có thể
đợc coi nh một cuộc vận động xã hội.


24


Nếu chỉ xét riêng góc độ tôn giáo, đạo Cao Đài, Hòa Hảo đã tìm ra
một lực thu hút, một cung cách thích hợp với tâm linh tôn giáo của những
ngời nông dân tứ xứ đồng bằng sông Cửu Long, mà giáo s Trần Văn Giàu
và nhiều tác giả khác đã phân tích, cùng với đó là những phong trào cứu
thế nhuộm màu sắc yêu nớc, một truyền thống yêu nớc mặn mà của những
ngời dân vùng đất mới" [8, tr 10]. Những phong trào đó bắt nguồn từ giữa
thế kỷ XIX với những tiên tri, những lời sấm truyền, những buổi tập đàn
mang tính chất dân dã, nay lại thấm nhuần t tởng kiểu Phong Thần, Tây Du,
Thủy Hử, Đông Chu, Tam Quốc. Ngời nông dân còn bị lôi cuốn vào những
tổ chức Minh đạo, hay các đạo lớn nhỏ bồng bềnh trên sông nớc, trong lúc
đang chán ngán bởi sự suy thoái của đạo Phật, đạo Khổng và cũng không
chịu chấp nhận đạo công giáo đợc thế lực thực dân nâng đỡ. Đạo Cao Đài,
Hòa Hảo một mặt đã phần nào tạo ra tình cảm tôn giáo mới song mặt khác
lại đã dung tục hóa các giáo lý tôn giáo, nâng tôn giáo lên một bậc, thực ra
chỉ nâng lên về mặt tổ chức.
Các đạo giáo ở đồng bằng sông Cửu Long, thờng không có giáo lý
riêng mà chủ yếu vay mợn ở các tôn giáo truyền thống rồi cải biến cho hấp
dẫn để thu hút tín đồ. Do vậy, tôn giáo nơi đây có ảnh hởng không nhỏ đến
tâm lý tình cảm của ngời nông dân. ảnh hởng tích cực có nh tôn giáo
khuyên nhủ con ngời, điều chỉnh hành vi của họ theo điều thiện, điều nhân,
điều nghĩa, giáo dục con ngời hành thiện và luôn nhớ về cội nguồn. Giáo
dục con ngời làm điều nhân, điều nghĩa, yêu thơng lẫn nhau.
Bên cạnh những ảnh hởng tích cực, biểu hiện tiêu cực của tín ngỡng
tôn giáo cũng thể hiện khá rõ nét ở ngời nông dân đồng bằng sông Cửu
Long.
Qua khảo sát của Viện nghiên cứu Tôn giáo của Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia 1995 ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long về đạo Cao Đài cho thấy.

25


×