Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Đời sống tôn giáo trong truyền thông mạng Công giáo ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 170 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------  ---------

ĐỖ THU HƯỜNG

ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO TRONG TRUYỀN THÔNG MẠNG
CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------  ---------

ĐỖ THU HƯỜNG

ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO TRONG TRUYỀN THÔNG MẠNG
CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 62 22 03 09

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS,TS. Đỗ Quang Hưng


2. PGS,TS. Nguyễn Phú Lợi

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn khoa học của GS,TS. Đỗ Quang Hưng và PGS,TS. Nguyễn Phú Lợi.
Các trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Hà nội, ngày

tháng năm 2016

Tác giả luận án

Đỗ Thu Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN. .... 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 6
1.2. Những vấn đề đặt ra cho luận án ..................................................................... 27
1.3. Khung phân tích lý thuyết ............................................................................... 28
1.4. Một số khái niệm cơ bản được sử dụng trong luận án .................................... 32
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................................. 43
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRUYỀN THÔNG MẠNG CÔNG GIÁO. ..... 45
2.1. Các hình thức truyền thông truyền thống của Công giáo trong lịch sử .......... 45

2.2. Quan điểm của Tòa thánh Vatican và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam về
truyền thông và truyền thông mạng ....................................................................... 55
2.3. Tổng quan các trang mạng Công giáo ở Việt Nam hiện nay .......................... 67
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................. 77
Chương 3. ĐỜI SỐNG CÔNG GIÁO ĐƯỢC PHẢN ÁNH TRONG TRUYỀN
THÔNG MẠNG CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................... 80
3.1. Thần học .......................................................................................................... 80
3.2. Hoạt động truyền giáo và phổ biến giáo lý, giáo luật qua truyền thông mạng
Công giáo ở Việt Nam hiện nay............................................................................. 90
3.3. Việc thực hành đức tin tôn giáo của Công giáo qua truyền thông mạng Công
giáo ở Việt Nam ................................................................................................... 102
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................ 111
Chương 4. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG MẠNG CÔNG GIÁO
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...................... 114
4.1. Đặc điểm và vai trò của truyền thông mạng Công giáo đối với đời sống tôn
giáo của Công giáo ở Việt Nam hiện nay ............................................................ 114
4.2. Những vấn đề đặt ra về truyền thông mạng Công giáo ở Việt Nam hiện nay .. 129


4.3. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả của truyền thông mạng trong đời sống
Công giáo ở Việt Nam hiện nay........................................................................... 139
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................................ 145
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 147
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ ........................................................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 152


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ


Bảng 1: Mô hình hóa cơ chế hoạt động của truyền thông........................................33
Bảng 2. Lịch sử trang hdgmvietnam.org ...................................................................70
Bảng 3. Tỷ lệ người quan tâm đến giáo lý Công giáo từ 2009- 2015 .....................99
Biểu đồ 3.1: Thông tin về Công giáo nói chung mà bản thân quan tâm...............120


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CP:

Communio et Progreeeio

CG:

Công giáo

FABC:

Liên Hội đồng Giám mục Á Châu

GP:

Giáo phận

HĐGMVN:

Hội đồng Giám mục Việt Nam

IM:

Inter Mirifica


LM:

Linh mục

Nxb:

Nhà xuất bản

Tp:

Thành phố

OSC:

Văn phòng đặc trách truyền thông xã hội

UBGM:

Ủy ban Giám mục

UBVH:

Ủy ban Văn hóa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đã có những thay đổi cơ bản
theo hướng hội nhập quốc tế. Đây là kết quả của của sự đổi mới đường lối

chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ cuối năm 1990 đến nay. Sự
thay đổi đó bên cạnh chịu tác động của đời sống kinh tế, xã hội, còn chịu
những tác động từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ đặc biệt đó là các
phương tiện truyền thông hiện đại trong đó có truyền thông mạng Internet.
Internet với những tiện ích nổi bật của nó đã góp phần làm cho tôn giáo
trở nên “phẳng” hơn khi tạo ra cảm giác khoảng cách về không gian và thời
gian giữa các vùng miền, quốc gia phần nào bị nhòa đi. Là một tôn giáo lớn
và luôn có nhu cầu tăng cường ảnh hưởng của mình, Công giáo đã khá nhanh
nhạy trong việc tận dụng các phương tiện truyền thông đại chúng vào việc
truyền giáo. Việc ứng dụng các công nghệ mới trong đó có công nghệ thông
tin, chỉ cần chiếc máy tính có kết nối mạng, người ta có thể dễ dàng trao đổi
thông tin, bày tỏ chính kiến của mình tới bất kỳ nơi nào trên thế giới mà có
kết nối mạng. Nhận thấy tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào việc thay đổi phương thức truyền giáo của mình, Giáo hội Hoàn vũ đã
sớm quan tâm đến lĩnh vực này bằng cách ban hành Sắc lệnh Inter Mirifica
(1963) của Công đồng Vatican II được xem là văn kiện tiên phong liên quan
đến các hoạt động truyền thông nói chung và truyền thông mạng nói riêng,
mở ra một cái nhìn mang tính đối thoại với nhân loại và ngỏ lời muốn dấn
thân cộng tác với xã hội. Văn kiện này là nền tảng cho các văn kiện khác của
Giáo hội về truyền thông mạng như hai văn kiện quan trọng đó là “Giáo hội
và Internet” và “Đạo đức trên Internet”.
Ngay chính những văn kiện đầu tiên về Internet, Giáo hoàng đã đưa ra
những cảnh báo về tác hại của nó và Giáo hội nên tránh những tiêu cực do nó
1


gây ra để thực hiện tốt “Tin mừng hóa và Internet”. Sử dụng truyền thông
mạng là một phương thức truyền giáo mới, góp phần thay đổi phương thức
truyền giáo truyền thống trước đây của Công giáo, đồng thời nâng cao khả
năng trao đổi thông tin, tăng cường sự hiểu biết của thế giới ngoài Công giáo

và chính thế giới Công giáo với nhau.
Dưới sự hướng dẫn của Giáo hội Hoàn vũ và Liên Hội đồng Giám
mục Á Châu về lĩnh vực truyền thông mạng và đặc biệt từ năm 1997 Nhà
nước cho phép Internet hoạt động chính thức ở nước ta, Hội đồng Giám mục
Việt Nam đã tiếp cận và cổ vũ sử dụng truyền thông mạng trong hoạt động
loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay truyền thông mạng Công
giáo chưa được kiểm soát chặt chẽ và khoa học dẫn đến nảy sinh những tiêu
cực như việc lợi dụng truyền thông mạng Công giáo để tuyên truyền chống
phá Đảng, Nhà nước cũng như truyền thống của Giáo hội. Xuất phát từ thực
tế này đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu, khái quát vấn đề truyền
thông mạng Công giáo để thấy rõ thông qua phương tiện truyền thông mạng
đời sống tôn giáo của người Công giáo được biểu hiện như thế nào? Tại sao
truyền thông mạng lại có vai trò quan trọng đối với đời sống tôn giáo của
Công giáo nhiều đến như vậy? Đâu là chiều hướng tích cực, đâu là chiều
hướng tiêu cực của truyền thông mạng tác động đến đời sống tôn giáo của
Công giáo? Những thay đổi của đời sống tôn giáo của Công giáo dưới tác
động của truyền thông mạng có trái ngược với truyền thống của Giáo hội
hay không? Đặc biệt trên góc độ quản lý nhà nước về tôn giáo, mạng truyền
thông tác động đến phương cách quản lý công tác tôn giáo nói chung và
Công giáo nói riêng như thế nào?
Những câu hỏi trên cần được trả lời nghiêm túc, trên cơ sở khoa học, để
một mặt nhận diện được toàn bộ diện mạo của đời sống tôn giáo của người
Công giáo dưới tác động của các hình thức truyền thông mạng. Mặt khác đưa
2


ra những khuyến nghị nhằm pháp huy những tích cực và hạn chế những tiêu
cực mà truyền thông mạng mang lại trong đời sống tôn giáo của Công giáo.
Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: Đời sống tôn giáo trong truyền thông mạng
Công giáo ở Việt Nam hiện nay cho luận án tôn giáo học của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Khảo sát, làm rõ thực trạng, biểu hiện của đời sống tôn giáo của Công
giáo trong truyền thông mạng Công giáo ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất
những kiến nghị nhằm phát huy vai trò của truyền thông mạng đối với đời
sống tôn giáo của Công giáo và trong việc tuyên truyền chính sách dân tộc,
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ chủ trương của Tòa thánh Vatican, Liên Hội đồng Giám mục
Á Châu và Hội đồng Giám mục Việt Nam về truyền thông mạng.
- Làm rõ biểu hiện đời sống tôn giáo của Công giáo ở Việt Nam hiện
nay qua truyền thông mạng Công giáo.
- Làm rõ đặc điểm, vai trò của truyền thông mạng Công giáo đối với
đời sống tôn giáo của Công giáo và trong việc tuyên truyền chính sách, pháp
luật của Nhà nước về tôn giáo.
- Rút ra nhận xét và khuyến nghị đối với Nhà nước và Hội đồng Giám
mục Việt Nam về truyền thông mạng Công giáo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biểu hiện cơ bản của đời sống tôn giáo của người Công giáo qua
khảo sát các trang mạng Công giáo ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là các trang
mạng của Hội đồng Giám mục Việt Nam và một số trang mạng Công giáo
hợp pháp tại Việt Nam hiện nay.
3


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu những biểu hiện cơ bản
của đời sống tôn giáo của Công giáo trong truyền thông mạng Công giáo ở
nước ta hiện nay.

Về thời gian: Nghiên cứu đời sống tôn giáo của Công giáo qua truyền
thông mạng Công giáo từ năm 2006 đến nay, khi trang mạng của Hội đồng
Giám mục Việt Nam chính thức được khởi tạo và hoạt động ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo, những thành quả nghiên cứu lý luận đã đạt được trong
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và lĩnh vực truyền thông mạng
Công giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để tiến hành xử lý,
phân tích các tài liệu về truyền thông, truyền thông tôn giáo như các bài viết
đăng trên những tạp chí chuyên ngành, hội thảo khoa học, những trang web
về tôn giáo, những công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước. Phương pháp này sẽ giúp hệ thống hóa các quan niệm về truyền thông;
truyền thông tôn giáo; truyền thông Công giáo, truyền thông mạng Công giáo.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để làm rõ sự tương đồng và khác
biệt giữa truyền thông mạng Công giáo với truyền thông của các tôn giáo ở
nước ta hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tôn giáo học
- Phương pháp phân tích dữ liệu qua google trends
- Các phương pháp liên ngành như truyền thông học, xã hội học, sử học.
4


5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống
về biểu hiện của đời sống tôn giáo của Công giáo trong truyền thông mạng
Công giáo ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án thông qua việc khảo sát một số trang mạng của Công giáo
để làm sáng tỏ biểu hiện đời sống tôn giáo của Công giáo trong truyền
thông mạng Công giáo và vai trò của truyền thông mạng đối với việc tuyên
truyền chính sách, pháp luật Nhà nước về tôn giáo và đời sống tôn giáo của
Công giáo.
- Luận án đề xuất khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
của truyền thông mạng Công giáo đối với đời sống tôn giáo của Công giáo.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng trong công tác tôn giáo
nói chung và công tác truyền thông mạng Công giáo nói riêng ở Việt Nam.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy chuyên ngành tôn giáo học và truyền thông học tại các học viện,
trường đại học liên quan đến lĩnh vực tôn giáo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án có kết cấu chủ yếu gồm 4 chương 13 tiết.

5


Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những vấn đề lý luận chung về đời sống tôn giáo
Nghiên cứu về khái niệm đời sống tôn giáo và biểu hiện của đời sống
tôn giáo, có các công trình của các tác giả như:
Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2001, tác giả cung cấp những vấn đề lý
luận về tín ngưỡng, tôn giáo như: Khái niệm về tôn giáo; sự khác biệt giữa tín
ngưỡng và tôn giáo dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu; tác giả cũng phân

tích, lý giải các xu hướng tôn giáo, đồng thời giới thiệu những vấn đề cơ bản
về tình hình tôn giáo Việt Nam. Tuy nhiên công trình này mới giới hạn vấn đề
ở những năm cuối thế kỷ XX.
Đỗ Quang Hưng (2013), Công giáo trong mắt tôi, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội. Đây là những tiểu luận nghiên cứu của tác giả về vấn đề Công giáo. Gồm
những nội dung cơ bản đó là:
Thứ nhất, những tiếp cận lịch sử Công giáo Việt Nam. Ở phần này tác
giả nêu một số sự kiện lịch sử tôn giáo tiêu biểu, góp phần tìm hiểu thêm một
số giai đoạn, những vấn đề quan trọng của Công giáo Việt Nam.
Thứ hai, tác giả cho rằng: “Có một không gian Công giáo” ở đây tác
giả có sự thay đổi về nhận thức đó là việc trước đây dường như tác giả chỉ
lưu tâm đến lịch sử truyền giáo và những quan hệ chính trị, xã hội của nó.
Còn bản thân cái “không gian Công giáo” ấy ở nước ta như thế nào thì chưa
có ý thức hoặc điều kiện nghiên cứu. Claude Langlois nói rằng, trong cái
L'espace catholique (không gian Công giáo), một cấu trúc xã hội - tôn giáo con người được thể hiện một cách sống động, từ tổ chức giáo hội, phẩm trật,
đời sống tôn giáo đến nghi lễ, lễ hội... Những nội dung trong mảng này giúp
6


cho người ngoài Công giáo hiểu được “thế giới” Công giáo Việt Nam là thế
nào, từ hình ảnh các giáo phận, giáo xứ đến việc học hỏi kinh bổn, văn hóa
lễ hội Công giáo...
Thứ ba, Công giáo - những nhân vật và sự kiện. Tác giả lựa chọn
những nhân vật Công giáo tiêu biểu qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là
những nhân vật có những đóng góp lớn với dân tộc và văn hóa cũng như
những sự kiện tôn giáo (le fait religieux) đáng chú ý với Công giáo.
Thứ tư, với tiêu đề Công giáo Việt Nam hôm nay. Tác giả đề cập một
số vấn đề cấp bách hiện nay với giới Công giáo, thuộc lĩnh vực nội bộ Giáo
hội cũng như những lĩnh vực quan hệ Nhà nước - Giáo hội, Công giáo và Dân
tộc, một chủ đề vốn đã quen thuộc lâu nay nhưng lại đang diễn ra với những

chiều kích mới. Những chủ đề này rất lớn, có nhiều ý nghĩa chiến lược từ hai
phía Đạo - Đời.
Đỗ Quang Hưng, Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long – Hà Nội,
Nxb Hà Nội, 2010. Trong công trình nghiên cứu này tác giả đã kết hợp
phương pháp lịch sử tôn giáo trong việc dựng lại lịch sử các tôn giáo chính
như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài… cũng như các loại hình tín
ngưỡng ở Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt tác giả đi sâu
phân tích khái niệm đời sống tôn giáo nói chung từ đó khắc họa đời sống tôn
giáo mà cụ thể là dựng lại hình ảnh sinh hoạt của mỗi tôn giáo, các loại hình
tín ngưỡng cho đến hình ảnh cụ thể của các “nhân vật” tôn giáo ở Thăng Long
– Hà Nội như người Phật tử, người Công giáo, người Tin Lành, cho đến
“nhân vật tôn giáo” thiểu số.
Đỗ Quang Hưng, Tái cấu hình đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
Những thách thức về mặt pháp lý cập nhật tại btgcp.gov.vn. Trong bài viết này
tác giả làm rõ khái niệm quan trọng tái cấu hình đời sống tôn giáo và một số
khái niệm có liên quan như thị trường tôn giáo (marché religieuse), sự phục hồi
7


tôn giáo (reveil religieux), bước đầu nêu ra một số vấn đề có tính hệ luận khi
đời sống tôn giáo xuất hiện trạng thái “tái cấu hình” và những suy tư cá nhân
góp phần vào việc giải quyết những thách thức mới ấy về mặt pháp lý.
Đỗ Quang Hưng, trong cuốn Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 đã bàn đến
những ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với tiến trình nhận thức của Đảng về tôn giáo và chính sách tôn giáo trong
giai đoạn từ 1945 đến 2005.
Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội. Cuốn sách cung cấp cho người đọc kiến
thức về sự hội nhập văn hóa Kitô giáo với văn hóa Việt Nam, đặc biệt là phần

nghi lễ tác giả đã bóc tách ra được những hình thức diễn xướng, bài trí, lối ăn
mặc, âm nhạc có nguồn gốc lễ hội Việt Nam truyền thống. Phần lối sống tác
giả nêu bật được lối sống đạo của người Công giáo đó là được thể hiện qua
quan hệ của giáo dân với hàng giáo phẩm, tu sĩ, với người đồng đạo, người
khác đạo, cũng như vấn đề mô hình tâm lí.
Nguyễn Hồng Dương, Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và
những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2012. Ngoài những góc nhìn riêng của tác giả về quan điểm, đường lối chính
sách tôn giáo, tác giả đã phác họa bức tranh tôn giáo ở Việt Nam, phân tích
kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở một số nước và đề xuất một số
khuyến nghị đối với công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Đức Lữ với công trình Tôn giáo- Quan điểm, chính sách đối với
tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị- Hành chính,
Hà Nội, 2009 đã tập trung vào các vấn đề: lý luận về tôn giáo; tình hình tôn giáo
thế giới và Việt Nam; quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn
giáo trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tập trung chủ yếu vào thời kỳ đổi
8


mới. Trên cơ sở văn kiện của Đại hội Đảng tác giả bình luận và minh hoạ bằng
dữ liệu thực tiễn, đồng thời gợi mở ra những vấn đề cần trao đổi thêm.
Trác Tân Bình, Lý giải tôn giáo do Trần Nghĩa Phương dịch, Nxb Hà
Nội, 2007. Trong cuốn sách tác giả trình bày và lí giải tôn giáo Trung Quốc
và tôn giáo thế giới. Đặc biệt cung cấp cho người đọc những hiện tượng biểu
hiện bên ngoài của tôn giáo, đồng thời đi sâu phân tích mổ xẻ kết cấu nội tại
của chúng, nhằm đạt đến sự lí giải chân thực thế giới tâm linh tôn giáo, qua
đó có thể thấy được mối quan hệ gắn bó giữa tôn giáo với đời sống xã hội
hiện thực của nhân loại.
Phạm Huy Thông, Ảnh hưởng qua lại của đạo Công giáo và văn hóa
Việt Nam”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2012. Tác giả đã phác họa sự tác động đạo

Công giáo ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam, đóng dấu ấn lên văn hóa Việt
thì văn hóa Việt cũng ảnh hưởng trở lại, biến đổi đạo Công giáo đến từ
phương Tây xa lạ, trở thành một tôn giáo gần gũi với văn hóa dân tộc. Hơn
nữa, ảnh hưởng của đạo Công giáo với văn hóa Việt cũng không hẳn hoàn
toàn chỉ có mặt tích cực mà còn cả những mặt tiêu cực.
Nguyễn Hoài Sanh (2013), luận án “Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học
Xã hội. Trong luận án này tác giả phân tích định nghĩa về đời sống tín ngưỡng,
tôn giáo để từ đó làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay như vấn đề về lý luận: quan hệ
giữa tôn giáo với chính trị; quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với văn hóa; quan
hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với đạo đức. Ngoài ra còn có các nội dung: lịch sử
tôn giáo ở Việt Nam; gia tăng các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; quan hệ giữa
Nhà nước với các tổ chức tôn giáo và vấn đề về sự xuất hiện các hiện tượng tôn
giáo mới ở Việt Nam. Trên cơ sở những vấn đề cấp bách đó tác giả đưa ra những
khuyến nghị và giải pháp nhằm giải quyết tốt vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, tạo
môi trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
9


Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận đến khái niệm đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo và đời sống đạo ở những khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên các công trình trên chưa làm rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm
đời sống tôn giáo hiện nay được biểu hiện như thế nào.
1.1.2. Nghiên cứu vấn đề lý luận chung về truyền thông, truyền thông mạng,
truyền thông mạng Công giáo
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về truyền thông, truyền
thông tôn giáo.
Công tác truyền thông tôn giáo gần đây được Đảng và Nhà nước ta
thường xuyên quan tâm. Sự quan tâm thể hiện ở nhiều phương diện từ việc

thành lập các tờ báo, tạp chí, mở rộng các phương tiện truyền thông đại chúng
cho đến đa dạng hóa nội dung truyền thông tôn giáo. Điều đó được thể hiện
qua các văn bản của Đảng và Nhà nước về truyền thông, truyền thông mạng,
công tác tôn giáo. Các văn bản này đã đề cập đến chủ trương, nhiệm vụ, giải
pháp sử dụng các phương tiện truyền thông trong đó có truyền thông mạng ở
tất cả các lĩnh vực xã hội trong đó có tôn giáo để giáo dục, tuyên truyền, giải
thích chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội nói chung và tôn giáo nói riêng cho nhân dân. Điều này được
thể hiện qua đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, cụ thể như sau:
Điều 3 nghị định 21-CP ngày 5 tháng 3 năm 1997 (Quy chế tạm thời)
đòi hỏi "mọi thông tin đưa vào, truyền đi và nhận đến mạng Internet qua cửa
đi quốc tế tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định tại Điều 10 Luật Báo
chí và Điều 22 Luật Xuất bản ".
- Điều 10 "Những điều không được thông tin trên báo chí" của Luật Báo chí
quy định: " Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng đúng đắn, báo
chí phải tuân theo những điều sau đây: 1/ Không được kích động chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân; 2/
10


Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù
giữa các dân tộc và nhân dân các nước, truyền bá tư tưởng, văn hoá phản động,
lối sống dâm ô, truỵ lạc, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại
thuần phong mỹ tục; 3/ Không được tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật
quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của công dân và bí mật khác do
pháp luật quy định; 4/ Không được thông tin sai sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ
nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc
phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của công dân" [114].
- Điều 22 "Những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản"
của Luật Xuất bản quy định "Nghiêm cấm việc xuất bản, in, phát hành xuất

bản phẩm có nội dung sau đây: a) Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; b) Tuyên
truyền kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân
dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm
ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong
mỹ tục; c) Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác
do pháp luật quy định; đ) Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách
mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc; không thể hiện hoặc
thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ
quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân [115].
Điều 5 nghị định 72/2013/ NĐ- CP về quản lý, cung cấp, sử dụng
Internet và thông tin trên mạng nghiêm cấm:
1. Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng
nhằm mục đích:
a) Chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại
đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân
tộc, sắc tộc, tôn giáo;
11


b) Tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê
tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
c) Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và
những bí mật khác do pháp luật quy định;
d) Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự
và nhân phẩm của cá nhân;
đ) Quảng cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ bị cấm; truyền bá tác
phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm bị cấm;
e) Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông tin giả mạo, thông tin sai sự

thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Cản trở trái pháp luật việc cung cấp và truy cập thông tin hợp pháp, việc
cung cấp và sử dụng các dịch vụ hợp pháp trên Internet của tổ chức, cá nhân.
3. Cản trở trái pháp luật hoạt động của hệ thống máy chủ tên miền quốc gia
Việt Nam ".vn", hoạt động hợp pháp của hệ thống thiết bị cung cấp dịch vụ
Internet và thông tin trên mạng.
4. Sử dụng trái phép mật khẩu, khóa mật mã của tổ chức, cá nhân; thông tin
riêng, thông tin cá nhân và tài nguyên Internet.
5. Tạo đường dẫn trái phép đối với tên miền hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
tạo, cài đặt, phát tán phần mềm độc hại, vi-rút máy tính; xâm nhập trái phép,
chiếm quyền điều khiển hệ thống thông tin, tạo lập công cụ tấn công trên
Internet [13].
Đối với lĩnh vực tôn giáo, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa
thành các quy định của chính sách, pháp luật đối với tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới đất nước.
Năm 1991, thể chế hóa Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, Nhà nước ta
đã ban hành Nghị định 69 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định về các hoạt động
tôn giáo. Nghị định gồm có 3 chương và 28 điều: Chương I, Những nguyên
12


tắc chung, gồm 5 điều, từ điều 1 đến điều 5; Chương II, Những quy định cụ
thể, gồm 20 điều, từ điều 6 đến điều 25; Chương III, Tổ chức thực hiện, gồm
3 điều, từ điều 26 đến điều 28.
Đến năm 1992, Nhà nước ban bố Hiến pháp khẳng định về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ta. Đó là quy định xuyên suốt và tiến bộ
mặc dù quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn giới hạn ở quyền công dân.
Sau Hiến pháp có Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị
về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Nhà nước ta đã thể chế hóa và ban
hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, về các hoạt động tôn giáo. Nghị định 26

gồm 3 chương, 29 điều: Chương I, Những quy định chung, gồm 5 điều, từ điều 1
đến điều 5; Chương II, Những quy định cụ thể, gồm gồm 26 điều, từ điều 6 đến
điều 26; Chương III, Điều khoản thi hành, gồm 3 điều, từ điều 27 đến điều 29.
Đến năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và cho đến nay, đây là văn bản pháp quy cao nhất của Nhà
nước ta đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Sau đó, Chính phủ ra Nghị định
số 22/2005/NĐ-CP và đến cuối năm 2012, thay thế bằng Nghị định số
92/2012/NĐ-CP, ngày 8/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định số 92 được thực hiện từ ngày
01/01/2013. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có những quy định về nội dung
hoạt động chủ yếu của tôn giáo, tín ngưỡng.
Nếu như trong Hiến pháp năm 1992 quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
quyền công dân thì trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, được Quốc hội thông qua
sáng 28/11/2013 đã nâng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ quyền công dân lên
thành quyền con người. Hiếp pháp thể hiện một bước tiến vượt bậc, từ phương
diện thể chế hóa quan điểm của Đảng ta về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Xuất phát từ quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và bám sát thực tiễn đời sống tôn giáo của Việt Nam và thế giới, với quan điểm
13


tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng và
Nhà nước ta thể hiện cụ thể bằng việc ban hành quan điểm, chính sách, pháp
luật đối với tôn giáo, tín ngưỡng và luôn khẳng định đồng bào các tôn giáo là
một bộ phận quan trọng của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặc dù vậy, một số cá nhân, tổ chức, chính phủ nước ngoài lại cho rằng
truyền thông tôn giáo ở Việt Nam bị kiểm duyệt gắt gao. Trong khi chính
quyền Việt Nam cho rằng các nỗ lực kiểm duyệt Internet là để bảo vệ người
dùng khỏi phải đối mặt với các nội dung phản văn hóa thì Berkman Center for
Internet & Society at Harvard University (Trung tâm Berkman về Internet và

Xã hội tại Đại học Harvard) lại cho rằng phần lớn các website bị kiểm duyệt
chứa các nội dung nhạy cảm về chính trị hay tôn giáo mà có thể thách thức sự
thống trị của Đảng Cộng sản Việt Nam [63].
1.2.2.2. Các công trình nghiên cứu khoa học về truyền thông, truyền thông
mạng, truyền thông mạng Công giáo
Giáo trình Lý luận báo chí và truyền thông (2012) của Dương Xuân Sơn,
đã đưa ra các quan niệm, các khái niệm về truyền thông, truyền thông đại
chúng. Giáo trình khoa học về truyền thông (2010), Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, cung cấp cho người đọc những quan niệm, các định nghĩa
truyền thông nói chung, từ đó đi sâu luận giải về truyền thông học.
Tạ Ngọc Tấn (2001), “Truyền thông đại chúng”, Nxb Chính trị Quốc
gia. Trong cuốn sách này tác giả cung cấp cho những người đọc những nhận
thức cơ bản về hệ thống các khái niệm truyền thông và truyền thông trong xã
hội hiện đại, đưa ra những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý, nhằm phát huy
ngành truyền thông ở Việt Nam.
Phạm Minh Sơn và Nguyễn Thị Quế (2010), Truyền thông đại chúng
trong công tác Thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội. Công trình nghiên cứu này cho rằng truyền thông là một
hiện tượng xã hội phổ biến và liên quan đến mọi cá thể xã hội.
14


Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên về truyền thông có những
điểm giống nhau là đều đưa ra các quan niệm về truyền thông dưới nhiều góc
độ khác nhau. Trong đó, có một số quan niệm tương đối phổ biến về định
nghĩa truyền thông như sau:
Dưới góc độ ký hiệu lời, theo John R. Hocber: truyền thông là sự trao
đổi với nhau tư duy hoặc ý tưởng bằng lời.
Dưới góc độ quá trình truyền tải, Berelson và Steiner lại cho rằng
truyền thông là sự chuyển tải thông tin, ý tưởng, tình cảm, kỹ năng… bản thân
hành động của quá trình truyền tải.

Quan niệm của Dean C. Barnlund dưới góc độ không rõ ràng, truyền
thông là quá trình liên tục nhằm giảm độ không rõ ràng để có thể có hành vi
hiệu quả hơn.
Ở góc độ tính công cộng, Frank Dance cho rằng: Truyền thông là quá
trình làm cho cái trước đây là độc quyền của một hoặc vài người trở thành cái
chung của hai hoặc nhiều người.
Góc độ quyền lực: Truyền thông là cơ chế qua đó quyền lực được thể
hiện và tính độc quyền tăng lên (S. Schaehter, 1951).
Góc độ chủ định: Truyền thông về cơ bản quan tâm nhất đến tình
huống hành vi, trong đó, nguồn thông tin truyền một nội dung đến người nhận
với chủ đích tác động tới hành vi của họ (Gerald Miler, 1966).
Khái niệm truyền thông được đề cập đến trong cuốn Dictionary of
Mission: Theology, History, Perspective, Maryknoll, New York: Orbis Books,
1998 của Karl Muller: “Truyền thông có nghĩa là tiến trình trao đổi tri thức
giữa các cá thể hay tập thể, dẫn tới việc truyền đạt và trao đổi thông tin, kinh
nghiệm, tình cảm, hàng hoá, và dịch vụ. Theo nghĩa rộng nhất, truyền thông
bao gồm tất cả những gì đưa con người lại gần nhau hơn, ràng buộc và kết hợp
họ với nhau bằng cách này hay cách khác” [139,tr. 73].
15


Như vậy với rất nhiều định nghĩa, có thể thấy tính phức tạp, đa dạng của
truyền thông, do đó khi nghiên cứu về truyền thông phải mang tính liên ngành.
Với việc phân tích sâu về nội hàm và ngoại diên khái niệm khoa học về truyền
thông, truyền thông đại chúng của các công trình nghiên cứu này là cơ sở trực
tiếp để nghiên cứu sinh kế thừa, phát triển nhằm xây dựng khái niệm truyền
thông tôn giáo nói chung và truyền thông mạng Công giáo nói riêng.
Luận án của Nguyễn Thúy Hà (2013) Truyền thông tôn giáo từ năm 1990
đến nay (qua nghiên cứu trường hợp Phật giáo và Công giáo), luận án tiến sĩ
tôn giáo học, Học viện Khoa học Xã hội nghiên cứu truyền thông tôn giáo với

chủ thể là Đảng, Nhà nước ta và đối tượng tiếp nhận truyền thông là tín đồ,
chức sắc của Phật giáo cùng Công giáo; từ các phương diện đánh giá nội dung
truyền thông là vấn đề tôn giáo, chính sách, pháp luật tôn giáo, chất lượng,
hiệu quả truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong luận
án này, tác giả trước hết khái quát những vấn đề chung về tôn giáo, chính sách
tôn giáo và phân tích về truyền thông tôn giáo ở nước ta; đồng thời tìm hiểu
thực trạng truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước qua khảo sát về tính
hiệu quả, kết quả đối với tín đồ, chức sắc Phật giáo và Công giáo. Từ đó rút ra
những vấn đề về truyền thông tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đồng thời đưa ra
khuyến nghị có tính giải pháp đối với cho công tác truyền thông tôn giáo và
quản lý nhà nước về hoạt động truyền thông tôn giáo.
Bài viết Giá trị của truyền thông tôn giáo trong điều kiện đa dạng tôn
giáo tại Việt Nam hiện nay từ góc nhìn xã hội học của Nguyễn Thị Minh
Ngọc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 03(129), năm 2014. Tác giả đề cập
đến giá trị của truyền thông và chủ thể truyền thông của Phật giáo và Công
giáo ở Việt Nam. Trong đó, khái niệm truyền thông và truyền thông tôn giáo
được làm rõ trước tiên. Khi bàn về hệ thống giá trị của truyền thông tôn giáo,
tác giả cho rằng truyền thông tôn giáo đã góp phần tích cực vào quá trình tăng
16


cường hiểu biết giữa các tôn giáo tại Việt Nam hiện nay; gắn kết cộng đồng;
là phương tiện chủ đạo tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước về tôn giáo; là công cụ để các tôn giáo hội nhập với các vấn
đề xã hội; là vũ khi sắc bén để phản bác lại những luận điệu xuyên tạc tình
hình và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Hiệu quả của truyền thông tôn giáo
và những mặt hạn chế của nó cũng được phân tích qua những số liệu, dẫn
chứng cụ thể. Từ đó Nguyễn Thị Minh Ngọc đưa ra những kết luận và khuyến
nghị để thúc đẩy truyền thông tôn giáo phát triển, trở thành công cụ hữu hiệu
hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

Nguyễn Nghị Thanh (2009), Công nghệ thông tin và tôn giáo, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo số 10. Bài viết đã phân tích sự tác động của công nghệ
thông tin và Internet - một phương tiện truyền thông đối với tôn giáo. Theo đó
sự tác động này diễn ra với nhiều hình thức khác nhau ở hầu hết các lĩnh vực
cốt lõi như truyền giáo, giáo dục tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức tôn
giáo... Tác giả cho rằng Internet là công cụ có nhiều tiện ích không thể phủ
nhận nhưng việc quản lí các thông tin trên Internet về các lĩnh vực xã hội nói
chung và tôn giáo nói riêng còn nhiều khó khăn. Từ đó tác giả đề ra một số
phương pháp quản lý như xây dựng hành lang pháp lí đáp ứng cho công tác
quản lí và kiểm soát các thông tin trên mạng; đồng thời xây dựng đội ngũ
nhân lực có trình độ cao về Internet.
Nghiên cứu các khái niệm liên quan đến truyền thông mạng Công giáo:
Quan điểm của Giáo hội luận bàn về những khái niệm liên quan đến truyền
thông. Trước hết là thuật ngữ truyền thông, thuật ngữ này được Công đồng
Vatican II dùng lần đầu tiên trong Sắc lệnh Inter Mirifica, được Giáo hoàng
Phaolô VI công bố ngày 4 tháng 12 năm 1963. Khái niệm truyền thông Công
giáo được các công trình khoa học luận bàn sau khi Sắc lệnh này ra đời. Mặc
dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng khái niệm truyền thông Công
17


giáo được các tác giả nhấn mạnh khía cạnh “căn tính” Công giáo của các hoạt
động truyền thông trong đời sống Giáo hội. Theo tác giả Ngọc Lan, nghiên
cứu các khái niệm truyền thông nên tiếp cận mục đích luận: “Mục đích của
truyền thông Công giáo là truyền đạt đức tin và các giá trị Tin Mừng, và đó
chính là truyền thông Đức Kitô cho thế giới nhờ các hình thức truyền thông
do người Công giáo thực hiện, bắt đầu bằng chứng tá đời sống của họ. Như
thế truyền thông Công giáo có thể là các hoạt động truyền thông do các thành
phần trong Giáo hội đứng ra tổ chức hoặc điều hành, cũng có thể là sự cộng
tác của giới Công giáo trong các chương trình truyền thông hữu ích, hoặc là

sự dấn thân đơn lẻ của người Kitô hữu trong các hoạt động truyền thông ngoài
xã hội… Nói cách khác, Truyền thông Công giáo nhắm đến việc sử dụng các
phương tiện truyền thông xã hội trong tầm tay cho việc rao giảng Tin Mừng
và phổ biến các giá trị của nền văn hóa Kitô giáo, làm cho sứ điệp Tin Mừng
phù hợp với não trạng và tình cảm của con người hôm nay” [72].
Nguyễn Văn Đệ (2011), Giới trẻ và truyền thông Công giáo, bài thuyết
trình tại Đại hội Giới trẻ Giáo tỉnh Hà Nội, />index. Tác giả đưa ra khái niệm truyền thông là gì và phân tích ba yếu tố cấu
thành truyền thông để từ đó tác giả tiếp tục phân tích truyền thông Công giáo,
các phương tiện truyền thông Công giáo và ảnh hưởng của truyền thông Công
giáo đến giới trẻ. Tác giả cho rằng bản chất của truyền thông Công giáo với
các nội dung và phương tiện kỹ thuật truyền thông không hoàn toàn tốt mà
cũng không hoàn toàn xấu, nó tuỳ thuộc vào cách người sử dụng và người
tiếp thu, tùy điều kiện, môi trường thích hợp của mỗi người.
Truyền thông xã hội trong tôn giáo - trường hợp cổng thông tin điện tử
của Công giáo ở Việt Nam của Trần Hữu Hợp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo số 03 năm 2015. Bài viết đã tìm hiểu việc sử dụng cổng thông tin điện
tử phục vụ cho các hoạt động của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trong đó tác
18


×