Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý tài CHÍNH TRONG bảo HIỂM xã hội VIỆT NAM THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.3 KB, 136 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng,
đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện đối với người lao động
ngay từ sau Cách mạng tháng Tám thành công. Chính sách đó đã từng bước
được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
đấu tranh thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Bước sang thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã được
Nhà nước kịp thời điều chỉnh. Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội khóa IX
thông qua tại kỳ họp thứ V ngày 25/06/1994, quy định tại chương 12 về
BHXH áp dụng với người lao động ở mọi thành phần kinh tế. Chính phủ đã
ban hành Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước (Nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995) và đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân
viên quốc phòng (Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995).
Để triển khai thực hiện chính sách, chế độ BHXH đối với người lao
động theo các Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP
ngày 16/02/1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã
hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc ba cấp là: Bảo hiểm xã hội Việt
Nam; Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Bảo
hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn chủ yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam là tổ chức thu
BHXH, giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, thực hiện các hoạt động đầu
tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH; kiến nghị với Chính phủ và các cơ


2



quan có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH cho
phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn.
Qua 5 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tăng nhanh số
đối tượng tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu do người lao động và người
sử dụng lao động đóng góp tăng nhanh. Tổ chức chi trả các chế độ cho người
lao động tương đối kịp thời, đảm bảo ổn định đời sống của người lao động khi
bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và nghỉ hưu; góp phần
làm ổn định, an toàn xã hội; tạo ra sự công bằng, dân chủ và làm lành mạnh các
quan hệ xã hội. Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi đã tham gia các hoạt động đầu
tư để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại hiệu quả tương đối
tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình hoạt
động đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế ngay trong chính sách, chế độ và tổ
chức triển khai thực hiện. Vì vậy để thực hiện đúng với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn đối với mọi người lao
động tham gia và hưởng các chế độ BHXH; hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt
Nam cần phải tiếp tục cải tiến, hoàn thiện quản lý trên tất cả các hoạt động
của toàn ngành, đặc biệt là công tác quản lý tài chính.
Là người đã và đang tham gia trực tiếp quản lý trong lĩnh vực kế
hoạch tài chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tôi chọn đề tài "Quản lý tài
chính trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" nghiên
cứu để nhằm góp phần quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các loại vốn,
nguồn vốn và tài sản của Nhà nước, góp phần thúc đẩy BHXHVN phát triển
ổn định, vững chắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động của BHXH nói chung và quản lý tài chính BHXH nói riêng
cũng đã có những công trình được công bố như: "Thực trạng quản lý thu Bảo



3

hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu",
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 96-01-01/ ĐT, chủ nhiệm đề tài là
TS. Nguyễn Văn Châu; "Thực trạng và định hướng hoàn thiện tác nghiệp chi
trả các chế độ Bảo hiểm xã hội hiện nay", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
mã số 96-03-03/ĐT, chủ nhiệm đề tài là TS Dương Xuân Triệu. "Quản lý tài
chính Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn Thạc sĩ kinh tế
của tác giả Trần Quốc Toàn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm
1999... và nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí
khoa học (xem thêm phần phụ lục các tài liệu tham khảo của luận văn). Các
công trình trên đã đề cập khá nhiều vấn đề có liên quan đến hoạt động BHXH,
nhưng chưa đề cập toàn diện, chưa phân tích, đánh giá sâu nội dung và phương
thức quản lý tài chính của BHXHVN. Để thực hiện đề tài, tác giả đã tham
khảo, kế thừa có chọn lọc những công trình trên, kết hợp với khảo sát thực
tiễn, phân tích, đánh giá để đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài
chính trong BHXHVN.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Xác định những nội dung quản lý tài chính trong BHXHVN.
Phân tích đánh giá quá trình đổi mới phương thức quản lý tài chính qua các
giai đoạn, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính
trong BHXHVN.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động BHXH và quản lý tài chính
trong BHXHVN.
- Phân tích đánh giá thực trạng quản lý tài chính trong Bảo hiểm xã
hội Việt Nam để tìm ra những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN.



4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quản lý tài chính trong BHXHVN, thời gian chủ
yếu từ năm 1995 đến năm 2000.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chủ trương chính sách của Đảng được đề
ra trong các kỳ đại hội VI, VII, VIII và IX về lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ
các vấn đề cần quan tâm.
6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm cơ sở khoa học về khái niệm, bản chất, vai trò
của BHXH cũng như vấn đề quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính
trong BHXHVN, đề xuất mục tiêu, quan điểm và những giải pháp khả thi
nhằm hoàn thiện quản lý tài chính trong BHXHVN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI


1.1.1. Khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học
và được dự báo trước; con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất
ngờ có thể xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất,
hạn hán, hỏa hoạn...), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe
máy...), tai nạn trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc,
rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn
cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy
mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục những biến cố rủi ro đó. Những biện pháp phòng ngừa, né tránh và hạn
chế rủi ro thường được con người chủ động đưa ra các quy định cụ thể (bộ
luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư...) trong từng lĩnh vực
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống sinh hoạt xã hội để
buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên trong xã hội phải tuân thủ
thực hiện. Chẳng hạn như để phòng, chống lụt bão, Nhà nước ban hành Luật
về đê điều; để đề phòng tai nạn giao thông, Nhà nước ban hành Luật Giao
thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không...
Mặt khác, theo quy luật sinh học thì hầu như mọi người thường phải
trải qua các giai đoạn là: con người ta được sinh ra, được nuôi dưỡng đến lúc
trưởng thành; lao động cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, cho gia đình; tiếp


6

đến là giai đoạn hết tuổi lao động được xã hội, gia đình và lớp người tiếp theo
chăm sóc cho đến khi chết. Như vậy là trong toàn bộ cuộc đời, con người
không phải lúc nào cũng có đủ sức khỏe và cơ hội lao động để có thu nhập.

Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về
mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động và xã hội cần thiết phải
có một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần không những cho bản thân mình, mà còn cho cả những
người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những
biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) trong đời sống xã hội.
Thông thường người ta có hai nhóm các biện pháp khắc phục rủi ro là
các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp
phải rủi ro phải chấp nhận khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm
cho mình. Họ có thể chủ động lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc
phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân
hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường hợp không lập quỹ
dự trữ, dự phòng trước.
Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro
giữa những người cùng tham gia bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc,
chuẩn mực đã được thống nhất và quy định trước. Nhằm đảm bảo an toàn, ổn
định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của những người tham gia bảo hiểm
và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan trọng và có hiệu quả nhất để
khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho
mọi người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn
xã hội; đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển theo cùng với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Theo Tổ chức lao động Quốc tế


7

(ILO) thì nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) là nước đầu tiên trên thế

giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của
BHXH. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách
BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong
hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mặc dù đã có quá trình phát triển tương
đối dài, nhưng cho đến nay còn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái
niệm thống nhất. Trong đề tài này, có thể hiểu BHXH là sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động, khi họ gặp phải những
biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm,
chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành
bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài
chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân người lao động và những
người ruột thịt (bố, mẹ, vợ/ chồng, con) của người lao động trực tiếp phải
nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ban hành
Công ước số 102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó có quy
định 9 chế độ trợ cấp, đó là:
1. Chăm sóc y tế;
2. Trợ cấp ốm đau;
3. Trợ cấp thất nghiệp;
4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng);
5. Trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
6. Trợ cấp gia đình;
7. Trợ cấp thai sản;
8. Trợ cấp tàn tật;
9. Trợ cấp tiền tuất.


8

Đồng thời Tổ chức Lao động Quốc tế cũng khuyến nghị các nước thành

viên phải thực hiện ít nhất là 3 chế độ trong các chế độ nói trên. Trong ba chế
độ đó thì phải có ít nhất 1 chế độ là các chế độ 3, 4, 5, 8 và 9 [9, tr. 123-142].
1.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự
nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền
bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia
đình, của những người thân của họ mà còn phải là trách nhiệm của nhà nước
và của cộng đồng xã hội.
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi
là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm bảo đảm
an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong
xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, nhà nước
phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động,
đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ.
Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc
và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về
tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi
người lao động đến tuổi hưu... Đồng thời bản thân người lao động cũng phải có
trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có
những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là một người chủ sử dụng
lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những
khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có
trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho
người lao động.
Như vậy, BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách
quan. Nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên


9


phổ biến thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế
hàng hóa phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành
trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng
BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan
chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ
sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ
BHXH. Người lao động (bên được BHXH) và gia đình của họ được cung cấp
tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định.
Đó chính là mối quan hệ của các bên tham gia BHXH.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải
ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối
trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những
biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao
động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính
bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp
đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi
hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng – lấy số đông bù cho số
ít" tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của
từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã
hội cao; lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá
trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức
quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế



10

độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với
người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách
và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa BHXH và bảo hiểm
thương mại sẽ làm rõ hơn bản chất của BHXH.
Bảo hiểm thương mại là biện pháp chia sẻ tổn thất về mặt tài chính
của một hay một số ít người gặp phải một hay một số loại rủi ro nào đó, được
bù đắp bởi một quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của những
người tham gia bảo hiểm cũng có khả năng gặp phải rủi ro đó, thông qua hoạt
động quản lý của các nhà kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động của bảo hiểm thương mại theo nguyên tắc có tham gia bảo
hiểm mới được hưởng quyền bảo hiểm, đó là hoạt động kinh doanh kiếm lợi
nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tuân thủ theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế, lời ăn, lỗ chịu.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của các doanh nghiệp
bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [52, tr. 9].
Bảo hiểm thương mại có những đặc điểm khác với BHXH ở một số
nội dung sau:
- Phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại rất rộng, có mặt ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; không chỉ bó hẹp trong phạm vi
lãnh thổ một nước mà còn trải rộng xuyên quốc gia. Tuy bảo hiểm thương
mại có nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm nhưng xét theo phương thức quản lý có



11

thể chia thành hai nhóm nghiệp vụ bảo hiểm, đó là bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ.
"Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống hoặc chết", "bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo
hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc
bảo hiểm nhân thọ" [52, tr. 11-12]
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại là tất cả mọi đơn vị, tổ chức
và mọi công dân không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, màu da, có thu nhập
hay không có thu nhập, tình trạng sức khỏe… tự nguyện lựa chọn, tham gia
bảo hiểm và phải nộp phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Thời hạn có hiệu lực điều chỉnh quan hệ giữa đối tượng tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thường là có thời hạn và ngắn (một số năm
hoặc theo một chu kỳ hoạt động của đối tượng tham gia bảo hiểm); chẳng hạn
như bảo hiểm tai nạn giao thông các phương tiện vận tải thường là một năm;
bảo hiểm một chuyến vận chuyển, chuyến du lịch, bảo hiểm gieo trồng, chăn
nuôi … thường là theo một chu kỳ hoạt động, kinh doanh của đối tượng.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thương mại có thể tự chọn các sản
phẩm bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm bán ra, với mức được bù đắp,
bồi thường theo từng mức phí đóng góp và những điều kiện cụ thể khác của
đối tượng như: tình trạng tài sản, tình trạng về sức khỏe, giới tính, điều kiện
môi trường, lao động, sinh hoạt …
- Đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ được bồi thường thiệt hại khi xảy
ra rủi ro đối với họ. Mức độ bồi thường nhiều hay ít phụ thuộc vào mức phí
đóng góp và mức độ tổn thất thực tế được quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Không có liên quan gì đến thu nhập của họ có hay không và nhiều hay ít. Bảo
hiểm thương mại chỉ bù đắp được một phần tổn thất khó khăn tạm thời, cấp

bách cho người được hưởng bảo hiểm.


12

BHXH và bảo hiểm thương mại có tính chất, đối tượng, phương thức
và mục đích hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng có những nguyên lý hoạt
động mang tính phổ biến và nhất quán, mà bất kỳ loại hình bảo hiểm nào khi
hoạt động cũng phải tuân thủ, đó là:
Thứ nhất, bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro,
hỗ trợ lẫn nhau giữa những đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện
theo nguyên tắc "cộng đồng – lấy số đông bù cho số ít". Vì vậy, dịch vụ bảo
hiểm cần phải có đông người tham gia mới đạt được mục đích phân tán rủi ro,
tổn thất. Số người tham gia bảo hiểm càng đông thì mức độ tổn thất được
phân tán càng rộng, mức độ gánh chịu tổn thất của từng thành viên càng ít
hơn. Hình thành được quỹ bảo hiểm tập trung càng lớn, mức độ an toàn quỹ
bảo hiểm càng cao, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu chi trả
càng kịp thời, đầy đủ hơn cho người được thụ hưởng.
Thứ hai, quỹ bảo hiểm được hình thành từ sự đóng góp của những đối
tượng tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm phải được tính toán một cách khoa
học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức đóng góp của đối tượng tham
gia và mức hưởng thụ do quỹ phải chi trả; sao cho quỹ bảo hiểm phải được ổn
định, vững chắc trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn phải đảm bảo đủ nguồn lực
tài chính để chi trả kịp thời, đầy đủ các khoản bồi thường, trợ cấp cho đối
tượng được thụ hưởng.
Thứ ba, quỹ bảo hiểm được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính và
luật pháp của nhà nước quy định. Quỹ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi được thực
hiện các hoạt động đầu tư vừa góp phần cung cấp nguồn vốn để phát triển nền
kinh tế - xã hội; vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Khi thực hiện hoạt động
đầu tư quỹ phải đảm bảo an toàn; hạn chế rủi ro, thất thoát quỹ đến mức thấp

nhất, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo khả năng thanh toán linh hoạt.
1.1.2. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Vai trò của bảo hiểm xã hội


13

Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của
toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải là
mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau:
- BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm
bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc
làm, chết. Việc thay thế hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra đối với mọi người
lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động được hưởng lương hưu
hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất, mai táng phí). Việc bù đắp cũng chỉ
xảy ra đối với một số người đối với một số chế độ bảo hiểm còn lại như ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm... Nhờ có sự
đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh
chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn
định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản
thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất
và phương thức hoạt động của BHXH.
- BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong
BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa
những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những
người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe
mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải
những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy,

BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
- BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn
cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các
biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các
quy định chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi
người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ cho người lao động


14

khi có rủi ro xảy ra đối với họ; đồng thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ
ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khỏe.
- BHXH còn làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử
dụng lao động và nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của
BHXH, người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao
động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi vì chính người sử dụng lao động
đã tham gia đóng góp BHXH chỉ để cho người lao động được hưởng các chế
độ BHXH. Đối với người sử dụng lao động, khi họ có trách nhiệm thực hiện
đóng góp BHXH để người lao động được hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu
của người lao động đối với người sử dụng lao động, khuyến khích người lao
động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với người sử dụng
lao động hết đời này sang đời khác. Đối với nhà nước thông qua việc tổ chức
hoạt động BHXH đã đảm bảo cho mọi người lao động, mọi tổ chức, mọi đơn
vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời
sống xã hội, góp phần làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã
hội phát triển và an toàn.
- BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất
nước. Xét về phương diện tài chính thì BHXH là các quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung; quỹ được hình
thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ

trợ của Nhà nước; quỹ được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người
lao động và gia đình họ, một phần dùng để chi quản lý sự nghiệp BHXH.
Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng
quỹ BHXH theo nguyên tắc tồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi
người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo nguyên
tắc "tọa thu, tọa chi". Do tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi
ro phát sinh không đều về thời gian. Vì vậy, ngay trong mô hình quỹ được
thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi" thì trong một khoảng thời gian nhất


15

định, quỹ BHXH vẫn có số dư tạm thời nhàn rỗi. Đặc biệt là quỹ BHXH thiết
kế theo nguyên tắc tồn tích thì luôn luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn.
Đây chính là một nguồn vốn trong nước rất quan trọng, được hình thành từ sự
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, là sự "tiết kiệm tạm
thời" trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế của
đất nước. Nguồn vốn này càng trở nên rất quan trọng đối với những nước
đang thiếu nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn trong nước; mà nguồn
vốn là một trong những yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng và phát triển của
nền kinh tế.
Điều kiện quan trọng để người lao động được hưởng đầy đủ mọi
quyền lợi về BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử
dụng lao động cũng phải đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm
cho người lao động gắn bó với người sử dụng lao động hơn, làm cho quá trình
sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao hơn, tạo ra nhiều của cải
hơn cho xã hội và tích lũy xã hội cao hơn. Mặt khác, khi chính sách BHXH
được áp dụng đối với mọi người lao động sẽ tạo ra được một sự phân công lao
động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động năng
động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi

thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và
hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện cho người
lao động và người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm
việc phù hợp với nhu cầu, trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng
người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt
để nguồn lực lao động; vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao
động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…), làm tăng
của cải vật chất và tăng tích lũy cho nền kinh tế.
1.1.2.2. Vai trò của chính sách BHXH trong hệ thống chính sách xã
hội


16

Chính sách xã hội là tổng thể những tư tưởng, những quan điểm,
những phương thức, giải pháp và công cụ của Nhà nước mà thông qua đó Nhà
nước quản lý, tác động lên các chủ thể, các đối tượng là những tổ chức và mọi
thành viên trong xã hội, nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính sách xã hội có phạm vi tác động rất rộng lớn, tác động đến mọi
mặt đời sống của con người. Tùy theo điều kiện, đặc điểm, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng nước trong từng giai đoạn
mà ở đó nhà nước có thể ban hành những chính sách cụ thể về xã hội. Có thể
kể đến một số chính sách, đó là: chính sách về giáo dục, đào tạo, y tế, văn
hóa, dân số, bảo vệ bà mẹ trẻ em, xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã
hội, chính sách cứu trợ, chính sách việc làm và tiền lương, chính sách bảo
đảm xã hội (trong đó chính sách BHXH giữ vai trò nòng cốt)... Tất cả các
chính sách đó cùng được vận hành hòa quyện với nhau, tác động qua lại và
làm tiền đề cho nhau. Nhằm mục tiêu vì sự tồn tại, phát triển, hoàn thiện về
cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn của mỗi con người và của cả

cộng đồng xã hội.
Theo quan niệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: "Chính
sách BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương,
những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối
tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức thực
hiện các chế độ BHXH" [10, tr. 44].
Trong hệ thống chính sách xã hội thì chính sách BHXH có vị trí và vai
trò quan trọng, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau với các
chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề có liên quan đến con người.
Chẳng hạn như với chính sách việc làm và tiền lương; khi mọi người lao động
đều có việc làm, có thu nhập ổn định thì số người lao động tham gia BHXH
càng đông hơn. Khi thu nhập của họ tăng lên, tất yếu mức đóng góp vào quỹ


17

BHXH cũng tăng lên, tạo ra nền tảng vững chắc cho quỹ BHXH ổn định lâu
dài, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính phục vụ kịp thời nhu cầu chi trả trở lại
cho người lao động và gia đình của họ khi gặp rủi ro. Đồng thời tạo ra được
một quỹ BHXH lớn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư phát triển mở rộng, hiện đại
hóa sản xuất. Chính đến lúc này, chính sách BHXH lại tác động trở lại chính
sách lao động và tiền lương là việc mở rộng và hiện đại hóa sản xuất sẽ tạo
thêm nhiều việc làm cho người lao động, có năng suất lao động cao hơn dẫn
đến thu nhập của người lao động càng tăng thêm. Đó là sự tác động, hỗ trợ
lẫn nhau giữa chính sách việc làm và thu nhập với chính sách BHXH.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách bảo
đảm xã hội
Đảm bảo xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả mọi
thành viên trong xã hội, được thực hiện thông qua một loạt các biện pháp
công cộng để trợ giúp sự giảm sút, hẫng hụt đột ngột về kinh tế - xã hội của

con người, do bị suy giảm, mất việc làm, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh...
gây ra.
Con người trong suốt cuộc đời có thể gặp rất nhiều rủi ro bất ngờ do
suy giảm hay mất khả năng lao động, mất việc làm, do thiên tai, hỏa hoạn,
dịch bệnh, hậu quả do chiến tranh để lại … Phạm vi và mục tiêu của bảo đảm
xã hội rất rộng lớn, không chỉ đối với mọi thành viên trong một quốc gia mà
còn đối với cả cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống bảo
đảm xã hội dựa trên cơ sở đảm bảo sự bảo vệ, công bằng, đoàn kết, hỗ trợ,
không chỉ đơn giản là sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập; mà đó là sự chuyển
dịch thu nhập mang tính chất xã hội; để phân phối lại tài chính và dịch vụ có
lợi nhất cho những thành viên gặp những bất hạnh, rủi ro trong cộng đồng xã
hội. Nguồn tài chính để thực hiện quá trình phân phối lại đó được hình thành
từ sự tự đóng góp của chính những người được bảo vệ, của Ngân sách Nhà
nước, của các tổ chức, cá nhân từ thiện, nhân đạo của quốc gia hoặc quốc tế.


18

Tùy theo quan niệm và điều kiện lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà hệ thống bảo đảm xã hội được hình thành và có
những cơ chế bảo vệ và sự quản lý điều hành khác nhau. Nhưng có thể hiểu
một số cơ chế bảo vệ trong hệ thống bảo đảm xã hội đó là:
Một là, BHXH là chế độ và biện pháp mà nhà nước và xã hội áp dụng
nhằm bảo vệ quyền lợi cho bản thân người lao động và gia đình họ khi người
lao động giảm hoặc mất thu nhập do bị suy giảm, mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm, trên cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung từ sự đóng góp
của người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ và bảo trợ của nhà nước.
BHXH được coi là trụ cột quan trọng nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm
xã hội, vì nó đem lại một nguồn thu nhập ổn định để thay thế hoặc bù đắp trong
trường hợp thu nhập của người lao động bị giảm, bị gián đoạn hoặc mất hẳn.
Hai là, ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về vật chất và tinh thần của

nhà nước và của xã hội đối với những người đã cống hiến công lao, sức lực to
lớn cho xã hội, cho đất nước. Đó là những người đã cống hiến cả đời mình
cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Là những
liệt sĩ, là những thương binh, bệnh binh, những người có công với cách mạng,
với dân tộc, với đất nước. Đây là một chế độ đặc biệt quan trọng đối với những
đất nước, những dân tộc mà ở đó có cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng đất nước. Là một chế độ hợp với đạo lý "ăn quả nhớ kẻ trồng cây",
"uống nước nhớ nguồn", đền ơn đáp nghĩa. Tuyệt nhiên không được hiểu ưu
đãi xã hội là sự bố thí, ban ơn của một nhóm người này với một nhóm người
khác mà đó là một chính sách xã hội quan trọng nhằm bảo vệ, đảm bảo sự
công bằng xã hội đối với những người đã có công lao to lớn đối với xã hội,
đối với đất nước.
Ba là, cứu trợ xã hội được hiểu là sự giúp đỡ của xã hội và của nhà
nước đối với mọi thành viên của xã hội khi họ gặp phải rủi ro, nghèo đói,
thiên tai, hỏa hoạn, bệnh tật, neo đơn, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống


19

tối thiểu, nhằm tạo điều kiện cho họ vượt qua sự nghèo khó, vươn lên đảm
bảo được mức sống bình thường tối thiểu.
Bốn là, phúc lợi xã hội được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu, lợi ích về
kinh tế và văn hóa cho tất cả mọi thành viên trong xã hội; hay nói một cách
khác là làm cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi ích về kinh
tế và văn hóa, giáo dục, xã hội; để hạn chế sự cách biệt giữa những vùng lãnh
thổ (thành thị và nông thôn), giữa các tầng lớp dân cư có thu nhập và điều
kiện sống cao, thấp khác nhau.
1.2. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng

mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra để giải quyết những mối quan hệ kinh tế - xã
hội rất cụ thể. Nó được điều chỉnh bằng một hệ thống các văn bản pháp luật
của Nhà nước, quy định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của Nhà
nước, của người sử dụng lao động và người lao động.
Điều lệ Bảo hiểm xã hội đã ghi rõ:
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội: Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc quản
lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; xây dựng và trình ban hành pháp luật về bảo
hiểm xã hội; ban hành các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm
quyền, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo hiểm xã hội.
Chính phủ thành lập hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội thống nhất để
quản lý quỹ và thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo quy
định của pháp luật đối với người lao động.
Người lao động có quyền:
- Được nhận Sổ bảo hiểm xã hội;


20

- Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ, thuận tiện khi có
đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều lệ này;
- Khiếu nại với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người sử
dụng lao động hoặc tổ chức bảo hiểm xã hội có hành vi vi phạm Điều lệ bảo
hiểm xã hội.
Người lao động có trách nhiệm:
- Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định;
- Thực hiện đúng các quy định về việc lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội.
- Bảo quản, sử dụng sổ bảo hiểm xã hội và hồ sơ về bảo hiểm xã hội
đúng quy định

Người sử dụng lao động có quyền:
- Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của Điều lệ
bảo hiểm xã hội;
- Khiếu nại với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan bảo
hiểm xã hội có hành vi vi phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm:
- Đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định;
- Trích tiền lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội đúng
quy định.
- Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có
kiểm tra, thanh tra về bảo hiểm xã hội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cơ quan Bảo hiểm xã hội có quyền:


21

- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
các quy định để quản lý việc thu, chi về bảo hiểm xã hội và để xác nhận các
đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều lệ này;
- Tổ chức phương thức quản lý bảo hiểm xã hội để đảm bảo thực hiện
các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu quả;
- Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện bảo hiểm
xã hội;
- Từ chối việc chi trả chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng được
hưởng bảo hiểm xã hội khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu.
Cơ quan Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm:
- Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội đúng quy định;
- Thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đúng quy định tại Điều lệ này;
- Tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội kịp thời, đầy

đủ, thuận tiện;
- Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại bảo hiểm xã hội;
- Thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội
đối với người sử dụng lao động và người lao động" [21].
Như vậy, để thực hiện chính sách BHXH, Bảo hiểm xã hội Việt Nam
phải thực hiện rất nhiều nội dung quản lý, nhưng xét về phương diện tài
chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện quản lý các nội dung sau:
1.2.1. Quản lý thu BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn như: đóng góp của người
sử dụng lao động và đóng góp của người lao động; Nhà nước đóng và hỗ trợ;
tiền lãi thu được từ hoạt động đầu tư và tăng trưởng quỹ đem lại; tiền tài trợ


22

và viện trợ của trong và ngoài nước; các khoản thu khác (nếu có). Trong các
nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội nói trên, nguồn do người lao động và
người sử dụng lao động đóng góp là quan trọng, chủ yếu nhất. Nhưng quá
trình quản lý sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động
cũng phức tạp và khó khăn nhất. Vì vậy, trong nội dung này luận văn tập
trung nghiên cứu công tác quản lý sự đóng góp của người sử dụng lao động
và người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội (sau đây gọi tắt là công tác quản
lý thu bảo hiểm xã hội).
Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội chủ yếu tập trung vào ba nội
dung, đó là:
1.2.1.1. Quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
Các đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và phải đóng
bảo hiểm xã hội bao gồm cả người sử dụng lao động và bản thân người lao
động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công tác và điều dưỡng
ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ quan

và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội dưới
đây:
- Các doanh nghiệp nhà nước;
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công
nghiệp; các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt tại Việt
Nam (trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác);
- Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có
sử dụng từ 10 lao động trở lên;
- Các cơ quan hành chính sự nghiệp, các cơ quan Đảng, đoàn thể từ
Trung ương đến cấp huyện;


23

- Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự
nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể;
- Các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ trong lực lượng vũ trang;
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng cho quân nhân, công an nhân dân
thuộc diện hưởng lương và hưởng sinh hoạt phí theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội
đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995
của Chính phủ;
- Cán bộ xã, phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí tại khoản 1, 2, 3, 4,
5 Điều 3 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ;
- Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài đóng cho người lao động theo Nghị định số
152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ.
Để thực hiện tốt công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
cần phải thực hiện một số công việc sau:

- Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ
phận và cá nhân để quản lý, theo dõi, đôn đốc thu bảo hiểm xã hội đến từng
cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội. Chẳng hạn như Bảo hiểm xã hội Việt Nam
thực hiện quản lý đối tượng của khối quốc phòng - an ninh (Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ); Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố
thực hiện quản lý đối với các đơn vị (hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp, tổ
chức chính trị, xã hội, …) có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố (theo
lãnh thổ). Bảo hiểm xã hội huyện được Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố phân
cấp quản lý đối với một số cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp đến địa bàn
huyện, một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ và khối doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.


24

- Tiến hành cấp và ghi Sổ BHXH cho từng người lao động để theo
dõi, ghi chép kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng bảo hiểm xã hội của họ
theo từng thời gian (tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị, ngành nghề công
tác để sau này làm căn cứ xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cho họ.
1.2.1.2. Quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
Mức thu bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm
theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ là người sử dụng
lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động
trong đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, người lao động đóng bằng 5% tiền lương
tháng.
Theo quy định hiện hành thì tiền lương của người lao động và quỹ tiền
lương của cơ quan, đơn vị được xác định căn cứ vào từng người lao động ở
từng khu vực công tác, theo các mức đóng khác nhau, cụ thể là:
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội

quần chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các
đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số
35 NQ/UBTVQHK9 ngày 17/05/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX,
Quyết định số 69/QĐTW ngày 17/05/1993 của Ban Bí thư, Nghị định số 25/CP
ngày 17/05/1993 của Chính phủ, Quyết định số 574/TTg ngày 25/11/1993 của
Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 06/CP ngày 21/01/1997 của Chính phủ.
- Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lương tháng của người
lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các
quy định tại Nghị định số 26/CP ngày 23/05/1995 của Chính phủ.
- Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký hợp đồng lao động thì
đóng bảo hiểm xã hội tính trên tổng quỹ tiền lương hàng tháng, bao gồm
lương theo hợp đồng đã ký kết với người lao động có tham gia bảo hiểm xã


25

hội theo quy định và lương của người giữ chức vụ không áp dụng chế độ hợp
đồng lao động.
- Riêng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ
tiền lương của những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân
nhân, công an nhân dân đóng bằng 5% mức lương tháng. Mức thu BHXH đối
với quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí đóng bằng
2% mức lương tối thiểu theo tổng số quân nhân, công an nhân dân do Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an đóng.
- Đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu
người lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15%
mức lương tháng đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao
động chưa tham gia BHXH ở trong nước thì mức đóng BHXH hàng tháng
bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức trong
nước.

- Mức thu đối với cán bộ xã, phường, thị trấn bằng 15% mức sinh hoạt
phí hàng tháng; trong đó cán bộ xã, phường, thị trấn đóng 5% mức sinh hoạt
phí hàng tháng; ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn đóng bằng 10% mức
sinh hoạt phí tính trên tổng mức sinh hoạt phí của những người tham gia
BHXH.
1.2.1.3. Quản lý tiền thu BHXH
Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính
của Nhà nước; chỉ hình thành quỹ BHXH ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vì
vậy tất cả mọi sự đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải
chuyển hết về Bảo hiểm xã hội Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung.
Thực hiện nguyên tắc trên, các đơn vị BHXH tỉnh và huyện được mở các tài
khoản chuyên thu BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước. Các
đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu nhận tiền nộp BHXH của các đơn vị
và cá nhân tham gia BHXH và định kỳ chuyển toàn bộ số tiền thu được lên


×