MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
a/- Một trong những vấn đề mang tính phổ biến trong thời đại dân chủ
ngày nay là vai trò đặc biệt quan trọng của đảng chính trị và các tổ chức chính
trị - xã hội. Để phát huy vai trò chính trị, củng cố quyền lực, hầu hết các đảng
chính trị, các đoàn thể chính trị - xã hội đều có tổ chức chặt chẽ xuống đến
các đơn vị hành chính cơ sở, thậm chí cả trong các đơn vị kinh doanh và sự
nghiệp.
Đảng cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng Việt Nam: cách mạng tháng 8 thành công, kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ thắng lợi, non sông thu về một mối, đưa vào cả nước bước vào thời
kỳ quá độ lên CNXH, và hiện đang lãnh đạo công cuộc đổi mới đạt nhiều kết
quả.
Các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng đóng vai trò to lớn trong việc
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở chính trị vững chắc
của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới và bảo vệ Tổ quốc.
b/- Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng chủ trương: tiếp tục duy trì
và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự điều tiết của Nhà nước và theo định hướng XHCN; các doanh nghiệp
nhà nước phải là thành phần kinh tế gương mẫu đi đầu để hướng dẫn các
thành phần kinh tế khác; thừa nhận kinh tế thị trường tất yếu có cạnh tranh
quyết liệt, nhưng phải cạnh tranh lành mạnh, phát triển kinh tế phải đi đôi với
thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; kinh doanh phải
mang lại hiệu quả.... Đây là trách nhiệm lãnh đạo của các tổ chức Đảng, đồng
thời là những nội dung hoạt động, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội
trong doanh nghiệp.
1
Các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước - DNNN - các doanh
nghiệp tư nhân - DNTN) là những tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
Vấn đề đặt ra cho các DNNN là "phải nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của
khu vực doanh nghiệp nhà nước thì mới bảo đảm được vai trò chủ đạo của
nền kinh tế nhà nước, giữ vững định hướng XHCN" (1). Trong gần 20 năm đổi
mới, cùng với việc đổi mới cơ chế chính sách phát huy quyền tự chủ tài chính
và nghiệp vụ kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, sự
kiện toàn, đổi mới hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong các doanh
nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế và giữ
vững định hướng XHCN trong hoạt động của các doanh nghiệp.
c/- Sự lãnh đạo của Đảng và phát huy hoạt động của các đoàn thể chính
trị - xã hội, nhất là tổ chức công đoàn, là một trong những nhân tố đặc biệt
quan trọng trong đổi mới kinh tế và phát huy hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp hiện nay.
Tuy nhiên, để phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và tinh thần
làm chủ của các đoàn thể chính trị - xã hội, trong tổ chức và hoạt động của tổ
chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu, đổi mới cả về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động.
Về phía tổ chức Đảng:
+ Những năm qua, doanh nghiệp tư nhân (kể cả các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài) đang phát triển mạnh và ngày càng đóng vai trò quan
tọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp tư
nhân luôn dẫn đầu các thành phần kinh tế khác. Đảng và Nhà nước ta khuyến
khích kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định hướng XHCN và trong khuôn
khổ pháp luật. Vấn để tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân là
một vấn đề mới nhưng rất cấp thiết. Bởi Đảng lãnh đạo kinh tế không thể
buông lơi một số cơ sở nào. Đặc biệt trong các doanh nghiệp tư nhân ngày
càng tập trung đông đảo công nhân. Đảng phải tổ chức và lãnh đạo quần
2
chúng, một mặt tạo điều kiện cho cả nhà kinh doanh phát huy hết khả năng
đảm bảo sản xuất kinh doanh đúng pháp luật, và đảm bảo các quyền và lợi ích
chính đang của công nhân lao động trong các doanh nghiệp tư nhân.
+ Tổ chức cơ sở đảng trong nhiều doanh nghiệp nhìn chung hoạt động
tốt, góp phần vào sự tăng trưởng kinh doanh của đất nước. Tuy nhiên sự
chuyển biến của các tổ chức cơ sở đảng doanh nghiệp và sự đổi mới và chỉnh
đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) nói
chung còn chậm. Trong nền kinh tế thị trường, đảng viên và công nhân lao
động trong các doanh nghiệp hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều
vấn đề phức tạp. Việc giữ vững bản chất công nhân của Đảng đứng trước
thách thức mới. Nhưng "Đảng đã thiếu sự chuẩn bị kịp thời cho bước chuyển
biến này, dẫn đến tình trạng bản chất công nhân bị giảm sút, nhiều truyền
thống tốt đẹp như: quan hệ Đảng với nhân dân, đoàn kết thống nhất dân chủ...
đã bị lãng quên ở nhiều nơi, có nơi còn vi phạm nghiêm trọng. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất
cảnh giác cách mạng, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về
đạo đức lối sống"(15)
+ Bên cạnh các tổ chức đảng trong các DNNN, có nên có tổ chức đảng
trong các DNTN? và để có tổ chức đảng trong DNTN thì trước hết phải giải
quyết một vấn đề quan trọng là làm thế nào để phát triển đảng trong các
doanh nghiệp này? có nên kết nạp giới chủ vào Đảng không hay chỉ kết nạp
vào đảng những người lao động (họ - với tư cách là những người làm thuê)?
Những đảng viên hiện đang là chủ doanh nghiệp tư nhân, nếu họ quản lý
doanh nghiệp tốt, chấp hành đúng pháp luật, chính sách, thì có thể đưa họ vào
cấp uỷ hay không?
+ Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay về sự lãnh đạo của đảng trong các
doanh nghiệp, đặc biệt là: Mối quan hệ giữa lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng,
của cấp uỷ đối với doanh nghiệp và thủ trưởng doanh nghiệp phải được giải
3
quyết như thế nào? Đảng lãnh đạo DNTN thì có gì khác Đảng lãnh đạo trong
các đơn vị hành chính? Đảng lãnh đạo theo những phương thức nào, những
nội dung gì để không lấn sân vào quyền sản xuất kinh doanh của chủ doanh
nghiệp mà vẫn định hướng được hoạt động của doanh nghiệp? Đây là những
vấn đề phức tạp cần nghiên cứu và có câu trả lời.
Về phía các đoàn thể chính trị - xã hội:
+ Các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng. Đặc biệt tổ chức công đoàn - một tổ chức tương đối độc lập - Là
người đại diện quyền và lợi ích chính đáng của công nhân lao động, vì sự phát
triển của doanh nghiệp và vì lợi ích của chính mình.
+ Trong các doanh nghiệp tư nhân, người chủ sở hữu là tư nhân, công
nhân là người làm thuê thì mối quan hệ giữa tổ chức công đoàn và Chủ tịch
công đoàn với doanh nghiệp và Giám đốc doanh nghiệp thế nào? Trong các
doanh nghiệp tư nhân quyền lợi căn bản là thống nhất, nhưng xung đột lợi ích
khó tránh khỏi. Nhiều khi xung đột đó dẫn tới đình công bãi công, làm thiệt
hại cho giới chủ và cho nền kinh tế chung của đất nước. Những năm qua, các
tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp bước đầu đã biết phát huy vai trò
làm chủ của mình trong sản xuất, trong bảo vệ các quyền lợi chính đáng của
mình, trong việc thực hiện các thoả ước tập thể giữa công nhân lao động với
giới chủ. Tuy nhiên những kết quả hoạt động đó có nhiều hạn chế. Do đó,
việc củng cố và phát huy vài trò công đoàn và các tổ chức chính trị khác trong
doanh nghiệp tư nhân càng trở thành nhu cầu cấp thiết.
Tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị xã hội khác ở nhiều doanh
nghiệp hoạt động có hiệu lực. Tuy nhiên, nhìn chung các tổ chức chính trị - xã
hội hoạt động trong các doanh nghiệp còn kém, nhất là trong các doanh
nghiệp tư nhân. Công đoàn chưa thực sự đóng vai trò đại diện quyền và lợi
ích chính đáng của người lao động. Hơn nữa, trong các doanh nghiệp tư nhân,
4
hoạt động của tổ chức đảng và công đoàn còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan.
+ Đứng về góc độ thể chế, hoạt động của công đoàn thì đã có luật công
đoàn, luật khiếu nại, tố cáo, luật biểu tình.... quy định rất rõ quyền lợi và trách
nhiệm của người lao động trong doanh nghiệp và trong quan hệ với giới chủ.
Trong khi đó, Đảng là tổ chức chính trị đại diện quan trọng nhất thì không có
quy định pháp lý nào, và điều kiện này đã gây không ít khó khăn về tổ chức
hoạt động của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, nhất là DNTN.
Từ cách đặt vấn đề trên đây cho thấy, kiện toàn và phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng, hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội trong doanh nghiệp
là vấn đề rất quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới
Đảng và các đoàn thể nói riêng. Trên ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài "Vấn đề tổ
chức và hoạt động của Đảng trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng" làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊM CỨU.
Vấn đề củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu ở mọi
cấp độ quyền lực, từ vĩ mô (Trung ương) đến vi mô (cấp cơ sở xã phường).
- PGS.TS Tô Huy Rứa: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc
đổi mới. NXB CTQG, 2005
- Lê Đức Bình: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt: NXB CTQG Hà
Nội, 2003.
- TS Đặng Đình Tân (chủ biên): Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn. NXB CTQG, 2003
- Viện nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước - Bộ nội vụ: Hệ thống
chính trị cơ sở thực trạng và một số giải phap chủ yếu. NXB CTQG, 2004
5
- TS Nguyễn Văn Sáu, PGS.TS Trần Xuân Sầm, PGS.TS Lê Doãn Tá
(đồng chủ biên): Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong kỳ đổi mới đất
nước - Vấn đề và kinh nghiệm. Nxb CTQG, 2002.
Đặc biệt là nhiều công trình nghiên cứu về sự lãnh đaọ của Đảng và vai
trò của các đoàn thể chính trị - xã hội trong các đề tài nghiên cứu về hệ thống
chính trị, bao gồm cả các đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ. Tuy nhiên, các đề
tài này cũng chỉ nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của các thành tố
của hệ thống chính trị sở 4 cấp quyền lực tương ứng với 4 cấp hành chính.
Hầu như có rất ít công trình công trình nghiên cứu về những nội dung này
trong các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị sự nghiệp. Chẳng hạn có
thể kể ra một số công trinh sau:
- Viện công nhân và công đoàn - Tổng liên đoàn lao động Việt Nam:
Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài: Nxb, LĐ, Hà Nội 2003.
- TS Đặng Đình Tân: Thực hành dân chủ trong doanh nghiệp Nhà nước
- Vấn đề chính trị quan trọng hiện nay ở nước ta. Thông tin CHT 2003, số 15
- TS Nguyễn Văn Sáu: Nâng cao vai trò và phát huy hiệu lực lãnh đạo
của tổ chức đảng ở doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nghiên
cứu lý luận. 1997 số 9.
- TS Trịnh Đức Hồng, PGS, TS Dương Xuân Ngọc: Về đổi mới phương
thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng doanh nghiệp nhà nước NXB CTQG,
2002
- TS Trịnh Đức Hồng: Nét mới trong định hướng phát triển của Đảng
bộ khối công nghiệp Hà Nội. Lý luận chính trị 2000 số 5.
- Nguyễn Thị Mỹ Hiền: Thực hiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ" trong lĩnh vực khám chữa bệnh ở ngành y tế Bình
Thuận, Luận văn Đại học chính trị, 2003
6
- Phan Thị Thanh Hà: Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
trong các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Luận văn cao cấp chính
trị 2003.
Những công trình nghiên cứu trên đã phân tích khá sâu sắc trên nhiều
nội dung lý luận và thực trạng, những vấn đề hạn chế, bức xúc trong tổ chức,
hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu hay đề tài khoa học nào
nghiên cứu toàn diện các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp, nhất
là tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.
III. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN VĂN.
Trên cơ sở khảo sát, đánh gía các tổ chức chính trị xã hội trong các
doanh nghiệp (nhà nước và tư nhân), luận văn đề xuất những giải pháp nhằm
phát huy vài trò của các tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong
các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tổ chức đảng và công đoàn
trong các doanh nghiệp.
- Phạm vi và thời gian nghiên cứu: là tổ chức và hoạt động của các tổ
chức đảng và công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân ở Thành
Phố Đà Nẵng trong những năm từ năm 2001 đến nay.
V. CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn được thực hiện dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng Macxit, các quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về chính trị, chính đảng của giai cấp công nhân; các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng về xây dựng đảng, đoàn thể ở nước ta.
- Luận văn dựa trên sự phân tích chủ yếu từ thực trạng của các tổ chức
đảng, đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp ở Đà Nẵng, việc thực
hiện các Nghị quyết ở Thành Uỷ, UBND Thành phố; đặc biệt là các báo cáo
7
tổng kết hàng năm của các cơ quan quản lý, của Liên đoàn Lao động Thành
Phố, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ vể công tác công vận, các báo cáo chuyên
đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là kết hợp nghiên cứu
lý luận với điều tra, khảo sát; đặc biệt chú ý phương pháp tổng kết thực tiễn
để rút ra kết luận. Luận văn đồng thời cũng sử dụng rộng rãi các phương pháp
thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, logic - lịch
sử
VI. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu lực của tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp của Thành phố, đánh giá
ưu khuyết điểm, phân tích nguyên nhân của thành công cũng như tồn tại yếu
kém, kinh nghiệm, giúp cho các doanh nghiệp, các cơ quan có trách nhiệm
tham khảo.
Ý nghĩa của luận văn là góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của các tổ chức đảng, các đoàn thể trong các doanh nghiệp, nhằm phát huy
hơn hiệu lực lãnh đạo, hoạt động của mình trong doanh nghiệp. Ngoài ra luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Thành uỷ, UBND Thành phố, các cơ
quan và những ai đang quan tâm đến vấn đề này.
8
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA ĐẢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI NÓI CHUNG VÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÓI RIÊNG.
1.1.1. Vị trí và vai trò của Đảng cầm quyền - một số vấn đề chung
Đảng cầm quyền là đảng đã nắm được chính quyền, và sử dụng chính
quyền nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của giai cấp.
Ở Việt Nam, Đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền từ tháng 8/1945. Từ đó đến nay, Đảng là lực lượng chính trị duy nhất
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công cách mạng dân tộc, dân chủ, xây
dựng đất nước, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo đã có những thành tựu rất quan trọng, tạo tiền đề
vững chắc để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Từ khi chưa có chính quyền - Đảng hoạt động trong vòng bí mật, đến
khi có chính quyền là bước ngoặt cơ bản của các mạng Việt Nam. Vì vậy khi
có chính quyền, nhiệm vụ chính trị của Đảng ta đã thay đổi căn bản. Nếu
trước đây, nhiệm vụ chính trị chủ yếu của Đảng là lãnh đạo giai cấp và toàn
dân tộc đấu tranh lật đổi chế độ xã hội cũ để giành chính quyền; thì nay nhiệm
vụ chủ yếu và trung tâm là xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách
mạng đã đạt được. Lúc này, chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực lý luận đã chuyển
sang lĩnh vực thực tiễn. Lênin đã viết: "xét theo quan điểm chính trị đơn
thuần, thì điều mấu chốt hiện nay là ở chỗ: Trên những nét chủ yếu về cơ bản
thì chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ thuyết phục những người lao động Nga
và sự đúng đắn của cương lĩnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, và nhiệm vụ
giành lại nước Nga trong tay bọn bóc lột và trao nó cho những người lao
9
động; và hiệu nay nhiệm vụ chủ yếu được đề ra trước mắt là quản lý nước
Nga như thế nào"(25).
Và "chính sự chuyển biến đó - chuyển biến từ nhiệm vụ hàng đầu thuyết
phục quần chúng nhân dân, từ nhiệm vụ giành chính quyền và đè bẹp sự phản
kháng quân sự của bọn bóc lột sang nhiệm vụ quản lý nhà nước đang trở nên
nhiệm vụ hàng đầu - là đặc điểm chủ yếu của thời kỳ đang trả qua" (26). Ở nước
ta, sau khi giành được chính quyền, Hồ Chủ Tịch cũng đã chỉ ra: "Công việc
phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công việc dọn dẹp, sắp đặt, gìn giữ kiến
thiết"(14).
Đảng cầm quyền, nghĩa là Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về
vận mệnh của dân tộc, về sự phát triển toàn diện của xã hội, sự phồn vinh của
đất nước, sự tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nếu trước kia, nhiệm vụ
chủ yếu của Đảng là dùng bạo lực để đánh đổ chế độ xã hội cũ, thì nay nhiệm
vụ chủ yếu là lãnh đạo phát triển kinh tế, tổ hức và quản lý xã hội mới.
Tổ chức quản lý là một khoa học và là một nghệ thuật. Công việc đó,
giai cấp tư sản đã trải qua hàng trăm năm mới đạt được trình độ quản lý như
ngày nay. Đảng cộng sản cầm quyền (trong đó Đảng ta) chỉ mới trong một
thời gian rất ngắn so với lịch sử, nhiệm vụ mới đặt ra hết sức nặng nề, khó
khăn và gian khổ. Do đó, Đảng phải học hỏi, tìm tòi sáng tạo và phải có một
trình độ trí tuệ cao hơn để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Lê nin viết: "Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đại lịch sử, với tư
cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội, không bao giời diễn ra mà lại
không có một thời kỳ "tròng trành" hết sức dữ dội, một thời kỳ chán động,
đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà
không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa
chọn những phương hướng mới đáp ứng với tình thế khách quan mới " (27).
Người khẳng định: Trong việc đó không có cái gì là không thể thực hiện được
10
nếu chúng ta nhận thức được và có quyết tâm. ".... chúng ta sẽ học tập được
cách làm công tác đó vơi tất cả nhiệt tình cách mạng"(28).
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - cả lý luận và thực tiễn
hiện nay còn nhiều vấn đề chưa sáng tỏ. Nước ta lại phát triển trong điều kiện
từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa lại càng khó khăn gian khổ hơn nhiều; đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt,
tìm tòi, sáng tạo của Đảng, sự nhất trí và quyết tâm cao của toàn đảng, toàn
dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thành công. Hồ Chủ tịch đã
dạy: "Khó thì khó thật, nhưng chúng ta quyết tâm; chúng ta vừa làm vừa học
thì nhất định chúng ta vượt qua hết thảy những khó khăn đó"(26)
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ sắc bén để thông qua đó Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Khác với nhà nước tư sản,
nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của nó là nhà nước của dân, do dân vì
dân. Nhà nước giữ vị trí vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống chính trị.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện tập trung quyền lực của nhân
dân; thể hiện và thực hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích, quyền làm chủ của
nhân dân; nhân danh nhân dân để quản lý xã hội.
Sự lãnh đạo Đảng được thể hiện tập trung ở nhà nước và thực hiện chủ
yếu thông qua nhà nước. Khi có chính quyền, ngoài những công việc nội bộ
của Đảng, còn tất cả đường lối chủ trương, chính sách lớn của Đảng đều được
thể chế hoá thành chính sách và pháp luật của Nhà nước. Quyền lãnh đạo và
uy tín của Đảng trước hết được thực hiện thông qua Nhà nước. Nhà nước
mạnh, hoạt động có hiệu lực là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện vai trò
lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh tổng
hợp của hệ thống chính trị; trong đó Nhà nước là nòng cốt, do Đảng lãnh đạo.
Vì vậy, nâng cao vai vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc nâng
cao và phát huy vai trò hiệu lực quản lý của Nhà nước và của cả hệ thống
chính trị. Coi nhẹ hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
11
hệ thống chính trị là sai lầm về nguyên tắc. Mặt khác, Đảng bao biện làm thay
công việc của Nhà nước, của các tổ chức chính trị cũng là làm suy yếu vai trò
của các tổ chức ấy và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết đại hội
VIII của Đảng chỉ rõ: "Đảng lãnh đạo, phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực
của Nhà nước chứ không điều hành hay Nhà nước. Đảng và mọi đảng viên
đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về
các hoạt động của mình"(6). Thực tế hoạt động của Đảng trong những năm
qua, nhiều tổ chức Đảng đã lấn sân chính quyền, đến lượt mình, chính quyền
lại cam thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh; trong khi đó, nhiều
trận địa bị bỏ trống (như xây dựng tổ chức cơ sở Đảng) dẫn tới những vụ việc
phức tạp ở Thái Bình (1997) và Tây Nguyên (2001-2004). Điều đó làm cho
Đảng suy yếu, chính quyền không mạnh và doanh nghiệp mất đi năng lực tự
chủ, sáng tạo của mình. Vấn đề này đang được Đảng ta từng bước khắc phục.
Khi có chính quyền, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng nắm chính quyền, có một nguy cơ lớn mà
Lê nin đã từng cảnh báo các Đảng cộng sản là tình trạng quan liêu, xa rời
quần chúng. Trong các cơ quan Đảng và Nhà nước dễ nẩy sinh những hiện
tượng tiêu cực, lạm dụng và lợi dụng chức quyền để làm điều sai trái, vi phạm
lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín, đến vai trò lãnh
đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Hiện tượng này không gắn
với bản chất của Đảng, nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường nguy cơ
sa đoạ về phẩm chất là rất lớn. Điều này đòi hỏi kỷ luật của Đảng phải thật
nghiêm minh, pháp luật cảu Nhà nước phải chặt chẽ, cơ chế quản lý không
còn những kẻ hỡ, để kịp thời ngăn chặn và trừng trị những phần tử tiêu cực,
thoái hoá biến chất trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta
đang tích cực tìm các giải pháp khắc phục để làm trong sạch đội ngũ, đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội. Đây là cuộc đấu tranh gian khổ,
quyết liệt, và phức tạp; một thứ giặc "nội xâm" như Bác hồ từng dạy. Thắng
12
lợi trong cuộc đấu tranh này có ý nghĩa sống còn đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng, và sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Khi có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là xây dựng, sáng
tạo, trước hết trên lĩnh vực kinh tế. Cho nên phương pháp lãnh đạo của Đảng
đã thay đổi căn bản. Lê nin chỉ ra rằng: "Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta
phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng
sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua" (29). Lê nin nhắc nhở
những người cộng sản: Ai muốn dùng phương thức cũ trong cuộc đấu tranh
giành chính quyền để giải quyết những nhiệm vụ tổ chức thì người đó sẽ phá
sản hoàn toàn với tính cách là người chính trị, là người xã hội chủ nghĩa, "và
chúng ta bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng kinh tế của chúng ta trong cơ sở kinh
nghiệm của ngày hôm qua của ta, và chính đó là một điều sai lầm căn bản của
chúng ta"(30).
Vì thế khi có chính quyền Đảng phải biết loại bỏ những phương pháp cũ
không còn phù hợp. Có những phương pháp cũ nay còn phải sử dụng thì cần
được cải tiến cho phù hợp và phải bằng những hình thức mới. Quan trọng hơn
là phải sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới, phong phú đa dạng, phù
hợp với điều kiện phát triển của đất nước như: phương pháp sử dụng rộng rãi
hệ thống thông tin đại chúng, sử dụng bộ máy Nhà nước; các tổ chức quần
chúng trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, tổ chức Đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng để tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng hành
động cách mạng; phương pháp kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng với kích
thích lợi ích vật chất; phương pháp kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích xã hội; phương pháp kết hợp giáo dục với biện pháp hành chính
cưỡng bức; phương pháp kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng công tác tổ chức
và công tác kinh tế v.v..... Hiện nay, đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng,
nổi bật ở hai điểm sau đây:
13
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua tổ chức chứ không chỉ
thông qua cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng quyết định tập thể và bằng cách
theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra, uốn nắn hoạt động thực tiễn.
- Đảng lãnh đạo phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không
điều hành thay Nhà nước. Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chịu trách nhiệm về các hoạt động
của mình.
Chủ nghĩa xã hội, do bản chất giai cấp của nó tất yếu phải do Đảng cộng
sản lãnh đạo. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ không có chủ nghĩa xã
hội. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng là sai lầm căn bản, đưa đất nước ta đi
vào con đường tư bản chủ nghĩa.
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng là vị trí tiên phong của Đảng chứ
không phải là tổ chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của xã hội. Đảng vừa
là đội tiên phong chính trị của giai cấp, đồng thời là người lãnh đạo toàn xã
hội. Đảng chỉ không chỉ là đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn là
đại biểu lợi ích của nhân dân lao động và toàn xã hội. Trách nhiệm của Đảng
cũng nặng nề hơn. Đảng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước vận mệnh
phát triển của dân tộc. Do vị trí quan trọng như vậy, cho nên quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ở Việt Nam, vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng là do sứ mệnh lịch sử giao
phó. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng
hoảng về đường lối chính trị, thực chất là sự khủng hoảng về giai cấp tiên
phong lãnh đạo cách mạng. Giai cấp phong kiến mà đại diện là triều đình Nhà
Nguyễn đã đầu hàng; phong trào cần vương của các sĩ phu yêu nước đã thất
bại, phong trào nông dân tuy oanh liệt nhưng không thành công. Phong trào tư
sản, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã mau chóng thất bại. Đúng lúc đó,
lịch sử trao sứ mệnh cho giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt giai đoạn bế tắc về
14
đường lối cứu nước. Từ đây mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn
liền với Đảng. Không có Đảng, dân tộc ta, nhân dân ta không thể thoát khỏi
ách đô hộ áp bức, bóc lột hàng ngàn năm phong kiến, đế quốc; không thể
thoát khỏi sự bần cùng, lạc hậu và nghèo khổ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau là một đòi hỏi tất yếu
của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng
định: ".....ở nước ta không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì không thể có
độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, không thể có chủ nghĩa xã hội. Lúc bình
thường vài trò lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển
giai đoạn, vai trò đó lại càng quan trọng"(7).
Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam, hiện nay đó là vấn đề có tính quy luật có tính nguyên tắc. Buông lỏng
sự lãnh đạo của Đảng là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của Nhà
nước và của hệ thống chính trị trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta
có đủ trí tuệ và kinh nghiệm lịch sử để bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập. Sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, (trước
đây) đã để lại cho Đảng ta bài học sâu sắc về đa nguyên, đa đảng. Không phải
ngẫu nhiên mà các thế lực phản động trong âm mưu "diễn biến hoà bình"
phản cách mạng tập trung mũi nhọn hòng hạ thấp uy tín của Đảng, rêu rao về
dân chủ, nhân quyền kiểu Mỹ, nhằm mục đích làm chệch hướng con đường
xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta cần nhận
thức rõ ràng, đa nguyên chính trị chỉ là hình thức thực chất là nhất nguyên;
không phải đa nguyên chính trị mới có dân chủ và đảng duy nhất lãnh đạo là
độc đoán, chuyên quyền. Vấn đề đặt ra là, Đảng phải nhận thức đầy đủ nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phân rõ chức năng giữa Đảng và các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, để thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội.
15
Để hoàn thành mục tiêu đó, điều kiện quyết định trước hết là sự lãnh
đạo của Đảng. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn
bản thân mình để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Có như vậy
Đảng mới có uy tín cao, nhân dân tin cậy và ủng hộ Đảng tự giác thừa nhận
Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Mặt khác,
Đảng phải tăng cường lãnh đạo và xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, thực sự là đại biểu lợi ích cho nhân dân, thực
sự là của dân, vì nhân dân phục vụ, phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân,
tạo nên sự gắn bó máu thịt giữ Đảng và nhân dân.
Hiện nay, chúng ta đang mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới có thể đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mới phát huy được nhân tố tích cực, hạn chế và
khắc phục tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, trong quan hệ đối
ngoại; giải quyết tốt những vấn đề trong xây dựng Nhà nước pháp quyền. Sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của Tổ
quốc, của chế độ và xã hội chủ nghĩa và bản thân Đảng ta.
1.1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới kinh tế xã hội ở nước ta.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng;
đồng thời Đảng ta cũng không tránh khỏi thiếu sót, sai lầm, những giai đoạn
"tròng trành" trong lãnh đạo kinh tế xã hội, nhưng đã đứng vững, vượt qua
khó khăn thử thách đưa đất nước ta đạt được những thắng lợi quan trọng như
ngày hôm nay.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội của các đảng cộng sản (trong đó có Đảng
ta) là một quá trình. Suốt nhiều thập kỷ, các Đảng Liên Xô, Trung Quốc anh
em đã coi chủ nghĩa xã hội là một xã hội mà trong đó là nền kinh tế chỉ huy,
tập trung bao cấp cao độ với thành phần kinh tế thuần nhất là kinh tế quốc dân
16
và kinh tế tập thể; không thừa nhận kinh tế thị trường và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Công cuộc xây dựng kinh tế ở Liên xô giai đoạn đầu với phong trào
thi đua xã hội chủ nghĩa sâu rộng, nhân dân Liên xô đã đạt được những thành
tựu quan trọng. Tuy nhiên, đến đầu những năm 70 của thế kỷ hai mươi, nền
kinh tế - xã hội ở Liên xô đã bộc lộ những điểm yếu và ngày càng đi vào
khủng hoảng sâu sắc. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đã làm mất đi động
lực phát triển, làm tha hoá các giai cấp cơ bản trong xã hội như công nhân,
nông dân..v..v....
Đảng ta là Đảng cầm quyền nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, là
nước đi sau, không thể không ảnh hưởng những quan điểm trên. Nhìn lại lịch
sử thời kỳ cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thấy rõ những sai
sót trong tư duy lý luận và chỉ đạo của Đảng. Lúc đó đã có quan niệm sai lầm
cho rằng: quan hệ sản xuất phải đi trước một bước để mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Nhận thức chủ quan và nóng vội trên đây đã dẫn tới
những hậu quả khôn lường. Hàng tiêu dùng ngày càng khan hiếm, phải phân
phối từ cái kim, sợi chỉ. Trong nông nghiệp, các hợp tác xã ngày càng lụn bại,
thu nhập của xã viên ngày càng thấp, người nông dân không muốn sản xuất.
Khi đánh giá nguyên nhân của sản xuất nông nghiệp đình trệ, Đảng lại cho là
do quy mô hợp tác xã còn nhỏ. Do đó đi tới chủ trương xây dựng nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng quy mô hợp tác xã toàn xã, xây dựng huyện
thành "pháo đài cấp huyện", mở rộng quy mô tỉnh thành một đơn vị hành
chính công nông nghiệp hoàn chỉnh. Đó là thời kỳ mà chúng ta đã đi từ tự cấp
tự túc trong từng thôn làng, mở rộng ra tự túc, tự cấp khép kín đến từng
huyện, từng tỉnh.
Về lực lượng sản xuất, tuy trong văn kiện của Đảng có nêu: phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp
nhẹ và nông nghiệp....; nhưng trong thực tế đã ưu tiên quá mức cho công
nghiệp nặng, chưa chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp
hàng tiêu dùng. Về quy mô, quá thiên về quy mô lớn. Cơ cấu kinh tế và cơ
17
cấu đầu tư bất hợp lý, phần lớn thiết bị công nghệ lạc hậu, do đó hiệu quả
kinh doanh thấp kém, lỗ kéo dài.
Về cơ chế quản lý, kéo dài cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Trong
chiến tranh cơ chế bao cấp còn có nhân tố hợp lý (thực tế do quy luật chiến
tranh chi phối); song trong điều kiện hoà bình cơ chế đó đã tỏ ra trì trệ lạc
hậu. Thực tế chúng ta đã duy ý chí, vi phạm quy luật kinh tế, kìm hãm sức sản
xuất, tự trói mình bởi chủ nghĩa giáo điều. Đến năm 1985, với sai lầmcủa chủ
trương giá - tiền - lương; kinh tế - xã hội nước ta đã rơi tới đáy của cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 10 năm trời.
Đổi mới kinh tế - xã hội là một nhu cầu tất yếu khách quan và bức xúc
để đưa đất nước ta phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta bước vào thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế. Nhận thức để đổi mới cũng là một quá trình. Nhân dân ta
với thực tế sản xuất và đời sống đã "khoán chui" trong nông nghiệp như ở Hải
Phòng và Hà Tây, và "phá rào" trong các doanh nghiệp. Trước những thực
tiễn ấy, Đảng ta đã thật sự cầu thị, lắng nghe ý kiến nhân dân, và ra đời chỉ thị
100 và ba phần kế hoạch trong công nghiệp. Khoán 10 đi vào cuộc sống và
tạo ra sự phát triển vượt bậc trong nông nghiệp và khởi sắc rõ rệt trong nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đã vạch ra những sai lầm khuyết
điểm trầm trọng trong hơn 10 năm qua, trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân
và vạch ra phương hướng sửa chữa.
Văn kiện đại hội VI chủ rõ "......, trong mười năm qua đã phạm nhiều sai
lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế"(8).
Nguyên nhân của tình trạng trên"do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải
18
qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ
qua những bước đi cần thiết. Đại hội lần thứ IV chưa xác định những mục tiêu
cuả chặng đường đầu tiên. Trong những năm 1976-1980, trên thực tế, chúng
ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề
cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý đã lỗi thời"(9).
Đại hội đã phân tích những sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, về cải tạo xã
hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông.v..v...
Đại hội VI của Đảng, trước hết đổi mới về tư duy. Chúng ta đã nhận
thức lại, rằng: "Nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản vẫn chưa hết khả năng phát
triển......"(10). "Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ
một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương
nhiên phải làm lâu dài và rất khó khăn" (11). Trong quan hệ sản xuất "phải có
chính sách mở đường cho người lao động tự tạo việc làm, kích thích mọi
người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích luỹ, mở
rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội" (12). Về cơ chế quản lý, khẳng định
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp "sử dụng đúng đắn quan hệ, hàng
hoá - tiền tệ....."(13).
Đảng cộng sản Việt Nam là người khởi xướng và lãnh đạo thành công
công cuộc đổi mới. Chỉ có Đảng ta mới làm được sự nghiệp to lớn này, và
không có một lực lượng chính trị nào khác ở Việt Nam có thể làm được. Để
định hướng lên chủ nghĩa xã hội, Đảng phải nhận thức được chủ nghĩa xã hội
gì? Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa đã vạch
rõ: "Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
19
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới"(14).
Qua các Đại hội VII, VIII, IX của Đảng, Đảng ta phát triển ngày càng
sâu rộng hơn đường lối đổi mới, tổ chức chỉ đạo thực tiễn, giành được những
thành tựu vô cùng quan trọng.
Trong 10 năm (1991-2000), chúng ta đã đạt được nhưng thành tựu chủ
yếu.
- Kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tăng tương đối cao; đưa đất
nước ra khỏi siêu lam phát và khủng hoảng kinh tế. Từ 1991 đến 2000 tổng
sản phẩm trong nước tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Nhờ vậy, đến cuối năm
2000 tổng sản phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần năm 1990, vượt mục tiêu
tổng quát đã đề ra.
Một trong những thành tựu kinh tế lớn nhất trong 10 năm qua là phát
triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực. Đến nay vấn đề an toàn
lương thực đã được giải quyết, năm 2000 đạt 35,6 triệu tấn, tăng 14,1 triệu tấn
so với năm 1990, bình quân lương thực đầu người tăng từ 327,5kg năm 1990
lên 458,2 kg năm 2000. Diện tích cây công nghiệp hàng năm năm 2000 đã đạt
808,7 nghìn ha, gấp 1,5 lần 1990. Diễn tích cây ăn quả 541 nghìn ha gấp 1,9
lần. Diện tích cây công nghiệp lâu năm 1,4 triệu ha, gấp 2,1 lần. Chăn nuôi
năm 2000 tăng 75% so với 1990.
Sản xuất công nghiệp tốc độ tăng bình quân mỗi năm 13,6%. Tính theo
giá trị sản xuất thì quy mô sản xuất công nghiệp đã tăng gấp 3,6 lần năm
1990. Những sản phẩm quan trọng như khai thác than đạt trên 10,8 triệu tấn,
20
gấp 2,3 lần năm 1990; dầu thô 16,3 triệu tấn, gấp 6 lần; điện 26,6 tỷ kwh, gấp
3 lần; xi măng 13,3 triệu tấn gấp 5,3 lần; thép cán 1,7 triệu tấn gấp 16,5 lần;
phân hoá học 1,3 triệu tấn, gấp 3,7 lần....
- Cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cơ cấu ngành, đã giảm tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu vùng kinh tế càng bắt
đầu có sự chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển
kinh tế, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất
quy mô lớn. Cơ cấu các thành phần kinh tế phát triển đa dạng, bao gồm 6
thành phần kinh tế.
- Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cơ bản hoàn thành, cho
phép chuyển sang giai đoạn hoàn thiện cơ chế mới theo chiều sâu.
- Đã thành công trong việc mở cửa, hội nhập quốc tế, phá thế bao vây,
cấm vận kinh tế và thương mại. Chúng ta thực hiện phương châm "Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước". Sau nhiều năm thực hiện chính sách cấm
vận và bao vây kinh tế chống Việt Nam, ngày 11/7/1995 Mỹ đã tuyên bố bình
thường hoá quan hệ ngoại giao với nước ta và ngày 12/7/1995 hai nước đã
thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 17/7/1995 nước ta và Liên minh Châu âu
đã ký hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật.
Ngày 28/7/1995 nước ta đã trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các nước
Đông Nam Á. Năm 1998 nước ta đã tham gia diễn đàn kinh tế các nước Châu
Á - Thái Bình Dương - APEC. Tháng 7/2000 nước ta ký hiệp định thương
mại với 61 nước, trong dó có Mỹ, góp phần đưa tổng số nước có quan hệ
ngoại thương với nước ta từ con số 50 nước năm 1990 lên 170 nước và vùng
lãnh thổ vào năm 2000.
Nhờ vậy, tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2000 đã đạt 29,5 tỷ
USD, gấp 5,7 lần năm 1990; trong đó xuất khẩu đạt 14,3 tỷ USD, gấp 6 lần;
nhập khẩu đạt 15,2 tỷ USD, gấp 5,5 lần. Các nhà tài trợ quốc tế đã dành cho
21
Việt Nam số vốn ODA lên tới 17,5 tỷ USD và 1,2 tỷ hỗ trợ cải cách kinh tế.
Trong 10 năm 1991-2000 đã cấp giấy phép cho 2940 dự án đầu tư nước ngoài
với tổng số vốn đăng ký 37,3 tỷ USD.
Giai đoạn 2001-2005, đất nước ta tiếp tục tăng trưởng khá. Năm 2004
tốc độ tăng trưởng đạt 7,7%, trong đó khu vực dịch vụ tăng đột biến với mức
tăng 7,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ trên 28,9%, đạt giá trị trên 26 tỷ
USD. Kinh tế tư nhân đạt mức tăng trưởng rất cao, góp vào tăng trưởng GDP
khoảng 42%. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm
quốc nội ngày càng tăng: năm 2000 là 36,7% lên 40,1% năm 2004. Tỷ trọng
ngành nông, lâm ngư nghiệp từ 24,5% xuống còn 21,7% và ngành dịch vụ
duy trì ở mức trên 38%.
- Đời sống các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp văn hoá,
giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng cường. Kết
quả các cuộc điều tra mức sống nhân dân cho thấy; thu nhập bình quân mỗi
người 1 tháng của các hộ đã tăng từ 92,1 nghìn đồng năm 1992 lên
206,1nghìn đồng năm 1995 và 295 nghìn đồng năm 1999. Tỷ lệ đói nghèo đã
giảm từ 55% năm 1990 xuống còn 16,5% năm 1995 và 11,3% năm 2000 (tiêu
chí nghèo đói cũ).
Năm 2000 chúng ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học. Theo đánh giá của tổ chức phát triển Liên hiệp
quốc (UNDP) thì chỉ số giáo dục của nước ta năm 1999 đứng thứ 92/174
nước, góp phần nâng chỉ số phát triển con người 110/174 nước năm 1999, xếp
trên nhiều năm trong khu vực như Ấn Độ, Pakistan, Myanma Bănglađét.
Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cũng có những tiến bộ
đáng kể. Số thầy thuốc (từ trung cấp trở lên) tính bình quân cho 1 vạn dân đã
tăng từ 10,8 người năm 1990 lên 11,7 người trong năm 1999, số bác sĩ bình
quân 1 vạn dân cũng tăng từ 3,6 người lên 4,9 người.
Tuy kinh tế - xã hội còn có những yếu kém; nhưng rõ ràng dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành tựu rất lớn; đưa nước ta ra
khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, bước vào thời kỳ đẩy
22
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, có bước tăng trưởng cao so với khu vực
và quốc tế (chỉ đứng sau Trung Quốc). An ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội được giữ vững; theo đánh giá của người nước ngoài, nước ta là một trong
những nước có ổn định xã hội và an toàn nhất trên thế giới.
Vai trò và uy tín của Đảng ta được năng cao rõ rệt. Trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa của chỉ có Trung Quốc và Việt Nam đổi mới thành công. Do sai
lầm trong đổi mới và nhiều vấn đề khác, Liên xô và các nước Đông Âu sụp
đổ. Cu Ba và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên đang gặp những khó
khăn. Như vậy không phải chỉ bỏ bao cấp đi, thì tự nhiều đất nước sẽ đi lên.
Sự lãnh đạo của Đảng, trước hết trong chủ trương đường lối đúng, có bước đi
và phương thức đổi mới phù hợp có vai trò quyết định. Tập trung vào đổi mới
kinh tế, từng bước đổi mới chính trị xã hội. Để đổi mới kinh tế thành công,
trước hết phải đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới công tác tổ
chức cán bộ. Trong suốt thời kỳ quá độ, Đảng ta coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, và của Đảng ta về vai trò tổ chức cơ sở Đảng.
Thuật ngữ tổ chức cơ sở Đảng lần đầu tiên được VI. Lê nin đưa ra trong
đại hội III Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (25/4/1905): mỗi tổ chức
Đảng cho tới chi bộ công nhân phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với
Trung ương. Sau đó, trong bài viết "Tiến tới thống nhất", Lênin nhấn mạnh
"Những điều kiện khách quan đòi hỏi rằng những chi bộ công nhân hợp pháp,
nhỏ về quy mô và về hình thức công tác hiện nay phải làm cơ sở của tổ chức
Đảng"(31)
Ngay từ đầu của phong trào công nhân quốc tế, Mác - Ăngghen đã chỉ
rõ: "Liên đoàn phải tổ chức thành chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, ban chấp hành
Trung ương và đại hội từ đó lấy tên là Liên đoàn những người cộng sản" (36).
Để thực hiện mục đích của Liên đoàn là lật đổ giai cấp tư sản, Liên đoàn phải
được tổ chức lại và có như vậy "Liên đoàn những người cộng sản mới bắt đầu
giữ vai trò lãnh đạo trong những hội công nhân, nông dân và các hội khác" (37)
23
Mác - Ăngghen còn nhấn mạnh: Biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân
của hiệp hội công nhân. Chi bộ có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện nghị quyết
của Liên đoàn những người cộng sản và quản lý đảng viên.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin đã tập trung
chăm lo xây dựng và phát triển các tổ chức Đảng bằng cách xác lập vai trò
lãnh đạo của các tổ chức công nhân xã hội chủ nghĩa trong các nhà máy, công
xưởng, khu dân cư..., phát triển thành chi bộ cơ sở của Đảng Bônsêvích.
Lênin viết: "Những chi bộ đảng viên liên hệ chặt chẽ với nhau, phải làm cho
công tác cổ động, tuyên truyền; công tác tổ chức thích nghi với mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động.
Những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ mà rèn luyện
mình, rèn luyện đảng viên, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống"(32)
Lãnh đạo thực hiện chính thức kinh tế mới, Lênin nhấn mạnh: Để giành
được thắng lợi trong bước chuyển có tính chất chiến lược này, các tổ chức cơ
sở đảng phải đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy tính chủ
động, sáng tạo lớn hơn nữa ở cơ sở. Lê nin nhiều lần nhấn mạnh: Tổ chức cơ
sở đảng là nền tảng của đảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản, là tế bào trong tổ
chức của đảng, hạt nhân chính trị của đảng ở cơ sở và có mối liên hệ chặt chẽ,
sâu rộng với quần chúng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, đặt
ra. Các tổ chức cơ sở vững mạnh thì các cấp bộ đảng mới mạnh, toàn Đảng
mới mạnh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Trong diễn văn bế
mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, thay
mặt cho Đại hội và 50 vạn đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất mạnh: "Mỗi
chi bộ phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước,
cầm kiện, xây dựng Nhà nước. Mỗi cấp uỷ Đảng phải là động cơ mạnh mẽ
thúc đẩy phong trào cách mạng sôi nổi tiến lên" (21). Người còn nhấn mạnh:
24
"Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở,
đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng phát huy được trí tuệ và
lực lượng vĩ đại của quần chúng"(22).
Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ: Cần phải nắm vững đường lối, chính sách
của Đảng, chịu khó đi sâu, đi sát cở sở để hiểu rõ tình hình sản xuất, đời sống
của nhân dân, tình hình các tổ chức đảng, chi bộ và các đoàn thể quần chúng
mà có chủ trương, biện pháp cho đúng, cho kịp thời.
Người cho rằng: "Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc
sẽ tốt"(23). Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Chi bộ là gốc rễ của Đảng, là nền tảng của
Đảng. Đảng mạnh là do chi bộ đều mạnh. Chi bộ là đồn luỹ của Đảng chiến
đấu trong quần chúng. Chi bộ là sợ dây chuyền để liên hệ Đảng với quần
chúng lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây
dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.
Người chỉ rõ. "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi
bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt"(24).
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta khẳng định vị trí quan trọng và trách
nhiệm nặng nề của tổ chức cơ sở đảng.
Hội nghị thành lập Đảng (3-2-1930) đã quy định hệ thống tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Đảng bao gồm các chi bộ
ở cơ sở (nhà máy, công xưởng, hầm mỏ, đồn điền, đường phố) đến huyện bộ,
thi bộ, khu bộ, tỉnh bộ, thành bộ và Trung ương.
Điều lệ Đảng công sản Đông dương (tháng 10-1930) khẳng định: chi bộ
(nhà máy, công sở, trường học....) là "căn bản tổ chức của Đảng". Điều lệ do
Đại hội lần thứ nhất thông qua chỉ rõ: "Căn bản về đường lối tổ chức của
Đảng là chi bộ sản nghiệp (nhà máy, mỏ, đồn điền, công xưởng, công sở, trại
lính....) tất cả đảng viên nằm trong một sản nghiệp đều phải vào trong chi bộ
25