Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC SĨ - VỀ TỔ CHỨC THỰC TIỄN của cán bộ cấp HUYỆN ở TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.11 KB, 101 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thắng lợi, cần
phải tổ chức thực hiện những mục tiêu mà các nghị quyết của Đảng đã đề
ra. Nghĩa là phải hiện thực hóa những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu mà sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đòi hỏi. Muốn vậy, phải nâng
cao hơn nữa hiệu quả, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung và cấp huyện nói riêng. Đây là vấn đề quyết định
đến sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề đặt ra là có nâng cao được hiệu quả và
năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ thì mới có thể hiện thực hóa
được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước
vào trong đời sống xã hội.
Hơn nữa, thông qua quá trình tổ chức thực hiện chủ trương chính
sách, nghị quyết của Đảng; pháp luật của Nhà nước vào trong cuộc sống, sẽ
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung và cán bộ cấp huyện nói riêng.
Vấn đề nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn không chỉ quan trọng
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, Trung ương mà còn đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện nhất là cấp huyện miền núi. Bởi vì, đối với
miền núi, cấp huyện có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong quá trình tổ
chức, triển khai thực hiện các chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước vào trong đời sống ở cơ sở. Vì cơ sở là mắt khâu cuối
cùng để kết nối chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước thành một chỉnh thể hoàn chỉnh cho sự phát triển.
Đồng thời, cơ sở còn là cấp để kiểm nghiệm tính phù hợp hay chưa phù hợp
của các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.



2

Đối với miền núi phía Bắc nói chung, vai trò của cấp huyện vô cùng quan
trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp huyện, cũng
như việc phát huy hiệu quả tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cấp huyện
nói chung và cán bộ huyện ở Điện Biên nói riêng là vấn đề có ý nghĩa thời
sự và rất cấp thiết. Bởi lẽ, đối với các tỉnh miền núi Tây Bắc nói chung,
Điện Biên nói riêng, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở còn rất thiếu và yếu. Cho nên
cấp huyện vẫn là cấp tiến hành thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Điện Biên trong những năm
qua đã và đang góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
an ninh trật tự, an toàn xã hội của tỉnh, đặc biệt là trong quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực tiễn các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng;
pháp luật của Nhà nước vào trong cuộc sống.
Điện Biên là một tỉnh mới được chia tách từ tỉnh Lai Châu (cũ). Do
đó, mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... có nhiều biến động. Đồng
thời, với việc thành lập một số huyện mới, tỉnh mới tái lập đang đặt ra
nhiều vấn đề. Để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thì vai trò của đội
ngũ cán bộ chủ chốt của Điện Biên nói chung và cán bộ cấp huyện nói
riêng là hết sức to lớn trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ
trương đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước
vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, việc tổ chức thực tiễn và
hiệu quả của nó còn chưa ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh với tất cả vì mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất phát từ thực



3

tiễn đó, tác giả lựa chọn: "Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp huyện
ở Điện Biên hiện nay", làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Những vấn đề về hoạt động thực tiễn và tổ chức thực tiễn đã được
nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác
nhau; cụ thể là:
+ C.D. Vi-si-an-ni với tác phẩm: Lãnh đạo quản lý, Nxb Thông tin
Văn hóa, 1980.
+ Giáo sư Nguyễn Đức Bình với tác phẩm: Mấy vấn đề về tổ chức
thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983.
+ PGS.TS Nguyễn Hải Khoát với bài: Năng lực tổ chức thực tiễn
và việc rèn luyện năng lực tổ chức, Tạp chí Cộng sản, số 4, 1983.
+ V.G.Apha-na-xép: Lao động của Người quản lý lãnh đạo, Nxb Thông
tin Văn hóa, 1991.
+ PGS.TS Hồ Văn Vĩnh với bài: Nâng cao trình độ năng lực quản
lý của cán bộ chủ chốt hiện nay, Tạp chí Lý luận, số 1, 1994.
+ TS. Trần Văn Phòng với bài: Nâng cao năng lực tổng kết thực
tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, Tạp chí Lý luận chính,
số 3, 2002.
- Đặc biệt là tác giả: Phạm Văn Hai với luận văn thạc sĩ: Nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực
tế Long An), 1997 và tác giả Phạm Văn Liên với luận văn thạc sĩ: Vấn đề tổ
chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở Ninh Thuận hiện
nay (năm 2002). Các tác giả trên đã đề cập đến nhiều vấn đề tổ chức thực
tiễn và nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Long An và Ninh Thuận một cách tương đối có hệ thống và mang



4

tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, các công trình này chỉ giới hạn ở cán bộ cấp
cơ sở ở tỉnh Long An và Ninh Thuận.
Việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta vào tìm hiểu những vấn đề nâng cao hiệu quả
tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở Điện Biên
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn là vấn đề cần thiết. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu với mong muốn góp phần nhỏ bé
của mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội Điện Biên.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ
cấp huyện ở Điện Biên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước
nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ này.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm rõ vai trò của tổ chức thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản
lý của đội ngũ cán bộ cấp huyện nói chung, cấp huyện ở Điện Biên nói riêng.
+ Phân tích thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp
huyện ở Điện Biên cũng như nguyên nhân của thực trạng ấy.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ
chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ nói
chung, mà chỉ tập trung vào khảo sát, nghiên cứu đội ngũ cán bộ cấp huyện
ở Điện Biên.
+ Từ việc xác định phạm vi và đối tượng nghiên cứu như vậy, nên
luận văn không nghiên cứu đối tượng cán bộ trên góc độ của khoa học xây



5

dựng Đảng, khoa học tâm lý, khoa học chính trị hay ở một bộ môn khoa
học khác. Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề tổ chức thực tiễn của đội ngũ
cán bộ cấp huyện ở Điện Biên, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan
điểm, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng về vấn đề cán bộ và vai
trò tổ chức thực tiễn của người cán bộ nói chung, người cán bộ cấp huyện
nói riêng. Đồng thời luận văn kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả
của các tác giả đi trước về vấn đề này.
- Luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như: Phương
pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn bước đầu góp phần nhỏ bé vào việc làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn của vấn đề tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở
Điện Biên trong giai đoạn hiện nay. Luận văn tập trung vào phân tích kết
cấu, vai trò và tầm quan trọng của tổ chức thực tiễn đối với cán bộ cấp
huyện trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - chính trị
- xã hội ở địa phương. Đồng thời thông qua đó, luận văn đã từng bước làm
rõ được thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện
Biên. Trên cơ sở đó luận văn bước đầu mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở
tỉnh Điện Biên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Qua kết quả nghiên cứu của tác giả, luận văn có thể phần nào

dùng làm cứ liệu tham khảo trong việc xây dựng, hoạch định chính sách,
chiến lược và quy hoạch cán bộ cấp huyện, cấp cơ sở của Điện Biên.


6

- Kết quả đạt được của luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở Trường Chính trị
tỉnh Điện Biên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được chia làm 2 chương, 4 tiết.


7

Chương 1
TỔ CHỨC THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ
CẤP HUYỆN Ở ĐIỆN BIÊN

1.1. THỰC CHẤT CỦA TỔ CHỨC THỰC TIỄN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC THỰC TIỄN

1.1.1. Thực chất của tổ chức thực tiễn
Thực tiễn bắt nguồn từ tiếng Hy lạp (Pratica) có nghĩa là hoạt động
tích cực, chủ động. Trước khi triết học Mác ra đời đã có nhiều quan điểm
khác nhau về thực tiễn. Phoi-ơ-bắc coi thực tiễn là những hoạt động có tính
chất con buôn, tầm thường. Điđơrô là nhà triết học có tư tưởng khá tiến bộ
về thực tiễn cũng chỉ dừng lại ở chỗ cho thực tiễn là những hoạt động thực

nghiệm khoa học... C.Mác đã chỉ rõ, nhược điểm căn bản của chủ nghĩa
duy vật cũ đó là chủ nghĩa duy vật trực quan.
Các nhà triết học duy tâm đã thấy vai trò tích cực, sáng tạo của con
người nhưng chỉ giới hạn tính tích cực, sáng tạo đó trong lĩnh vực hoạt
động tinh thần. Theo Hêghen, nhà duy tâm khách quan thì thực tiễn là hoạt
động có ý chí của tư tưởng.
Những nhà duy tâm chủ quan lại cho rằng, hoạt động thực tiễn bị
chế định bởi ý chí, bản năng hoặc những nhân tố tiềm thức. Chẳng hạn, nhà
triết học người Mỹ W. James coi kinh nghiệm tôn giáo là thực tiễn tức là
những hoạt động tinh thần thuần túy. Như vậy, hạn chế lớn nhất của chủ
nghĩa duy tâm về thực tiễn là ở chỗ, nó tuyệt đối hóa những hoạt động tinh
thần, tư tưởng, hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần thuần túy. Như
vậy, về thực chất họ đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn.


8

Theo C.Mác quan hệ khởi nguyên, đầu tiên của con người đối với
giới tự nhiên là quan hệ thực tiễn. Ông viết: "Con người hoàn toàn không
bắt đầu từ chỗ ở trong quan hệ lý luận đối với những vật của thế giới bên
ngoài... mà tích cực hoạt động" [21, tr. 538]. Như vậy, C.Mác đã khẳng
định rằng, con người không ngừng tác động vào thế giới xung quanh, mọi
hoạt động của con người, xét đến cùng đều dựa trên cơ sở trao đổi chất và
trao đổi năng lượng với thế giới xung quanh. Sự khác biệt căn bản giữa con
người với các thực thể tự nhiên là ở chỗ, con người có khả năng nhận thức
các quá trình của thế giới khách quan và không ngừng tác động vào thế giới
đó để biến đổi, cải tạo nó theo nhu cầu của mình. Sự tác động vào thế giới
bên ngoài đòi hỏi phải có sự nhận thức, tức là sự phản ánh tích cực và sáng
tạo thế giới đó. Bởi vì, nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người
nhưng sự xuất hiện và bản chất của nó chỉ có thể hiểu một cách đúng đắn

trong mối quan hệ của nó với thực tiễn. Hay nói cách khác, nhận thức nảy
sinh, tác động và phát triển từ thực tiễn và vì thực tiễn của con người. Theo
V.I.Lênin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức. Theo triết học Mác thì thực tiễn là một
phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính,
có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo thế
giới tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Trong những năm gần đây ở trong nước và nước ngoài đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu và đề cập tới vấn đề tổ chức thực tiễn và
năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ [1], [7], [12], [32], [34], [35].
Có tác giả xem xét nó trong mối quan hệ với tri thức hay trong môi quan hệ
giữa cái khách quan và cái chủ quan... Dù xem xét ở góc độ nào, khía cạnh
nào thì cũng có thể hiểu rằng tổ chức thực tiễn là một dạng hoạt động của
con người nhằm thực hiện một nhiệm vụ nào đó của mình theo mục đích
nhất định. Đây là một quá trình hết sức phức tạp, đan xen nhiều dạng hoạt


9

động cụ thể cảm tính khác nhau nhằm đặt ra các mục tiêu cụ thể của con
người để thỏa mãn nhu cầu và mục đích của mình. Có thể nói, tổ chức thực
tiễn là một qui trình bao gồm các khâu nhận thức về những vấn đề nảy sinh
từ thực tiễn, quá trình cụ thể hóa đường lối, nghị quyết thành các quyết
định để tổ chức thực hiện; các quá trình huy động, tập hợp lực lượng để
thực hiện các quyết định; quá trình kiểm tra, đánh giá, tổng kết rút kinh
nghiệm.
Khi bàn về tổ chức thực tiễn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến
cho rằng:
Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối
hợp các nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và

tinh thần, tri thức và tình cảm, truyền thống và thời đại, trong
nước và quốc tế... thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt động
nhịp nhàng, cân đối có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu đã
xác định [7, tr. 6].
Ý kiến khác lại cho rằng:
Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối
hợp các nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và
tinh thần; truyền thống và thời đại; con người; xã hội và tự
nhiên; sức lao động, tư liệu lao động, hoàn cảnh, điều kiện
trong nước và quốc tế thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt
động nhịp nhàng cân đối, có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu
xác định [27, tr. 64].
Nhìn chung các quan điểm trên có những nhân tố hợp lý nhất định ở
chỗ đã đề cập được những nội dung cơ bản của tổ chức thực tiễn. Dựa trên
những nhân tố hợp lý đó, cũng như mục đích nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi cho rằng: Tổ chức thực tiễn là quá trình liên kết, phối hợp giữa


10

các nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, các yếu tố vật chất và tinh
thần, thành một chỉnh thể thống nhất trong hoạt động cải tạo tự nhiên và
xã hội theo mục tiêu đã xác định.
Như vậy, tổ chức thực tiễn là phạm trù rộng, song trong khuôn khổ
của luận văn, tác giả mạnh rạn tập trung đi vào nghiên cứu vấn đề tổ chức
thực tiễn với tính chất là một hệ thống khép kín của các khâu, các quá trình
của việc ra quyết định, việc tổ chức thực hiện quyết định, việc kiểm tra
thực hiện quyết định và việc tổng kết thực hiện quyết định. Đây là quá trình
lôi cuốn hàng triệu người lao động tham gia một cách tự giác và tuân theo
những mục tiêu đã định. Tổ chức thực tiễn không chỉ đơn thuần là tổ chức

một quá trình kinh tế, chính trị, xã hội mà là cả một quá trình tổ chức thực
hiện tổng thể các chương trình, mục tiêu đã định. Do đó, tổ chức thực tiễn
là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khoa học quản lý và nghệ thuật lãnh đạo
để phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo và những khả năng tiềm ẩn
của đông đảo quần chúng nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đặt
ra. Đây cũng là nét đặc thù của tổ chức thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý. Quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của chủ thể tổ chức
thực tiễn, vào năng lực và phẩm chất của họ.
Vì vậy, muốn tổ chức thực tiễn có hiệu quả, chủ thể tổ chức thực
tiễn phải biết sử dụng, phát huy tối ưu các điều kiện vật chất, phương tiện,
công cụ, các lực lượng xã hội... Vận hành một cách đồng bộ trong quá trình
tổ chức thực hiện. Do đó, tổ chức thực tiễn là: "Một qui trình kể từ khi đề
ra chủ trương, xác định kế hoạch tiến hành; chuẩn bị điều kiện các mặt; đặc
biệt là việc xây dựng bộ máy, lựa chọn cán bộ điều hành; xây dựng cơ chế
hoạt động và lề lối làm việc cho đến bước kiểm tra cuối cùng" [27, tr. 65].
Tổ chức thực tiễn có vai trò to lớn là đưa chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
Nói cách khác, thông qua tổ chức thực tiễn những chủ trương, đường lối


11

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được hiện thực hóa trong
cuộc sống. Bởi vì, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có hay đến
đâu, đúng đến mấy chỉ có thể phản ánh được cái bản chất, cái tổng quát của
đời sống xã hội và đang dừng lại ở trên văn bản, giấy tờ. Chỉ có thông qua
tổ chức thực tiễn thì những chủ trương, đường lối, chính sách ấy mới được
hiện thực hóa trên thực tế. Đúng như cố tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: "Sau
khi đã có đường lối thì công tác quản lý và tổ chức thực hiện có vai trò cực
kỳ quan trọng, quyết định bản thân vận mệnh của đường lối" [2, tr. 480].

Vào những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX
nước ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội khá trầm trọng, mọi
mặt của đời sống xã hội hết sức khó khăn, sản xuất thì đình đốn, lạm phát
tăng nhanh, đất nước bị bao vây cấm vận kinh tế... lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước bị giảm sút,
đất nước đặt trong tình thế lâm nguy. Tình hình đó có nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau. Một trong những nguyên nhân đó là
chúng ta chưa tổ chức thực hiện tốt những chủ trương, đường lối, chính
sách đúng đắn trên thực tế. Chưa tổng kết được những thành công và thất bại
trong tổ chức thực hiện để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính
sách. Nhưng cũng từ những yếu kém ấy, Đảng và Nhà nước ta đã tăng
cường tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Xuất phát
từ thực tiễn cũng như thông qua tổ chức thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã
nắm bắt những sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trên cơ sở đó từng bước
đổi mới tư duy lý luận và đã đề ra được những chính sách phù hợp với thực
tế của nước ta. Qua đó từng bước hình thành tư tưởng và đường lối đổi mới
đúng đắn ở nước ta như: Chỉ thị 10-CT/BCT của Bộ Chính trị, chỉ thị 100CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV về khoán sản phẩm đến người
lao động trong nông nghiệp đã thực sự trở thành đòn bẩy khuyến khích


12

người nông dân tham gia sản xuất, nó được ví như là luồng gió mới thổi
vào sản xuất nông nghiệp của nước ta.
Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng, diễn ra trong điều kiện mới có rất nhiều thuận lợi và khó khăn. Khi
mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, trong
xu thế hội nhập quốc tế, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ và
sâu sắc đến từng quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, những diễn biến về kinh
tế, chính trị trên thế giới vẫn hết sức phức tạp, khó lường. Đất nước ta lại

đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đứng trước những thời cơ và thách thức đó, chúng ta không thể tránh
khỏi phải đối mặt với những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình hội
nhập... Nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn bức xúc đang đặt ra và đòi
hỏi phải có câu trả lời. Do đó, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa
phương phải chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu tổng kết thực tiễn để có
câu trả lời nhằm từng bước bổ sung về mặt lý luận mà những vấn đề mới
của thực tiễn đã và đang đặt ra.
Như vậy, tổ chức thực tiễn là một quá trình rộng lớn, phức tạp, gồm
nhiều mặt và tuân theo một qui trình chặt chẽ. Thông qua quá trình tổ chức
thực tiễn giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ, sâu sắc bản chất cách mạng
và khoa học của chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Từ đó, mới có thể cụ thể hóa đường lối, chủ
trương đó một cách đúng đắn và sáng tạo. Qua đó chúng ta mới tìm được
những hình thức mới, phương pháp mới phù hợp với điều kiện và môi
trường cụ thể ở địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện. Chính trong
quá trình tổ chức thực tiễn chúng ra mới có thể kiểm tra được tính khoa
học, chính xác của chủ trương, đường lối, đồng thời giúp cho ta khắc phục
những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót làm cho chủ trương, đường lối đó


13

ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp hơn với cuộc sống của đông đảo
nhân dân lao động.
Như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy tổ chức thực tiễn có vai trò
to lớn trong việc hiện thực hóa lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách.
Tổ chức thực tiễn vừa mang tính lãnh đạo về tư tưởng, vừa mang tính điều
hành cụ thể; vừa chỉ đạo phong trào, vừa lôi cuốn quần chúng nhân dân
tham gia, quản lý là hoạt động tổ chức thực tiễn của người lãnh đạo, quản

lý. Do đó, hiệu quả của tổ chức thực tiễn là thước đo năng lực lãnh đạo,
quản lý, của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để hiểu rõ vai trò to lớn của tổ
chức thực tiễn với công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp huyện thì ta
phải tập trung làm rõ quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ này.
Bất kỳ một quá trình tổ chức thực tiễn nào của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý cũng bao hàm các khâu, các quá trình ra quyết định; tổ chức
thực hiện quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định; tổng kết việc thực
hiện quyết định.
1.1.2. Quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện trong công tác lãnh đạo, quản lý
Muốn hiểu được quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện, thì trước hết phải hiểu được thực chất hoạt động lãnh đạo,
quản lý của người cán bộ cấp huyện là gì. Để làm rõ vấn đề này chúng ta
cần phải hiểu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện. Khi bàn về khái niệm
cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho
rằng: "Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải là người tiêu biểu cho lý tưởng
cách mạng, cho lẽ sống; là người có tri thức toàn diện uyên thâm của thời
đại mình" [39, tr. 13]. Hay "cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người cán
bộ lãnh đạo nhưng lãnh đạo toàn diện, có trọng trách nặng nề nhất, có
quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các vấn đề và chịu trách nhiệm


14

trước tập thể" [39, tr. 139]. Hai quan điểm trên đã đề cập đến những vấn đề
cơ bản nhất của người lãnh đạo nhưng chưa thật đầy đủ chưa chỉ ra được
những tiêu chí cụ thể.
Một số quan điểm khác lại cho rằng:
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người đứng đầu quan
trọng nhất, có chức vụ quan trọng nhất trong một tập thể, có quyền

ra những quyết định việc chủ trương, có trách nhiệm và quyền
điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối,
dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định [44, tr. 35].
Quan điểm này đã đề cập được đầy đủ và toàn diện hơn về người
cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đã xác định rõ vị trí, vai trò cũng như quyền hạn
và trách nhiệm của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Như vậy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt là bộ phận quan trọng
nhất trong một tổ chức nhất định, họ là người làm công tác lãnh đạo toàn
diện, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của một tổ chức hay của cả hệ
thống chính trị, nên trách nhiệm của họ rất lớn. Việc xác định cán bộ chủ
chốt hay không phải cán bộ chủ chốt phải căn cứ vào chức trách của người
cán bộ và đặt nó vào trong mối quan hệ với tổ chức, trong hệ thống chính
trị. Bởi vì, người cán bộ ở vị trí này, trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng ở
cương vị khác, mối quan hệ khác có thể không phải là chủ chốt.
Trong cấu trúc của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta
được phân chia thành 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Theo
hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được
sửa đổi bổ sung năm 2001) thì cấp huyện là đơn vị hành chính sự nghiệp, là
cấp trung gian tạo nên mối liên hệ giữa cấp tỉnh và các đơn vị ở cơ sở (xã,


15

phường, thị trấn). Trong mối quan hệ đó, các đơn vị hành chính cấp huyện
đóng vai trò quan trọng. Cấp huyện là cầu nối trong việc cụ thể hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thường mang tính định hướng, ở
tầm vĩ mô. Nên cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp cuối cùng tổ chức
thực hiện. Như vậy, tổ chức thực tiễn thường và chủ yếu được thực hiện ở

cấp cơ sở chứ không phải là ở cấp huyện. Song, trên thực tế thì đôi khi cấp
huyện cũng là cấp trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức thực tiễn - khi
mà cấp cơ sở còn yếu kém, nhất là ở các tỉnh miền núi của nước ta. Đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở Điện Biên càng phải thực hiện chức
năng tổ chức thực tiễn.
Vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là ai? Tại sao họ lại có vai
trò to lớn như vậy. Để trả lời cho vấn đề này trước hết ta phải hiểu cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp huyện là những người có chức vụ quan trọng trong
cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở cấp huyện (Bao gồm
các chức danh Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân; Trưởng, Phó phòng ban, ngành, đoàn thể và
tương đương của cấp huyện). Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
đóng vai trò là khâu trung gian, là cầu nối trong quá trình lãnh đạo, quản lý
từ cấp tỉnh xuống cấp cơ sở. Với vị trí, vai trò như vậy hoạt động lãnh đạo,
quản lý của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện vừa mang tính chất
định hướng chung ở địa bàn cấp huyện vừa mang tính thực tiễn cụ thể ở địa
bàn cấp xã, phường, thị trấn thuộc huyện.
Chúng ta đều rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
được thể hiện qua chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật và các biện
pháp lớn. Những chủ trương, đường lối, chính sách ấy tác động đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những chủ trương, đường lối, chính sách
đó chỉ trở thành hiện thực khi gắn nó với phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân ở cơ sở. Để hiểu rõ bản chất của đường lối, chính sách của


16

Đảng và Nhà nước và ý thức thực hiện của các địa phương ở cơ sở thì
không thể thiếu được vai trò của cấp tỉnh. Không giống như cấp huyện, cấp
tỉnh là khâu trung gian giữa cấp Trung ương và cấp huyện nên hoạt động

của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh chủ yếu manh tính chất định hướng
trên địa bàn tỉnh. Cấp huyện như chúng ta đã rõ là cấp trên trực tiếp của cấp
cơ sở. Vì thế, cấp huyện là cấp trực tiếp chỉ đạo, điều hành, quản lý cấp cơ
sở thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cũng như chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân
tỉnh.
Điện Biên là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, lại vừa
mới chia tách, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Tỉnh có
6 huyện, một thị xã, một thành phố. Qua khảo sát, tổng số cán bộ chủ chốt
cấp huyện của tỉnh là 404 đồng chí (bao gồm các chức danh Bí thư, Phó Bí
thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
Trưởng phó phòng và tương đương). Sau khi chia tách tỉnh (2004) hệ thống
chính trị cấp cơ sở lại càng mỏng, toàn tỉnh có 88 xã (trong đó có 59 xã đặc
biệt khó khăn và là xã biên giới). Qua khảo sát và đánh giá của Tỉnh ủy, hiện
nay còn hơn 90% cán bộ cấp cơ sở chưa qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ thuật. Do đó, bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở ở Điện
Biên vừa thiếu lại vừa yếu. Cho nên trong quá trình tổ chức thực hiện, triển
khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước gặp nhiều khó khăn. Công tác chỉ đạo, điều hành trong phát triển kinh
tế - xã hội còn yếu. Cho nên ở Điện Biên cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện vẫn tham gia trực tiếp vào các quá trình tổ chức thực tiễn ở cơ sở,
trực tiếp chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật
tự, an toàn xã hội trên địa bàn.


17

Vậy, quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện được thực hiện như thế nào?
* Quá trình ra quyết định

Thực tiễn luôn vận động, phát triển và nảy sinh những vấn đề mới
đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có những biện pháp giải quyết kịp thời.
Quá trình đó phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người lãnh đạo, quản lý, mà
trước hết là phụ thuộc vào các quyết định của họ. Vì các quyết định này tác
động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở địa
phương. Quyết định của người lãnh đạo, quản lý có thể tác động theo khuynh
hướng thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Để có một quyết định đúng đắn, yêu cầu đặt ra đối với người lãnh
đạo, quản lý nói chung là phải bám sát vào thực tiễn địa phương. Chỉ có
dựa trên cơ sở tình hình thực tiễn của địa phương thì các quyết định của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới sát hợp, kịp thời và không rơi vào giáo
điều. Để quá trình ra quyết định mang tính khách quan và chính xác đòi hỏi
người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có khả năng thu thập thông tin, phân
tích và xử lý thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời, chính xác những vấn
đề nảy sinh có liên quan đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của địa
phương. Khi nắm chắc được thông tin thì người cán bộ lãnh đạo, quản lý
mới tổng hợp, phân tích, đánh giá đúng tình hình ở địa phương, lĩnh vực
mình phụ trách để tìm đúng nguyên nhân, những khả năng và hạn chế của
chúng. Từ đó mới đề ra được các giải pháp để giải quyết vấn đề có hiệu
quả. Như vậy, nắm bắt và xử lý thông tin chính xác ảnh hưởng đến chất
lượng ra quyết định của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhờ đó mà quá
trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào địa phương được cụ thể hơn
và kịp thời hơn. Vấn đề đặt ra là các quyết định đưa ra phải phù hợp với


18

nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện thực hiện quyết định; phù hợp với
điều kiện, môi trường của địa phương. Quyết định của người lãnh đạo,

quản lý có thể mang tính trước mắt, có thể mang tính lâu dài. Điều này do
yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn địa phương đặt ra.
* Quá trình tổ chức thực hiện quyết định
Muốn thực hiện các quyết định thì trước hết người lãnh đạo, quản
lý phải biết tổ chức bộ máy cán bộ, bố trí và sử dụng cán bộ để tổ chức
thực hiện các quyết định này.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình
tổ chức thực tiễn. Vì vậy, muốn thực hiện quyết định thì tất yếu phải có bộ
máy tổ chức và con người. Bộ máy cán bộ ở đây đóng vai trò là lực lượng
tổ chức trực tiếp, điều khiển trực tiếp các quá trình tổ chức thực tiễn. Nói
tới bộ máy là nói tới con người, bởi con người là chủ thể của bộ máy. Mà ở
đây là các cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân. Chính họ đóng vai trò
là chủ thể trong quá trình tổ chức thực tiễn. Họ và người định đoạt sự thành
bại của các quyết định. Như vậy, nếu không có bộ máy và con người tổ
chức thực hiện thì sẽ không có quá trình tổ chức thực tiễn. Do đó, các quyết
định sẽ không thực hiện được.
Trên cơ sở căn cứ vào nội dung và mục đích của việc ra quyết định
người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải lựa chọn cán bộ và sử dụng họ nhằm
hoàn thành tối ưu các quyết định đã được đề ra. Vì vậy, trong công tác bố
trí cán bộ phải tùy việc mà bố trí người. Có như vậy thì trong quá trình tổ
chức thực hiện mới phát huy, khai thác hết tiềm năng của họ. Việc tổ chức
bộ máy, bố trí và sử dụng cán bộ thực hiện các quyết định có phát huy được
năng lực và đạt được kết quả hay không phụ thuộc rất lớn vào vai trò tổ
chức của người cán bộ, lánh đạo, quản lý.
* Quá trình kiểm tra việc thực hiện quyết định


19

Quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định là một khâu

có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình tổ chức thực tiễn. Nó quyết
định đến tính khách quan, khoa học của vấn đề tổ chức thực tiễn. Mặt khác,
nó bảo đảm tính định hướng, tính hiệu quả của quá trình thực hiện quyết
định. Đồng thời nó góp phần hạn chế được những khiếm khuyết, sai lầm có
thể xảy ra trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định là một mắt xích
không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực tiễn. Đây là nhiệm vụ tất yếu,
thường xuyên của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình tổ chức
thực tiễn. Đảng ta đã chỉ rõ: "Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như
không có lãnh đạo" [3, tr. 123]. Vì vậy, chỉ có thông qua kiểm tra, bằng
kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quyết định người lãnh đạo, quản lý mới
nắm bắt, đánh giá được bản chất, mức độ, phạm vi của vấn đề mà mình đã
quyết định. Trên cơ sở đó kịp thời đôn đốc thực hiện, điều chỉnh những sai
lệch, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tiến hành triển
khai, thực hiện để hoàn thành được mục tiêu đã đặt ra. Khi quyết định đã
được thông qua, bộ máy và con người đã được bố trí thì trọng tâm của tổ chức
thực tiễn được chuyển sang kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, tổ chức thực hiện.
Như V.I. Lênin đã nói: kiểm tra là kiểm tra người và kiểm tra việc, kiểm tra
là một việc tất yếu thường xuyên liên tục, kể từ khi chuẩn bị ra quyết định.
* Tổng kết việc thực hiện quyết định
Quá trình tổng kết rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện các quyết
định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là vòng khâu cuối cùng của
một chu trình tổ chức thực tiễn. Đồng thời, nó cũng là sự mở đầu vòng
khâu mới của chu trình tổ chức thực tiễn tiếp theo. Có tổng kết rút kinh
nghiệm việc thực hiện các quyết định thì người lãnh đạo, quản lý mới có
cái nhìn tổng thể từ việc ra quyết định đến việc tổ chức thực hiện các quyết
định một cách hoàn chỉnh. Qua đó mới đánh giá được toàn diện những


20


thuận lợi, khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp phù hợp tiếp theo cho tổ chức thực tiễn. Mặt khác, thông
qua tổng kết rút kinh nghiệm mà người lãnh đạo, quản lý đánh giá được
đúng năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ thuộc quyền mình
quản lý. Trên cơ sở đó cách sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ và sử
dụng

cán

bộ

hợp

lý hơn.
Ở đây chúng ta phải đánh giá đúng tầm quan trọng tổng kết rút kinh
nghiệm, tuyệt đối tránh hình thức, thành tích và chủ quan trong tổng kết
thực tiễn. Tổng kết rút kinh nghiệm là nhằm chỉ ra những cái đã làm được
và chưa làm được, đánh giá đúng nguyên nhân tồn tại, yếu kém của nó.
Đồng thời qua tổng kết phải rút ra được những bài học kinh nghiệm cho tổ
chức thực tiễn tiếp theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Công việc gì bất
cứ thành công hay thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân
tích thật rõ ràng rồi mới kết luận. Kết luận đó là cái chìa khóa phát triển
công việc và để giúp cán bộ tiến tới" [25, tr. 243].
Từ tổng kết rút kinh nghiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết vận
dụng các bài học kinh nghiệm để ra quyết định mới ngày càng phù hợp hơn
với tình hình địa phương mà mình phụ trách. Trên cơ sở đó thúc đẩy kinh
tế - xã hội ở địa phương phát triển.
Qua các bước của tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói chung và cán bộ chủ chốt cấp huyện Điện Biên nói riêng có thể

lượng hóa quá trình đó qua sơ đồ sau:

Tổ chức bộ
máy thực hiện
các quyết định

Kiểm tra việc
thực hiện các
quyết định


21

Ra
quyết

Tổng kết rút
kinh nghiệm
việc thực hiện
quyết định

định
Phân tích
tình hình
thực tế địa
phương...

Hình 1.1: Chu trình tổ chức thực tiễn của người lãnh đạo, quản lý
Các khâu trong quá trình tổ chức thực tiễn không tách rời nhau mà
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.

Qui trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện Điện Biên
về các bước cũng như vậy, tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực tiễn có
những đặc điểm, nét riêng. Bởi vì, Điện Biên là một tỉnh miền núi có
những đặc điểm riêng và điều kiện tự nhiên, về đội ngũ cán bộ... Trong các
bước của quá trình thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện Điện
Biên thì khâu ra quyết định là quan trọng nhất. Bởi vì, quá trình ra quyết
định đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải am hiểu thực tiễn địa
phương và phải có năng lực nắm bắt vấn đề. Ra quyết định đúng đắn sẽ tạo
cơ sở cho tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả. Qua quyết định phản ánh năng
lực, trình độ, khả năng nắm bắt thông tin, phân tích tình hình, sự quết
đoán... của người lãnh đạo, quản lý. Địa bàn cấp huyện Điện Biên rất rộng
mặc dù dân số ít, hơn nữa Điện Biên là tỉnh miền núi còn khó khăn về mọi
mặt. Do đó, để nắm bắt tốt tình hình thực tế địa bàn huyện mà mình phụ
trách người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đi nhiều, nắm bắt xử lý thông tin
tốt trong điều kiện thông tin liên lạc còn rất lạc hậu.
Đã thế bà con nhân dân lại thuộc nhiều dân tộc khác nhau, chưa
thông thạo tiếng phổ thông. Điều này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản


22

lý cấp huyện đặc biệt phải biết sử dụng tốt đội ngũ cán bộ cấp cơ sở để nắm
được đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Trên cơ sở đó ra được
những quyết định đúng với thực tế, phù hợp nguyện vọng của bà con nhân
dân các dân tộc khác nhau
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức thực tiễn
trong quá trình lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp huyện ở Điện Biên
- Cơ sở sinh học của chủ thể
Trước hết ta hiểu chủ thể ở đây là cá nhân người cán bộ lãnh đạo,
quản lý, mà cá nhân là khái niệm chỉ một con người tương đối hoàn chỉnh

trong sự thống nhất giữa những khả năng riêng biệt của người đó với chức
năng xã hội do người đó thực hiện. Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin thì con người là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Ở
đây mặt sinh học của con người thể hiện ở chỗ con người phụ thuộc vào
những qui luật của tự nhiên: tính di truyền, các nhân tố sinh vật, sức khỏe...
bản tính tự nhiên này được thể hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu
khách quan như: ăn, ở, mặc,... Đặc biệt là các yếu tố này ảnh hưởng trực
tiếp đến các tố chất phát triển con người nói chung về mặt trí lực, trí tuệ.
Do đó, hiệu quả tổ chức thực tiễn cũng như năng lực tổ chức thực tiễn cũng
phụ thuộc vào những yếu tố sinh học bẩm sinh của bản thân người cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
- Trình độ lý luận, tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp huyện Điện Biên
Đào tạo và bồi dưỡng nâng cao tri thức như trình độ chuyên môn
nghiệp vụ là điều kiện quan trọng trong sự hình thành và phát triển tri thức
của con người, là nhân tố quyết định đến năng lực, trí tuệ, phẩm chất của
người cán bộ. Đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngoài trình độ
chuyên môn nghiệp vụ còn phải giỏi về trình độ lý luận, đặc biệt là tư duy


23

lý luận. Bởi vì, trình độ lý luận cũng như tư duy lý luận là kết quả của đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện của chủ thể mà có. Trình độ lý luận và tư duy lý
luận ảnh hưởng tới tất cả các bước trong chu trình tổ chức thực tiễn của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là khâu ra quyết định và tổng kết rút
kinh nghiệm thực tiễn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Điện Biên còn hạn
chế về trình độ lý luận và tư duy lý luận. Điều này đã ảnh hưởng tới hiệu
quả tổ chức thực tiễn của họ.
- Kinh nghiệm hoạt động lãnh đạo, quản lý của bản thân người cán bộ
Thông qua hoạt động thực tiễn, bằng hoạt động thực tiễn mà người

lãnh đạo, quản lý ngày càng bồi đắp được tri thức trong lĩnh vực mà mình
tham gia hoạt động. Cũng chính trong quá trình đó người lãnh đạo, quản lý
ngoài việc tích lũy được những hiểu biết mà còn đúc rút được những kinh
nghiệm quí giá trong quá trình tổ chức thực tiễn. Những kinh nghiệm này
rất quan trọng, nó không những là nhân tố định hướng mà còn là những
nhân tố giúp cho họ tránh được những sai lầm trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý tiếp theo. Do đó, người lãnh đạo, quản lý không chỉ có một trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và tư duy lý luận nhất định mà còn phải có kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Kinh nghiệm
thực tiễn được hun đúc trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, lòng say mê
công việc... chứ không phải là yếu tố bẩm sinh, tự có. Tất nhiên không
được tuyệt đối hóa kinh nghiệm rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, coi kinh
nghiệm là tất cả. Cho nên kinh nghiệm chỉ được phát huy khi nó kết hợp
với tri thức khoa học, với năng lực và phẩm chất của chủ thể trong quá
trình tổ chức thực tiễn.
- Phương pháp làm việc của người cán bộ
Phương pháp làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý có ảnh
hưởng quan trọng đến quá trình tổ chức thực tiễn của họ. Cũng là người


24

lãnh đạo, quản lý, cũng một công việc nhưng lại có nhiều phương pháp làm
việc khác nhau.
Phương pháp làm việc là cách thức sử dụng công cụ, phương tiện,
kỹ thuật, con người... để tiến hành công việc. Là trình tự để sắp xếp công
việc, là nghệ thuật kết hợp giữa con người và phương tiện trong quá trình
tổ chức thực hiện công việc.
Phương pháp chính là chiếc chìa khóa trong công tác của người
lãnh đạo, quản lý. Muốn có hiệu quả trong quá trình tổ chức thực tiễn thì

người lãnh đạo, quản lý phải có phương pháp làm việc khoa học, sâu sát
quần chúng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Điện Biên mặc dù đã sâu sát
đời sống nhân dân nhưng phương pháp làm việc còn chưa thực sự khoa
học. Do đó, hiệu quả tổ chức thực tiễn còn hạn chế.
- Môi trường kinh tế - xã hội
Môi trường kinh tế - xã hội là một trong những nhân tố ảnh hưởng
to lớn cho việc tổ chức thực tiễn. Môi trường là điều kiện hết sức cần thiết
cho hoạt động thực tiễn. Môi trường là cơ sở xuất phát, là điều kiện, tiền đề
vật chất cho tổ chức thực tiễn. Cho nên hiệu quả tổ chức thực tiễn tùy thuộc
rất lớn vào môi trường kinh tế - xã hội của địa phương.
Điện Biên là một tỉnh nghèo, địa hình chủ yếu là đồi, núi; điều kiện
để phát triển kinh tế - xã hội gặp rất nhiều khó khăn, cơ cấu kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp và lâm nghiệp, sản xuất vẫn mang tính tự cung tự cấp, thủ
công là chủ yếu... là tỉnh xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước cho nên
việc đi lại và trao đổi về kinh tế, văn hóa... gặp rất nhiều khó khăn, dân trí lại
thấp. Thu ngân sách địa phương thấp mỗi năm đạt từ 50 - 60 tỷ đồng/năm,
chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách Trung ương cấp (khoảng 90%).


25

Trong khi đó các huyện ở Điện Biên hầu hết là vùng sâu, vùng xa,
vùng cao, vùng biên giới; các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của các huyện qui mô vẫn còn nhỏ và kém phát triển, kinh tế - xã hội còn
chậm phát triển, giao thông đi lại từ huyện xuống xã cực kỳ khó khăn, các
xã lại ở xa trung tâm huyện, không tập trung mà lại phân tán trải dài, nhiều
xã còn chưa có đường ôtô vào, chưa có điện lưới quốc gia, chưa có điện
thoại, chưa được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường, thị trấn của các huyện vừa yếu về năng lực lại thiếu
về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ dân trí thấp phát triển không đồng đều

giữa các huyện, các dân tộc trong vùng.
Theo thống kê của Ban Tổ chức Tỉnh ủy thì tổng số cán bộ, công
chức cấp huyện của toàn tỉnh là: 9090 người, đảng viên chiếm 24,36%
(xem phụ lục 2). Trong đó trình độ văn hóa cấp 1 là 3,60%; đại học là
10,8%; trên đại học là 0,02%. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức cấp
huyện Điện Biên có trình độ văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ không đồng
đều và thấp (10,8% là có trình độ đại học). Với đặc điểm của môi trường
kinh tế - xã hội của Điện Biên như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
quả của tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
Điện Biên.
- Điều kiện công tác
Điều kiện công tác là những nhân tố không thể thiếu được trong quá
trình tổ chức thực tiễn. Điều kiện công tác bao gồm: nơi làm việc, công cụ,
phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật, máy móc... để phục vụ cho công việc.
Nhìn chung đến nay, điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp huyện Điện Biên đã khá hơn so với thời kỳ bao cấp. Phần lớn các
huyện đều có công sở làm việc khang trang (mặc dù vẫn còn một số huyện
chưa có công sở làm việc cố định như: Mường Nhé, ...). Về công cụ, phương


×