Tải bản đầy đủ (.pptx) (76 trang)

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, NHIỄM GIUN và một số yếu tố LIÊN QUAN của TRẺ EM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.17 KB, 76 trang )

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, NHIỄM GIUN VÀ
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA TRẺ EM 12-36 THÁNG TUỔI TẠI HUYỆN
ĐAKRÔNG TỈNH QUẢNG TRỊ


2

ĐẶT VẤN ĐỀ

Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em vẫn phổ biến ở mức ý nghĩa
sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể
chất mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển tinh thần, trí tuệ của trẻ. Về mặt xã hội, suy dinh dưỡng gây nhiều thiệt hại về kinh tế, kìm
hãm phát triển kinh tế bởi nó trực tiếp ảnh hưởng tới

nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới giống nòi.
Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng từ năm 2000-2009, tỷ lệ SDD trẻ em đã giảm đi một cách rõ rệt, nếu như
năm 2000 tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi là 33,8% (theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi) thì tới năm 2009 đã giảm chỉ còn 18,9%
[13]. Tuy nhiên, theo điều tra theo dõi tỷ lệ SDD trẻ em các tỉnh năm 2009 của Viện Dinh Dưỡng cho thấy có sự khác nhau
nhiều về tỷ lệ SDD trẻ em giữa các vùng sinh thái trên cả nước. Trong đó, tỷ lệ SDD khu vực miền núi luôn cao hơn đồng
bằng, nông thôn cao hơn thành thị, những vùng bị hạn hán, lũ lụt có tỷ lệ SDD cao hơn các vùng khác. Trong khi một số tỉnh
đồng bằng tỷ lệ SDD đã giảm xuống mức thấp như thành phố HCM (5,3%), Hà Nội (12,6%)... thì nhiều khu vực miền núi tỷ lệ
SDD vẫn ở mức rất cao như Kon Tum (29,5%), Đắc Nông (29,4%), Lai Châu (27,8%), Quảng Bình (25,9%)… [13]. Sự chênh
lệch ở mức từ 2-4 lần giữa miền xuôi và miền núi cho thấy mức độ trầm trọng của SDD trẻ em khu vực miền núi.
Đakrông là một huyện miền núi vùng cao biên giới phía Tây Nam của tỉnh Quảng Trị, là nơi có nhiều đồng bào các
dân tộc sinh sống trong đó chủ yếu là dân tộc Vân Kiều và Pakoh (chiếm 82%, theo số liệu cục thống kê tỉnh Quảng Trị). Đời sống
kinh tế của người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng này rất cao. Theo một đánh giá về tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi được thực hiện tại Đakrông và


3


Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em
ở đây rất cao: 41.9% (thể nhẹ cân), 44.1% (thể thấp còi) và 13,4% (thể gầy còm) [23]. Trẻ em dưới 36 tháng tuổi bị suy
dinh dưỡng có nhiều nguyên nhân, trong đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan tâm. Nhiễm giun
gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính ống tiêu hóa, cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất
dinh dưỡng: protein, lipid, vitamin A... Lâu dài, giun làm suy dinh dưỡng-thiếu máu, chậm phát triển thể chất và tinh thần [24], [37].
Các nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em dân tộc thiểu số còn rất ít, là lý do chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này với 2 mục tiêu sau:

(1)

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em 12-36 tháng

tuổi tại vùng đồng bào dân tộc Pakoh và Vân Kiều của huyện

Đakrông tỉnh Quảng Trị.

(2)

Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ 12-36 tháng tuổi tại vùng đồng bào
dân tộc Pakoh và Vân Kiều của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị.


4

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1.


Các thời kỳ phát triển của trẻ em và các đặc điểm sinh học cơ bản

của trẻ dưới 3 tuổi:
1.1.1. Cách phân chia các thời kỳ:
Cơ thể trẻ em có những đặc điểm riêng về cấu tạo và sinh lý. Từ lúc thụ thai đến tuổi trưởng thành trẻ phải trải qua hai hiện
tượng: trước hết là sự tăng trưởng, phát triển về số lượng và kích thước của tế bào ở các mô; sau đó là sự trưởng thành về cấu trúc,
chức năng các cơ quan.
Quá trình lớn lên và phát triển của trẻ có tính chất toàn diện, cả về thể chất, tâm thần và vận động. Mỗi giai đoạn có
những đặc điểm riêng về bệnh lý và sinh lý.
Sự phân chia các thời kỳ (giai đoạn) của trẻ em là một thực tế khách quan, nhưng ranh giới giữa các giai đoạn không
rõ ràng và có sự khác biệt đối

với từng đứa trẻ, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau.

Theo WHO trẻ em bao gồm từ 0 đến 18 tuổi, được phân chia cụ thể như

sau [30]:

-

Sơ sinh (newborn): từ lúc sinh đến 1 tháng

-

Trẻ bú mẹ (infant): 1 đến 23 tháng
Trẻ tiền học đường (preschool child): 2 đến 5 tuổi Trẻ em nhi đồng (child): 6 đến 12

tuổi
Trẻ vị thành niên (adolescent): 13 đến 18 tuổi
-



5

2.

Đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ dưới 3 tuổi:
Lứa tuổi này tốc độ lớn có giảm so với lứa tuổi trước 12 tháng nhưng vẫn còn cao đồng thời các hoạt động đã bắt

đầu tăng lên cùng theo với tuổi tập đi, tập nói... do đó tiêu hao năng lượng so với cơ thể vẫn cao.
Trẻ từ 1-3 tuổi, cơ quan tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh, do vậy các thức ăn cho trẻ cần phải dễ tiêu hóa, giàu các chất
dinh dưỡng có giá trị cao và đủ các nhóm thực phẩm trong ô dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu các chất dinh dưỡng. Đảm bảo tốt vệ
sinh thực phẩm và ăn uống để phòng tránh nhiễm khuẩn và các bệnh đường ruột ở trẻ.
Do tiếp xúc rộng rãi với môi trường nên trẻ dễ bị lây các bệnh truyền nhiễm (sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm
gan virus, sốt xuất huyết). Hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, các bệnh nhiễm trùng giảm, nhưng trẻ lại bị các bệnh dị ứng
như viêm cầu thận cấp, hen suyễn, nổi mề đay [30].

3.

Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 3 tuổi:

Nhu cầu năng lượng theo bảng khuyến nghị của Việt Nam cho trẻ từ 1-3
tuổi là 1300 kcal (100 kcal/kg cân nặng), trong đó 50% đáp ứng cho chuyển hóa cơ bản, 12% cho tăng trưởng, 25% cho hoạt động
thể lực [14].
Trong chế độ ăn của trẻ dưới 3 tuổi, nhu cầu protein hàng ngày là
28g/ngày (2,5g-3g/kg cân nặng của trẻ). Trong đó, protein có nguồn gốc động vật chiếm 50-60% tổng số protein [14].

Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng (1g chất béo
cung cấp 9 kcal), cung cấp các acid béo cần thiết và hỗ trợ cho việc hấp thu các vitamin tan trong dầu (A,D,E,K) [30]


Chế độ ăn của trẻ có 60-65% kcal từ glucid, chủ yếu từ ngũ cốc, khoai

củ, một số loại rau củ…


6



lứa tuổi này hàng ngày cần cung cấp 400-500mg canxi, là chất khoáng

rất cần cho sự tạo xương, tạo răng, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh lý của cơ thể. Trẻ cần 6-7mg sắt mỗi ngày cho sự
tạo máu và tham gia vào thành phần nhiều men quan trọng trong cơ thể [14].

Mọi vitamin đều cần thiết cho trẻ, trong đó cần chú ý cung cấp đủ
vitamin A (400µg) và vitamin C (35mg) là những vitamin rất cần cho sự phát triển bình thường của trẻ, cần cho sự tạo máu, tăng
cường sức chống đỡ với

bệnh tật [11].
Số bữa ăn trong ngày nên từ 4-5 bữa, với chế độ ăn riêng của trẻ, các
thức ăn mềm và tập dần cho trẻ ăn từng loại thức ăn từ ít đến nhiều, cho đến thức ăn hỗn hợp.

1.2.

Tình hình SDD protein năng lượng của trẻ em

1.2.1. Tình hình SDD protein năng lượng trên Thế giới:

Theo báo cáo của UNICEF công bố ngày 2/5/2006 cho thấy hơn 1/4 trẻ
em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển ở tình trạng SDD nhẹ cân, cuộc sống đang bị đe doạ. Dinh dưỡng không đầy đủ

vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6 triệu trẻ em mỗi năm. Mặc dù đã có tiến bộ ở một
số quốc gia, nhưng trong 15 năm vừa qua các quốc gia đang phát triển trung bình mới chỉ giảm được 1,5% trẻ em SDD nhẹ cân [20].
Thống kê tỷ lệ SDD qua các cuộc điều tra quốc gia từ 1980-1992 của 79 nước đang phát triển cho thấy tỷ lệ SDD là
35,8%, tỷ lệ trẻ em còi cọc là 42,7% và tỷ lệ trẻ em gầy còm là 9,2 %. Châu Á có tỷ lệ SDD cao nhất so với

các châu lục khác: 42% trẻ em SDD, 47,1% trẻ em còi cọc và 10,8% trẻ gầy
còm. Châu Úc có 29,1% trẻ em SDD, 41,9% trẻ em còi cọc, 7,2% trẻ em gầy còm. Châu Phi có 27,4% trẻ em SDD, 38,6% trẻ em
còi cọc và 7,2% trẻ em


7

gầy còm. Có ít nhất 2/3 số trẻ em châu Á và 1 nửa số trẻ em SDD trên thế giới

sống ở khu vực Nam Á [45].
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở Việt Nam tuy đã giảm nhiều, nhưng vẫn còn ở mức cao so với trung bình các nước
trong khu vực và các nước đang

phát triển có thu nhập đầu người tương tự.
Bảng 1.1. Suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam so với khu vực và Thế giới - Năm 2000 [9]
SDD

Khu vực

Thể nhẹ cân

Thể thấp còi

Thể gầy còm


(%)

(%)

(%)

Banglades

56

55

18

Việt nam

34

36

8

Thái Lan

19

16

6


Philippin

28

30

6

Indonesia

34

42

13

Lào

40

47

11

Campuchia

52

56


13

Trung Quốc

10

17

11

Theo báo cáo của UNICEF

(Quĩ Nhi đồng của Liên Hiệp Quốc) năm

2007, trên thế giới có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân, phần lớn tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Trong số này có khoảng 2 triệu trẻ em từ Việt Nam.
Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2007, số trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta có khoảng 9,4 triệu, có
đến 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thiếu cân (chiếm 21,2%) [13]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
và lần thứ X đã đề ra chỉ tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống dưới 20% vào năm 2010 [29]. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em tuy có
xu


8

hướng giảm, nhưng vẫn còn khoảng 1/3 trẻ em cơ thể trong tình trạng kém
phát triển. Con số này đặt nước ta vào số 36 nước có tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng cao nhất thế giới, và đó là một vấn đề y tế
công cộng rất lớn.

1.2.1 Tình hình SDD protein năng lượng trẻ em tại Việt Nam
Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em Việt Nam còn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và

phát triển kinh tế xã hội. Các
kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam từ năm 1999 đến năm 2010 cho thấy tình tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em trong cộng đồng đã giảm,
nhưng vẫn là một mức cao theo tiêu chuẩn đánh giá của WHO [12]. Suy dinh dưỡng trẻ em làm ảnh hưởng lâu dài và nghiêm
trọng đến sự phát triển của
kinh tế-xã hội, làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em lên 2,5-2,8 lần so với trẻ bình thường.

Diễn biến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc (1999 – 2010)

Thể nhẹ cân
45

Thể thấp còi

38,7
36,7

40

36,5
33,8

35

31,9

34,8

33
30,1


30

33,9

32,0
26,6

32,6

31,9

30,7

31,9

29,6

28,4

29,3

25,2
23,4

25

21,2

19,9


%

18,9

17,5

20
15
10
5
0

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007


2008

2009

2010

Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam qua các

năm 1999-2010 [13].
Tháng 10/1999, Trương Thị Sương và cộng sự tiến hành khám lưu động cho 5.084 trẻ em, trong đó có 1.906 trẻ dưới 5
tuổi tại 18 xã thuộc 9 huyện

của tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng là 42,47%, trong đó suy


9

dinh dưỡng nặng và rất nặng chiếm 11,38%. Nhóm tuổi có tỷ lệ suy dinh

dưỡng thấp nhất là từ 0-12 tháng, nhóm có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất là từ

24-36 tháng (56,0%) [35].
Kết quả điều tra trên 749 trẻ từ 0-60 tháng tuổi của Đinh Văn Thức và cộng sự tại hai xã Đặng Cương và Quốc Tuấn, huyện
An Hải, Hải Phòng năm 2000 cho thấy tỷ lệ SDD thể thấp còi chiếm 42,32%, thể nhẹ cân là 4,41% và thể gày mòn là 2,80%. Tỷ lệ
SDD cao nhất ở nhóm tuổi 13-24 tháng (42,76%), thấp nhất ở nhóm 0-12 tháng tuổi (23,42%) [38].
Qua cuộc tổng điều tra về dinh dưỡng năm 2000 cho thấy, tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi còn có sự chênh lệch giữa các nhóm tuổi
khác nhau [8]: tỷ lệ SDD ở nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi là thấp nhất đối với cả 3 thể ( thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể gầy còm), sau đó
tăng lên nhanh ở cả 3 chỉ tiêu cho tới 2-3 tuổi và tiếp tục duy trì ở mức cao trong những năm tiếp theo. Điều đó cho thấy tỷ lệ
SDD trẻ em dưới 5 tuổi ở cả 3 chỉ tiêu (CN/T, CC/T, CN/CC) đều đã giảm nhưng các đặc điểm SDD ở trẻ em nước ta đã được nghiên

cứu trước đây vẫn còn ý nghĩa và chương trình phòng chống SDD trẻ em cần tiếp tục được đẩy mạnh.

4 4 .8

4 3

4 5

4 1.8

4 1.7

4 0 .2

4 0 .9
3 8 .6

4 0

3 6 .3

35

30

%

19

S D D W /A ( % )


25

1
2 05

S D D H /A ( % )

12 .2

12 .9

9 .2

8 .8

8 .5

10

S D D W /H ( % )

6

5

T h á n g tu ổ i
0

≤ 12

th á n g

13 -24
th á n g

25-36
th á n g

37-48
th á n g

Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ (%) SDD trẻ em dưới 5 tuổi theo nhóm tháng tuổi [8]

4 9-6 0
th á n g


10

Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cũng khác nhau rất nhiều giữa các vùng
sinh thái. Tỷ lệ cao nhất ở vùng Tây Nguyên vì đây là vùng nghèo, còn nhiều khó khăn, mùa màng thường xuyên chịu tác
động nặng nề bởi thiên tai, lũ lụt. Thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long.

Bảng 1.2.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam phân bố
theo vùng sinh thái
Tỷ lệ %

- Năm 2009

Thể nhẹ cân

[11]
Thể thấp còi

Thể gầy còm

Tên vùng
Toàn quốc

18,9

31,9

6,9

Đồng bằng sông Hồng

16,7

27,8

6,6

Tây Bắc

24,6

35,7


7,8

Đông Bắc

22,3

34,8

7,0

Bắc Trung Bộ

22,9

34,3

6,9

Nam Trung Bộ

19,3

31,8

7,1

Tây Nguyên

28,5


39,2

7,3

Đông Nam Bộ

16,4

18,1

6,8

Đồng bằng sông Cửu Long

18,7

19,1

6,7

Có sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở thành thị và nông thôn.
Điều này lý giải bởi sự bất cập trong việc tiếp cận dịch vụ Y tế, trình độ dân trí và khoảng cách giàu nghèo giữa khu
vực nông thôn, miền núi so với các

thành phố lớn và các khu đô thị.


11

Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD trẻ em theo khu vực - Năm 2005 [7]

Tỷ lệ %

Nhẹ cân

Thấp còi

Gày còm

Khu vực

3.

Thành thị

19,6

21,9

4,7

Nông thôn

29,3

34,1

7,5

Chung


25,2

29,6

6,9

Phương pháp đánh giá tình trạng SDD trẻ em :

1.

Khái niệm :

Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới
5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức
độ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và vận động của trẻ [30].

2.

Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em

Hiện nay có 4 nhóm chỉ tiêu được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em [24]:

-

Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống.
Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có liên quan đến ăn uống.

Các chỉ tiêu nhân trắc.
Các xét nghiệm hóa sinh.
Trong đó 2 nhóm chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất là nhân trắc và điều

tra khẩu phần ăn mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp tình

trạng dinh dưỡng.
WHO đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân nặng theo tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo
tuổi [41]. Cụ thể như sau


12



Cân nặng theo tuổi:
Là chỉ số được dùng sớm nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cá thể

hay cộng đồng. Cân nặng theo tuổi thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số cân nặng theo tuổi nhạy có thể quan sát
trong 1 thời gian ngắn.



Chiều cao theo tuổi:
Phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về

quá khứ làm cho đứa trẻ bị còi.



Cân nặng theo chiều cao:
Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số này phản ánh tình trạng SDD cấp hay còn gọi “Wasting”.

Cân nặng theo chiều cao thấp phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều cao, chính là phản ánh

mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này.
1.3.3. Cách phân loại suy dinh dưỡng 1.3.3.1. Phân loại theo
Gomez (1956)
Là phân loại được dùng sớm nhất, nó chỉ dựa trên chỉ só cân nặng theo tuổi và sử dụng quần thể tham khảo

Tiêu chuẩn

Mức độ SDD

Từ 70%-90% của cân nặng chuẩn

SDD độ I

Từ 60%-75% của cân nặng chuẩn

SDD độ II

Từ dưới 60% của cân nặng chuẩn

SDD độ III

Cách phân loại này không phân biệt giữa SDD cấp hay mãn cũng như
giữa Marasmus và Kwashiorkor bởi vì cách phân loại này không đánh giá tới chiều cao.


13

1.3.3.2. Phân loại theo Wellcome (1970)
Cân nặng (%) so với chuẩn


Phù


Không

60%-80%

Kwashiorkor

SDD I, II

<60%

Marasmus +

Marasmus

Kwashiorkor

1.3.3.3. Phân loại theo Waterlow (1972)
Để khắc phục nhược điểm phân loại Wellcome là không phân biệt được suy dinh dưỡng hiện tại hay quá khứ

Chiều cao theo tuổi

Cân nặng theo chiều cao (80% hay -2SD)
Trên

Dưới

(90%hay - 2SD)


Trên
Dưới

Bình thường
Thiếu DD thấp còi

Thiếu DD gầy còm
Thiếu DD nặng kéo dài

Thiếu dinh dưỡng gầy còm là thiếu dinh dưỡng cấp tính. Thiếu dinh
dưỡng thấp còi là biểu hiện thiếu dinh dưỡng trường diễn và đã chịu thiếu dinh dưỡng từ lâu.

1.3.3.4. Phân loại theo WHO 2005:
SDD trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân, SDD thấp còi và SDD gày còm [50].Theo khuyến nghị
của Tổ chức Y tế thế giới, các
chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cân nặng theo tuổi (CN/T), chiều cao theo tuổi (CC/T), cân nặng theo
chiều cao (CN/CC). Suy
dinh dưỡng được ghi nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn hai độ lệch chuẩn (< -2SD) so với quần thể tham chiếu NCHS
(National Center For Health
Statistics) của Hoa Kỳ [49]. Đây là cách phân loại đơn giản cho phép đánh giá nhanh các mức độ SDD và có thể áp dụng rộng rãi
trong cộng đồng.


14

Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng quần thể tham chiếu NCHS để đánh
giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em không phù hợp với thực tế vì vậy để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ
năm 2006 WHO đưa ra “chuẩn tăng trưởng mới ở trẻ em” và đề nghị áp dụng trên toàn thế giới [51]. Dựa vào các chỉ tiêu
nhân trắc: tuổi, giới, cân nặng, chiều cao đo được và số trung bình của quần thể tham chiếu WHO 2005 để tính toán các

chỉ số Z–score cân nặng theo tuổi (WAZ), Z–score chiều cao theo tuổi (HAZ), Z–score cân nặng theo chiều cao (WHZ).
WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (< - 2SD) so với quần thể tham chiếu WHO 2005 để đánh giá trẻ bị suy
dinh dưỡng.:

Công thức tính độ lệch chuẩn Z-score ( SD score ):

Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu
Z-score hay SD score =
Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu

-

SDD thể nhẹ cân: CN/T Z-score (WAZ) < - 2SD;
SDD thể thấp còi: CC/T Z-score (HAZ) < - 2SD SDD thể gày còm: CN/CC Z-score

(WHZ) < - 2SD.
WHO cũng đưa ra các mức phân loại sau đây để nhận định ý nghĩa sức
khỏe cộng đồng [48].

Bảng 1.4. Phân loại mức suy dinh dưỡng cộng đồng trẻ dưới 5 tuổi [48]
Mức độ suy dinh dưỡng theo tỷ lệ %
Thấp

T/bình

Cao

Rất cao

Thấp còi ( Stunting )


< 20

20-29

30-39

≥ 40

Nhẹ cân ( Underweight)

< 10

10-19

20-29

≥ 30

10-15

≥ 15

Chỉ tiêu

Gầy còm ( Wasting )

<5

5-9



15

1.3.4. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng :
Tác giả Lê Thị Hương, Trần Thị Lan đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới
2 tuổi tại Đakrông và Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy
rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở đây rất cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới hai tuổi là 41.9% (thể nhẹ cân); 44.1% (thể thấp
còi) và 13,4% ( thể gầy còm) trong khi tỷ lệ trẻ được cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực phẩm vào ngày

hôm trước rất thấp (13,3%), có đến 45% và 60% bị tiêu chảy và nhiếm trùng

đường hô hấp trong 2 tuần qua [23].
Nghiên cứu của Vũ Phương Hà và cộng sự tại hai huyện Hướng Hóa và Đakrông của tỉnh Quảng trị trong năm 2010 cho
thấy: tỷ lệ SDD cao ở cả 3 chỉ số, trong đó SDD thể nhẹ cân là 42,1% (CN/T), thể thấp còi 48,2% (CC/T) và thể gầy
còm 13,9% (CN/CC). Trên 50% các bà mẹ cho rằng phải cho con ăn bổ sung trước 6 tháng hoặc không biết nên bắt đầu cho ăn vào
thời điểm nào [15].
Tác giả Lương Thị Thu Hà tiến hành nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2008 nhận thấy tỷ lệ SDD ở thể nhẹ cân (35,4%), thể thấp còi (41,5%) và thể gầy còm (8,4%), độ
tuổi có tỷ lệ SDD cao ở nhóm tuổi 13 - 48 tháng tuổi. Ở

t h ể nhẹ cân, tỷ lệ SDD trẻ gái cao hơn trẻ trai, ở trẻ em người dân tộc

thiểu số cao hơn trẻ em người Kinh. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra một số yếu tố nguy cơ đối với SDD thể nhẹ cân ở trẻ
em như thời gian ăn bổ sung không đúng, chất lượng thức ăn bổ sung không đảm bảo và tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu
hóa, hô hấp [16].


16


1.4.

Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên Thế giới và ở Việt Nam

1.4.1. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên thế giới

Nhiễm giun là bệnh thường gặp nhất ở người, hay gặp ở các nước nhiệt
đới, phần lớn các nước đang phát triển là vùng nhiễm kí sinh trùng. Theo thống kê của WHO 2002, có đến 230 triệu
trẻ em từ 0-4 tuổi bị nhiễm giun, vùng bị nhiễm nhiều nhất là vùng châu Á, Trung quốc, Ấn độ và sa mạc Sahara
[18].

Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và cộng sự nghiên cứu 1061 trẻ em từ
18-42 tháng tuổi thấy tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng đường ruột là 17,5%, trong đó nhiễm giun đũa chiếm 68,1% [34]. Tại Kenya, Olsen A
và cộng sự cho thấy 16% trẻ nhiễm giun đũa, 63% nhiễm giun móc và 24% nhiễm giun tóc [25].
Bệnh giun đũa rất phổ biến trên thế giới, có mặt hầu hết các châu lục, Châu Á có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất,
khoảng 70%; Châu Phi là 32,32%; các nước Châu Mỹ có tỷ lệ nhiễm khoảng 8%. Tình trạng nhiễm giun đũa ở trẻ em tại một số
nước Đông Nam Á: Thủ đô Kuala Lumpur có tỷ lệ nhiễm giun 15,5%, ở Sulawesi có tỷ lệ nhiễm 59,8%, Sukaraja có tỷ lệ nhiễm
44%, Philippin có tỷ lệ nhiễm 70,6%
Do tính chất sinh thái giống nhau giữa giun tóc và giun đũa nên các vùng có bệnh giun đũa đều có bệnh giun tóc. Bệnh
giun tóc phổ biến ở các vùng nhiệt đới Châu Phi và vùng Đông Nam Á [1]. Ở
Guatemala tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc là 82%. Ở

Jamaicar, tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc là 38,3%,

Indonesia có tỷ lệ nhiễm từ 54,9%-76,0%. Tỷ lệ nhiễm ở trẻ em Philippin là

85,0%.
Bệnh giun móc cũng gặp ở hầu hết các nước trên thế giới, nhưng chủ yếu ở các nước nhiệt đới như Nam Mỹ, Châu Phi,
Nam Á, Đông Nam Á và một số nước Châu Âu. Các nước khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ nhiễm phục thuộc vào từng nước,
từng khu vực: Thái Lan là 40.56%, Indonesia năm 1980 là



17

52%-80%, Malaysia 43-51%, Singapore tỷ lệ nhiễm thấp: 0,3%-6,1%; Lào

2%-31%, Campuchia 35-56% [8].

1.4.2. Tình hình nhiễm giun của trẻ em ở Việt Nam:
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Vì vậy có đầy đủ các yếu tố về: khí hậu, thổ
nhưỡng cho các bệnh giun truyền qua đất phát triển. Mặt khác nền kinh tế chưa phát triển, văn hóa xã hội còn

nhiều phong tục tập quán như ăn rau sống, dùng phân tươi trong canh tác...
Tất cả các yếu tố trên đã tạo điều kiện cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát triển, vì vậy tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở Việt Nam
rất cao [2].

WHO đề nghị cộng đồng được xếp loại có tỷ lệ nhiễm giun cao khi 50%
số người thuộc cộng đồng có kết quả xét nghiệm dương tính. Những vùng có tỷ lệ giun móc lưu hành là những vùng có tỷ lệ nhiễm
giun móc trên 20-30% [42].



Việt Nam, nhiễm giun là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Trên toàn quốc

ước tính số người nhiễm giun đũa khoảng 60 triệu, giun tóc 40 triệu và giun móc 40 triệu, tỷ lệ nhiễm nói chung từ 50-60% [2],
[3]. Đặc biệt, tỷ lệ đa nhiễm hai, ba loại giun rất cao, đạt 60-70% [2]. Riêng trẻ em, tỷ lệ nhiễm giun từ 36,1-99,8%; trong đó,
nhiễm giun Đũa 30,4-93,9%, giun Móc 6,4-70,2%, giun Tóc 0,7-86,6 %. Cường độ nhiễm giun khá cao, 1 gam phân có
8,199 trứng giun Đũa, 264 giun Tóc [26].
Theo nghiên cứu của Đỗ Dương Thái và cộng sự, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ từ 2 - 5 tuổi là 42,8% - 66% [36]. Hoàng Thị Kim
và cộng sự nghiên cứu ở trẻ 1 - 4 tuổi vùng đồng bằng tỷ lệ nhiễm giun móc là 1,4% [27]; Trần Minh Hậu và cộng sự cho thấy, trẻ

em dưới 5 tuổi tại Thái Bình tỷ lệ nhiễm giun

đũa là 77,4%, giun tóc 30,1%, giun móc 1,07% [18] ; Đỗ Thị Đáng nghiên
cứu ở huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ 6 tháng đến 15 tuổi là 87% - 89%, giun tóc 78% 80% và giun móc 20% [5].


18

1.4.3. Đặc điểm sinh học, tác hại đối với sức khỏe và bệnh tật trẻ em của

một số loại giun thường gặp

1.4.3.1. Đặc điểm sinh học của một số loại giun thường gặp
Giun đũa (Ascaris Lumbricoides) là một loại giun lớn, có hình thể dài và to như chiếc đũa [32]. Bệnh giun đũa gây tác hại
tiềm tàng do khả năng chiếm thức ăn của chúng ở ruột non. Ngoài việc chiếm protein của cơ thể, giun đũa
còn gây ra rối loạn các chức năng về tiêu hóa và dinh dưỡng. Do đó ảnh hưởng đến thể lực, tuổi thọ của mỗi người, đặc
biệt làm giảm khả năng phát

triển thể lực và trí tuệ của trẻ em [32]
Giun móc/mỏ gây bệnh ở người chủ yếu do hai loài
giun

tròn

nhỏ

thuộc họ Ancylostomide

là giun móc


(Ancylostoma duoenalae) và giun mỏ (Necator americanus) gây
ra. Hai loại giun này tuy có khác nhau về hình thể nhưng có đặc
điểm dịch tễ học, bệnh học và các tác hại tương tự nhau nên
thường được

gọi chung là giun móc [32]. Giun móc sống ở tá tràng và phần đầu ruột non,
cắm miệng vào niêm mạc ruột để hút máu. Tác hại chủ yếu và nguy hiểm nhất của nhiễm giun móc là gây nên sự mất máu kéo dài,
dẫn đến tình trạng thiếu máu của người bệnh. Đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ. Trong khi hút máu, giun
móc còn tiết ra chất chống đông máu, do đó, máu vẫn tiếp tục chảy sau khi đã hút máu no. Người ta ước tính mỗi con giun móc mỗi
ngày làm mất 0,02-0,07 ml máu. Nếu bị nhiễm hàng trăm con giun móc, lượng máu mất hàng ngày có thể tới 50-60 ml. Mất máu
kéo dài như vậy sẽ gây thiếu máu thiếu sắt nặng, ngay cả trong trường hợp trẻ em và người lớn được ăn uống tốt [31], [32].
Giun tóc (Trichuris trichiura) là loài giun nhỏ dài 3-5 mm có phần đầu mảnh, nhỏ như sợi tóc (Trichusis trichiura)
gây ra. Giun tóc ký sinh ở chủ yếu vùng manh tràng và đại tràng. Giun tóc cắm sâu vào niêm mạc ruột để hút máu [32]. Do giun
tóc có phương thức ký sinh và cắm sâu phần đầu vào niêm


19

mạc ruột vật chủ nên gây tổn thương tế bào, làm rối loạn chức năng ruột và
viêm ruột. Nhiễm giun tóc nặng, kéo dài có thể gây thiếu máu nhược sắc, hồng cầu giảm [31].

1.4.3.2. Tác hại đối với sức khỏe và bệnh tật trẻ em của một số loại giun
Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa nhiễm kí sinh trùng và tình trạng dinh dưỡng biểu hiện qua các chỉ số
nhân trắc.
Tác hại của giun đũa thường liên quan đến số lượng giun tích lũy trong cơ thể. Số lượng giun đũa càng nhiều thì lượng
thức ăn bị chiếm đoạt của vật
chủ càng lớn. Các nghiên cứu đều cho thấy nhiễm giun Đũa số lượng lớn sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng [2], [37]. Nhiễm
giun số lượng nhẹ - vừa thì
không thấy triệu chứng gì rõ rệt, đôi khi thấy buồn nôn, ăn không tiêu, hay đau bụng, đi ngoài phân nát. Ở


trẻ em hay gặp

các triệu chứng như: gầy còm, bụng chướng, biếng ăn, co giật, ứa nước bọt, đó là những triệu chứng nhiễm

độc thần kinh do độc tố của giun gây ra. Biểu hiện suy dinh dưỡng ở trẻ em
nhiễm giun thường kéo dài, cân nặng và tốc độ phát triển thể lực của trẻ em nhiều khi rất thấp [32], [37].
Giun móc không những gây ra tình trạng thiếu máu mà còn làm giảm Vitamin A, B1, C... và giảm protein. Kết quả
nghiên cứu bằng đồng vị phóng xạ cho thấy: hiện tượng giảm protein trong bệnh giun móc vừa do mất máu vừa do rối loạn
hấp thu [2]. Như vậy hậu quả nghiêm trọng nhất của nhiễm giun móc là sự mất máu mãn tính từ tá tràng đến ruột non làm giảm
dự trữ sắt của cơ thể và phát sinh bệnh thiếu máu, thiếu sắt và cũng có thể mất protein huyết thanh dẫn đến giảm Albumin nghiêm
trọng. Ở

trẻ em nhiễm giun móc nhiều và kéo dài có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể như: chậm lớn, còi cọc, chậm

phát triển về tinh thần và trí tuệ [32].
Giun tóc ký sinh ở đại tràng, manh tràng, phần đầu của giun tóc cắm sâu vào niêm mạc ruột gây tổn thương tế bào, làm
rối loạn chức năng ruột và


20

viêm ruột. Hậu quả gây ra những triệu chứng rối loạn tiêu hóa, đau bụng, đi

ngoài... Vì giun tóc hút máu nên những trường hợp nhiễm nặng thường bị

thiếu máu nhược sắc, hồng cầu giảm [21], [31].
Theo WHO, số dân của Việt Nam là 70 triệu, tỷ lệ nhiễm trong dân là 80% nhiễm giun đũa, 52% nhiễm giun Tóc và 32%
giun Móc. Mỗi người Việt Nam trung bình có 8 con giun đũa, 22 con giun tóc và 17 con giun móc. Như vậy, trong một năm tác hại do
giun như sau: giun đũa tiêu thụ 28.616 tấn gạo; 31,8 tấn thịt; giun tóc tiêu thụ 1.461.460 lít máu; giun móc tiêu thụ
27.798.400 lít máu [50].


1.4.4. Một số nghiên cứu về tình trạng nhiễm giun trẻ em
Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và CS nghiên cứu 1061 trẻ em từ 1,5 đến 3,5 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng
đường ruột là 17,5%, trong đó giun đũa chiếm 68,1% [43].

Nguyễn Võ Hinh và CS nghiên cứu trên 6882 mẫu phân trẻ từ 1 - 14 tuổi
tại Thừa Thiên Huế thấy tỷ lệ nhiễm ở trẻ 1 - 5 tuổi giun đũa là 81,8%, giun tóc 20,9%, giun móc 13,64% [20].
Đỗ Dương Thái và CS nghiên cứu trên 1472 trẻ em dưới 3 tuổi tại Hà Nội, trong nội thành thấy tỷ lệ nhiễm giun
đũa là 17,84%, giun tóc 3,22% ngoại thành tỷ lệ nhiễm giun đũa là 46,49%, giun tóc 3,08% [36].
Hoàng Tân Dân và CS nghiên cứu tại trường mầm non nội thành Hà Nội thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 8,8% - 10,2%, giun tóc
3,47% - 4,34%, không có
trẻ nào nhiễm giun móc, tỷ lệ nhiễm phối hợp thấp, cường độ nhiễm nhẹ, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa các lứa
tuổi và giới của trẻ [4].
Năm 2003, Phạm Trung Kiên nghiên cứu ở trẻ dưới 60 tháng tuổi tại Kim Bảng Hà Nam cho thấy tỷ lệ nhiễm giun
chung là 93,4%, trong đó trẻ em ở xã Hoàng Tây có tỷ lệ nhiễm giun đũa là 85,3%, giun tóc 69,5% và trẻ ở xã Văn Xá tỷ lệ nhiễm
giun đũa là 79,5%, giun tóc 63,9% [25].


21

Tác giả Châu Văn Hiền và CS tiến hành xét nghiệm phân 240 trẻ em từ
12 đến 36 tháng tuổi tại 5 xã của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị tháng 2/2006, kết quả ghi nhận tình hình nhiễm giun
đường ruột chung là 52,50%; trong đó 35,00% nhiễm giun đũa, 20,10% nhiễm giun móc và không có trường hợp nào nhiễm
giun tóc; nhiễm phối hợp 2 loại giun (đũa+móc) là 2,91%. Trẻ em từ 12 đến 24 tháng tuổi nhiễm giun đường ruột là 47,54%, trẻ em từ
25 đến 36 tháng tuổi nhiễm giun đường ruột là 57,36%, đồng thời kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trong nhóm trẻ
em nhiễm giun là 72,00% [19].
1.5. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em

1.5.1. Nguyên nhân, yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng


Năm 1998, UNICEF đã phát triển mô hình nguyên nhân suy dinh dưỡng.
Một số tổ chức khác cũng đã có những mô hình nguyên nhân - hậu quả SDD riêng, hoặc phát triển mô hình mới dựa trên mô hình của
UNICEF.

Mô hình nguyên nhân của SDD thiếu protein, năng lượng ở trẻ em dưới
5 tuổi cho thấy, suy dinh dưỡng là do tác động của nhiều yếu tố, có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề y tế, lương thực-thực phẩm
và thực hành chăm sóc trẻ tại hộ gia đình. Mô hình chỉ ra các nguyên nhân ở các cấp độ khác nhau: nguyên nhân trực tiếp,
nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân sâu xa và các yếu tố ở cấp độ này ảnh hưởng đến cấp độ khác.
Nguyên nhân trực tiếp của SDD trẻ em gồm ăn uống không hợp lý và bệnh tật:

- Các yếu tố về dinh dưỡng/chế độ ăn :
Các số liệu điều tra riêng về khẩu phần ăn của người lớn và trẻ em cho thấy chế độ ăn đóng vai trò quan
trọng dẫn tới tình trạng suy dinh dưỡng ở

Việt Nam. Nhìn chung, khẩu phần ăn ở cả người lớn và trẻ em nước ta còn ở


22

mức thấp so với các nước trong khu vực [34]. Đối với trẻ em trên 2 tuổi thì
hầu hết các gia đình cho trẻ ăn cơm cùng bữa cơm với gia đình, nhưng số bữa ăn hàng ngày thấp (trung bình 3 bữa/ngày). Ngay ở
nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi cũng chỉ có 17,5% được ăn 3 bữa/ ngày. Tần xuất xuất hiện các thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa
trong bữa ăn của trẻ thấp, thường do điều kiện kinh tế gia đình hoặc do hiểu biết của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em còn quá
hạn chế [34].

- Bệnh nhiễm trùng :

Vòng xoắn bệnh lý giữa các bệnh nhiễm trùng ở trẻ em và SDD đã được chứng minh. Bệnh nhiễm trùng dẫn đến SDD, SDD
dẫn đến bệnh nhiễm trùng
và vòng xoắn bệnh lý cứ thế tiếp diễn nếu không có can thiệp hoặc xử trí phù hợp.

Nhiễm trùng, đặc biệt là tiêu chảy ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Các tổn thương đường tiêu hóa làm
tăng hao hụt các chất dinh
dưỡng, giảm hấp thu, đặc biệt các vi chất dễ đưa đến SDD do rối loạn tiêu hoá. Và ngược lại, SDD dễ dẫn tới nhiễm khuẩn
do sức đề kháng giảm. Do
đó, tỷ lệ SDD có thể dao động theo mùa và thường cao trong những mùa có các bệnh nhiễm khuẩn lưu hành ở mức cao (tiêu
chảy, nhiễm khuẩn hô hấp, sốt rét) [34]. Bên cạnh đó, các bệnh nhiễm trùng khác cũng ảnh hưởng nhiều

tới dinh dưỡng như nhiễm khuẩn đường hô hấp, sởi và các bệnh kí sinh trùng

đường ruột.
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra SDD, thiếu máu ở trẻ em. Nhiễm ký sinh trùng
đường ruột với cường độ cao và trong một thời gian dài có thể gây suy dinh dưỡng như thấp còi, nhẹ cân và ở những trường hợp
nặng có thể gây tử vong [51].

Nguyên nhân sâu xa (tiềm tàng) của SDD do sự bất cập trong dịch vụ

chăm sóc bà mẹ, trẻ em, kiến thức của người chăm sóc trẻ, yếu tố chăm sóc


23

của gia đình, các vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường và tình trạng nhà ở
không đảm bảo, mất vệ sinh. Tỷ lệ SDD ở trẻ có mối quan hệ mật thiết với trình độ giáo dục và tình trạng SDD mạn tính của
người mẹ. Những phụ nữ bị thiếu năng lượng trường diễn hoặc chiều cao thấp thường dễ đẻ con nhỏ yếu, cân nặng sơ sinh thấp [44].
Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi những người phụ nữ có học thức cao hơn thì thường được chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn. Theo kết
quả nghiên cứu của Đặng Oanh, Vũ Đức Bảo, Nguyễn Thanh Quế cùng cộng sự (1997) cho thấy, trẻ của những bà mẹ có trình độ văn
hóa từ cấp 1 trở xuống hoặc mù chữ có tỷ lệ SDD cao hơn những bà mẹ có trình độ văn hóa từ cấp 2 trở lên [33].
Nguyên nhân gốc rễ (cơ bản) của SDD trẻ em đó là nghèo đói và thiếu kiến thức. Đói nghèo chủ yếu rơi vào những hộ
gia đình có trình độ học vấn thấp, khó có cơ hội tiếp xúc với thông tin và với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Mặt khác, phần
lớn các hộ gia đình nghèo, nhất là vùng nông thôn và miền núi lại thường sinh nhiều con. Vì gia đình đông con nên chế độ dinh dưỡng,

khẩu phần ăn của trẻ không được đảm bảo. Chính điều này lại tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo khó giải quyết.

1.5.2. Nguyên nhân, yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun của trẻ

e
m
Các nước khí hậu nhiệt đới rất thuận tiện cho sự sinh trưởng và phát triển của giun truyền qua đất và các nước có nền kinh tế
chậm phát triển, điều kiện
vệ sinh môi trường còn thấp thì tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất cao hơn. Việt Nam là nước có nhiều điều kiện thuận lợi cho bệnh giun
truyền qua đất tồn tại và phát triển.

Từ những năm 60, cả nước ta đã có phong trào “ba sạch, ba diệt”, việc
xây dựng những công trình vệ sinh an toàn đã góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh giun sán và bệnh đường tiêu hoá. Theo nghiên cứu
của Bộ Nông nghiệp và


24

Phát triển nông thôn, hố xí hai ngăn là loại hố xí phù hợp nhất với vùng nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ. Hố xí dội thấm nước tuy cũng diệt được mầm bệnh GTQĐ, nhưng có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Giáo dục sức khoẻ có vai trò quan trọng trong phòng chống bệnh giun truyền qua đất. Giáo dục sức khoẻ nhằm tăng
cường lối sống vệ sinh, lành mạnh, nâng cao kiến thức vệ sinh phòng bệnh của người dân. Mascie - Taylor (1999) thấy giáo dục sức
khoẻ (cải thiện vệ sinh cá nhân, đi dép, rửa tay, dùng hố xí sạch) là biện pháp phòng bệnh GTQĐ hiệu quả và ít tốn kém nhất [55].
Nghiên cứu của Lê Nguyễn Bảo Khanh và CS (1998) cho thấy thực hiện tăng cường giáo dục kiến thức phòng bệnh giun sán cho học
sinh tiểu học đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất [56]. Tuy nhiên, để giáo dục sức khoẻ đạt hiệu quả, đòi hỏi phải có
sự lồng ghép và liên kết nhiều chương trình y tế với sự tham gia của cộng đồng, trường học, các đoàn thể xã hội và các chuyên gia
truyền thông. Chỉ có các biện pháp vệ sinh môi trường mới đảm bảo tính an toàn và hiệu quả lâu dài của chương trình phòng
chống GTQĐ.



25

CHƯƠNG 2:

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.

Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại 4 xã (ABung, Tà Rụt, Đakrông và xã Hướng Hiệp) thuộc huyện Đakrông tỉnh Quảng

Trị.
Đakrông là một huyện miền núi biên giới phía Tây Nam của tỉnh Quảng Trị, có 13 xã và 1 thị trấn, với 102 thôn.
Về vị trí địa lý: diện tích tự
2
nhiên là 1123,32 km ; phía bắc giáp huyện Hướng Hóa, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía tây là nước bạn Lào,

phía đông giáp các huyện Hải
Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh. Theo Chi cục thống kê huyện, dân số của huyện tính tới tháng 12/2003 là 34.869 người, trong
đó 82% là đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều và Pakoh.Về kinh tế, Đakrông là huyện nghèo của

tỉnh, giao thông khó khăn, điều kiện phát triển kinh tế thấp kém kéo theo tình
trạng y tế chưa được đảm bảo tốt gây khó khăn cho ngành Y tế trong việc đảm bảo chỉ tiêu giảm tình trạng SDD trên địa
bàn. Tính tới tháng 12/2008, theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Quảng Trị tỷ lê SDD tại Đakrông là 36,6% [39].

2.

Đối tượng nghiên cứu




Trẻ em từ 12 đến 36 tháng tuổi trên địa bàn nghiên cứu.



Bà mẹ của trẻ có con từ 12-36 tháng tuổi (mẹ của những trẻ đã

được chọn) đang có mặt tại địa bàn trong thời gian nghiên cứu).

2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
-

Trẻ: trong độ tuổi 12-36 tháng có mặt tại thời điểm và trên địa bàn nghiên
cứu đó được lựa chọn. Trẻ không bị mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính, hiện tại không mắc các bệnh cấp tính.

-

Bà mẹ: là mẹ của các trẻ được lựa chọn, không bị tâm thần, không bị rối loạn

trí nhớ và hợp tác.


×