Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tình hình Đô la hóa ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.64 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
---------***--------

TIỂU LUẬN:
“ Tình hình Đôla hóa ở Việt Nam giai đoạn 2010 –
2014”
Giáo viên hướng dẫn: TS Trần Thị Lương Bình
Sinh viên thực hiện:

Lê Thị Thúy An - 1113320366
Nguyễn Quỳnh Anh - 1111320429
Phạm Đình Duy - 1113320311
Trần Trung Hiếu - 1113320382
Vũ Thị Thùy Linh - 1113320330
Trần Lê Phương Thảo- 1111320349


Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền
kinh tế thế giới và khu vực, điều này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với các vấn đề trong nước, đặc biệt là các vấn đề về chính sách
kinh tế vĩ mô của nhà nước để ổn định nền kinh tế. Một trong những thách
thức lớn mà nền kinh tế chúng ta đã và đang phải đối mặt đó là hiện tượng
Đôla hóa nền kinh tế, đặc biệt sau năm 2006 khi chúng ta gia nhập WTO.
Đôla hóa, một mặt có thể thúc đẩy nền kinh tế nói chung và phát triển hệ


thống ngân hàng nói riêng, tuy nhiên nó cũng gây ra những rủi ro lớn về
khả năng thanh toán và chi trả cho hệ thống ngân hàng, cho người dân và
cho nền kinh tế. Chính vì vậy, để có một cái nhìn tổng quá hơn về tình trạng
đôla hóa cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng đôla hóa ở
Việt Nam, nhóm chúng em chọn đề tài “Tình hình Đôla hóa ở Việt Nam
giai đoạn 2010 – 2014” để nghiên cứu trong môn Kinh doanh ngoại hối.
Bài tiểu luận có kết cấu 3 phần như sau:
-

Khái niệm chung về Đôla hóa
Thực trạng Đôla hóa ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014
Một số giải pháp đề ra để hạn chế tình trạng Đôla hóa
Chúng em xin cảm ơn và rất mong nhận được ý kiến góp ý của cô.


I.

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA
1. Khái niệm

Đôla hóa hiểu theo một cách thông thường là ngoại tệ được sử dụng
một cách rộng rãi thay thế cho đồng nội tệ trong toàn bộ hoặc một số chức
năng tiền tệ của nền kinh tế đó

Theo định nghĩa của IMF, một nền kinh tế bị coi là có tình trạng Đôla
hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong
tổng khối lượng tiền tệ mở rộng M2 (tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ).
Theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam, Đôla hóa là tình
trạng một đồng tiền nước ngoài thực hiện một trong các chức năng cơ bản

của đồng tiền nội tệ như phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy,
thước đo giá trị…
2. Phân loại Đôla hoá

Căn cứ vào phạm vi, Đôla hoá gồm 3 loại chính là: Đôla hoá không
chính thức, Đôla hoá bán chính thức và Đôla hoá chính thức.


Đôla hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng
rộng rãi trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính
thức thừa nhận. Thuật ngữ Đôla hoá không chính thức bao gồm cả
các trờng hợp nắm giữ tài sản nước ngoài hợp pháp và không hợp
pháp. ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp
như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại


không hợp pháp khi có tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trừ phi
được cấp phép.
Đôla hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển


Đôla hoá bán chính thức: Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF
xếp là nước “Đôla hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành
chính thức hai đông tiền. ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng
tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các
khoản tiền gửi ngân hàng nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả
lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì
NHTW hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn tương tự để thực hiện
chính sách tiền tệ của họ.




Đôla hoá chính thức: hay còn gọi là Đôla hoá hoàn toàn xuất hiện
khi đất nước đó không sử dụng đồng tiền nội tệ, đồng ngoại tệ không
chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân
mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của chính phủ.
Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ đóng vai trò thứ yếu và thường

chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường chỉ áp
dụng Đôla hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các chương trình
ổn định kinh tế.
Đôla hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ
được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước Đôla hoá chính thức thường
chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm tiền hợp pháp. ở hầu hết các nước Đôla hoá
chính thức, các đối tác tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền
nào mà họ cùng đồng ý.
Theo IMF hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là các nước Đôla
hoá chính thức. Ví dụ: Ecuador sử dụng Đôla Mỹ là đồng tiền chính thức
thay cho đồng nội tệ “Sucre” vào ngày 9/1/2000 do khủng hoảng kinh tế


năm 1999 làm ngân sách quốc gia bị thâm hụt nặng nề: GDP giảm 7.3%;
lạm phát 52.2% …
3. Nguyên nhân Đôla hóa
− Do địa vị kinh tế chung của các nước có đồng tiền mạnh

Xuất phát từ nhu cầu sử dụng một “đồng tiền quốc tế” trong giao dịch
thương mại, một số nước dựa vào lợi thế kinh tế chủ trương đưa đồng tiền
của mình ra thế giới để tạo ra thế mạnh cạnh tranh và nhiều lợi thế khác.
(Ví dụ như USD được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ đầu thế kỉ 20, chiếm

70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới).
Do đồng nội tệ có giá trị thấp và không ổn định



Nhiều nước đang phát triển phải đối mặt với nhiều thách thức lớn như
toàn cầu hóa, thiên tai, dịch bệnh, tham nhũng … làm cho nền kinh tế phát
triển kém và không ổn định khiến cho đồng nội tệ bị suy yếu


Do trình độ quản lý của nhà nước và chính sách tiền tệ quốc

gia
Việc quản lý tiền tệ của nhà nước lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, không kiểm
soát được chi tiêu ngoại tệ trên thị trường. Nhiều nước chủ động theo đuổi
những lợi ích của việc đôla hóa. Chính sách tiền tệ làm đồng nội tệ yếu và
bất ổn.


II.

THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 2014
1. Biểu hiện Đôla hóa ở Việt Nam
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng Đôla Mỹ

trong giao dịch buôn bán bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân
hàng được phép nhận tiền gửi bằng Đôla Mỹ. Đến nay Đôla hóa ở Việt
Nam biểu hiện ở hai lĩnh vực hoạt động quan trọng của nền kinh tế thị
trường; thứ nhất là Đôla hóa trong hoạt động thương mại đầu tư và Đôla
hóa trong hoạt động ngân hàng.

1.1. Đôla hóa trong thương mại

Một lĩnh vực Đôla hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh
doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử, kinh doanh nhà hàng,
khách sạn…Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VND
lẫn USD ở rất nhiều các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các
thiết bị gia dụng nhập ngoại…Mặc dù hai loại giá được đặt song song
nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách
hàng thanh toán bằng VND thì giá của hàng hóa sẽ được xác định dựa trên
tỷ giá hối đoái giữa VND và USD của ngày thực hiện giao dịch. Việc niêm
yết giá bằng USD xuất phát từ 2 nguyên nhân chính sau:
- Thứ nhất, những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà
doanh nghiệp Việt Nam không thể từ sản xuất, mà phải nhập khẩu toàn bộ
hoặc nhập khẩu một phần linh kiện, nên giá của chúng phụ thuộc rất nhiều
vào USD, do vậy, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc các doanh nghiệp
này phải niêm yết giá bằng USD
- Thứ hai, việc doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng
tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh
doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.
1.2. Đôla hóa trong hoạt động ngân hàng


Đôla hóa diễn ra ở các nước trên thế giới rất khác nhau.Ở Việt Nam,
ngoài việc xác định mức Đôla hóa của nền kinh tế bằng mức độ Đôla hóa
trong xã hội, còn có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: tỉ lệ tiền
gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán, tỉ trọng cho vay bằng
ngoại tệ so với tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế
1.2.1.

Đôla hóa tiền tín dụng


Tình hình tín dụng trong nửa đầu năm nay giống như trong năm 2010
và 2011, khi tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ ở mức cao hơn tăng trưởng
tín dụng bằng VND.

Năm
Tăng trưởng tín
dụng ngoại tệ (%)
Tăng trưởng tín
dụng nội tệ

2010

2011

2012

48,5%

16,8%

8,92%

2013

20,77%
12,1%

27,2%


13,7%

-3,51%

Nguyên nhân chung của diễn biến trên là do chênh lệch lãi suất giữa
VND và USD đã giảm mạnh, ở mức 8 - 9,5% trong giai đoạn 2010 - 2011
còn 5% từ đầu năm 2014 tới nay. Bên cạnh đó, tín dụng ngoại tệ tăng tốc
còn nhờ những thay đổi trong chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
Năm 2010 là năm Thông tư 29/2005/TT-Ngân hàng Nhà nướcngày
15/12/2009 bắt đầu có hiệu lực, theo đó, đối tượng được vay bằng ngoại tệ
được mở rộng so với quy định trước đó trong Quyết định 09/2008/QĐNgân hàng Nhà nướcngày 10/4/2008. Theo đó, đối tượng vay được bổ sung
thêm các khoản tín dụng để thực hiện đầu tư sản xuất hàng hoá, dịch vụ
xuất khẩu, nếu vay để sử dụng trong nước thì phải bán ngoại tệ vay cho tổ
chức tín dụng cho vay. Ngoài ra, các trường hợp khác cũng có thể được cho
vay ngoại tệ nếu có sự chấp thuận trước bằng văn bản của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.

Cuối tháng
9 năm 2014

4,39%


Trong năm 2009, nhờ chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ,
nhiều doanh nghiệp có thể vay vốn VND với lãi suất thấp, chỉ 4 - 6%/năm,
tương đương lãi suất cho vay bằng USD. Do đó, tổng tín dụng VND tăng
trưởng ở mức cao kỷ lục 43,5% so với năm trước đó. Tuy nhiên, tín dụng
ngoại tệ vẫn tăng 15,1% so với năm 2008. Năm 2010, khi chấm dứt hỗ trợ
lãi suất, tín dụng ngoại tệ tăng mạnh và đạt mức 48,4% cho cả năm.
Thực tế đó đã góp phần làm tỷ giá tăng đột biến vào cuối năm 2010 và

đầu năm 2011 do nhu cầu USD tăng mạnh khi những khoản vay đáo hạn.
Từ năm 2010 đến quý I/2011, Ngân hàng Nhà nướcđã phải điều chỉnh tăng
tỷ giá bình quân liên ngân hàng 3 lần, tổng cộng tăng 5,3% trong năm 2010
và tăng tới 9,3% tính đến ngày 11/2/2011.
Trước đó, trong giai đoạn 2008 - 2009, mặc dù tín dụng ngoại tệ tăng
ở mức thấp hơn tín dụng VND, song tăng trưởng tín dụng ngoại tệ luôn ở
mức khá cao và tỷ giá cũng luôn chịu áp lực tăng do lạm phát cao trong
nước.
Trong năm 2014, tình hình đã có nhiều thay đổi. Đối tượng được vay
tín dụng ngoại tệ theo quy định tại Thông tư 29/2013/TT-Ngân hàng Nhà
nướcngày 6/12/2013 được mở rộng hơn so với quy định tại Thông tư
25/2009/TT-Ngân hàng Nhà nước, bao gồm cả cho vay để nhập khẩu xăng
dầu và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Cùng với đó là quy định trần huy động lãi suất ngoại tệ, bắt đầu áp
dụng với tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) từ ngày 11/2/2010 và bắt
đầu áp dụng với cá nhân từ ngày 13/11/2011. Từ đó đến nay, trần lãi suất
huy động ngoại tệ đã giảm về mức rất thấp: 0,25%/năm với tổ chức kinh tế
và 1,25%/năm đối với cá nhân. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nướccòn nâng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi bằng ngoại tệ, giảm lãi suất tiền gửi vượt dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước, yêu cầu các tổng công


ty nhà nước phải bán ngoại tệ... Nhờ vậy, dòng vốn bằng ngoại tệ chuyển
dịch dần từ kênh huy động - cho vay ra thị trường mua - bán.
Đó là lý do vì sao suốt ba năm qua, tín dụng ngoại tệ tăng vượt trội so
với tín dụng nội tệ nhưng chưa phát sinh quá nhiều nhu cầu mua ngoại tệ để
trả nợ vay. Nhờ đó mà không gây áp lực lên tỷ giá trong suốt một thời gian
dài.
Thế nhưng, đến một lúc đó, áp lực về thanh khoản ngoại tệ sẽ căng thêm;
thêm vào đó, nếu có một biến cố thị trường khiến doanh nghiệp tin rằng tỷ

giá sẽ tăng trong thời gian tới, họ sẽ gia tăng mua USD để trả nợ vay và áp
lực lên tỷ giá tại một thời điểm nhất định là khó tránh khỏi.
1.2.2.

Đôla hóa tiền gửi

Huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại
(NHTM) đã tăng thêm lợi ích cho những người đầu cơ và sùng bái ngoại tệ,
do vậy, trực tiếp làm tăng mức độ Đôla hoá nền kinh tế, nhất là khi đồng
bản tệ không được tin tưởng do những khó khăn về tăng trưởng kinh tế và
những hạn chế trong quản lý vĩ mô.
Khi các NHTM huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ, không những tỷ
trọng tiền gửi bằng ngoại tệ (FCD) trong tổng khối lượng tiền mở rộng
(M2) sẽ gia tăng mà còn tạo ra động cơ nắm giữ ngoại tệ cũng như sự tồn
tại một lưu lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường tự do ngoài sự kiểm soát
của các cơ quan chức năng quản lý của nhà nước.


Chỉ số tiền gửi ngoại tệ (FCD/M2) ở Việt Nam (Nguồn:
tapchitaichinh.vn)
Mức độ Đôla hóa của Việt Nam là khá cao luôn nằm ở mức trên 20%.
Từ 11/2009, tiền đồng đã giảm giá 4 lần làm mất niềm tin của người dân
đẩy nhanh quá trình Đôla hóa. Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối của
người dân bằng USD tại các ngân hàng không ngừng tăng lên, đặc biệt là hệ
thống ngân hàng tại TPHCM và Hà Nội. Nhưng những nỗ lực không ngừng
của Ngân hàng Nhà nướcbằng việc ban bố các thông tư quy định lãi suất
huy động tối đa bằng USD của tổ chức cá nhân theo hướng giảm lãi suất
huy động USD của các tổ chức, cá nhân xuống, đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc ngoại tệ. Động thái của Ngân hàng Nhà nướcđang thể hiện rõ việc
siết chặt thị trường ngoại hối, hạn chế nắm giữ vốn bằng đồng USD, từng

bước chống lại tình trạng Đôla hóa nền kinh tế.
Năm

2013

Tháng 8/ 2014

13,7%

9,94%

Tăng trưởng huy động
vốn ngoại tệ (%)


Tăng trưởng huy động
vốn nội tệ (%)

15,93%

-0,1%

Nguyên nhân của tình trạng lượng USD huy động người dân ít đi là
do nguồn USD dồi dào nên tỷ giá USD/VND tiếp tục ổn định, lãi suất gửi
tiết kiệm bằng tiền đồng hấp dẫn hơn lãi suất USD đã tác động đến quyết
định chọn gửi tiết kiệm bằng tiền đồng của người dân. "Người dân không
giữ USD là do hiện nay có nhiều kênh sử dụng nguồn vốn như đầu tư
chứng khoán, bất động sản...
2. Nguyên nhân của hiện tượng Đôla hóa ở Việt Nam
2.1.


Nguyên nhân khách quan

Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm
phát, sức mua của đồng nội tệ giảm sút người dân phải tìm các công cụ dự
trữ giá trị khác, trong đó có đồng USD. Tất cả các nền kinh tế bị "Đôla hóa"
đều có nguồn gốc từ niềm tin của người dân. Họ mất lòng tin vào chính
sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong một thời gian dài và đồng
nội tệ bị mất giá, tỷ giá hối đoái tăng. Do vậy, họ chuyển các tài sản danh
nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực.
Tính chuyển đổi của đồng nội tệ: Có nghĩa là VND chưa được tự do
chuyển đổi, đặc biệt là cán cân vãng lai, kém hấp dẫn so với ngoại tệ. Bởi
do không được đảm bảo sức mua đầy đủ với tỷ giá thực tế khi có nhu cầu,
chưa kể khuynh hướng cất trữ ngoại tệ của người dân để sử dụng khi cần.
Kết quả là đồng ngoại tệ lấn át đồng nội tệ trong chức năng cất trữ và hiện
tượng "Đôla hóa" sẽ tồn tại như một hiện tượng kinh tế khách quan. Đồng


nội tệ không thể cạnh tranh với đồng ngoại tệ trong việc thực hiện một, hai
hay ba chức năng của tiền tệ.
Yếu tố tâm lý: Sau một thời gian lạm phát cao và những bất ổn của
nền kinh tế làm cho đồng nội tệ bị mất giá. Khi nền kinh tế đã ổn định thì
người dân luôn có tâm lý đề phòng những biến động này nên vẫn duy trì tài
sản của họ bằng đồng ngoại tệ.
2.2.

Nguyên nhân chủ quan

Chính sách quản lý ngoại hối lỏng lẻo: chính sách quản lý ngoại hối
không chặt chẽ trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng

phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua ngân hàng
thương mại đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ khi xuất hiện
những biến động về ngoại tệ. Chính sách ngoại hối không được kiểm soát
để thực thi đúng quy định, hiện tượng lạm dụng giấy phép thu đổi ngoại tệ
để kinh doanh trên thị trường sẽ xảy ra tạo điều kiện cho thị trường ngoại
hối phi chính thức phát triển.
Sự yếu kém trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia như chính
sách tỷ giá, chính sách lãi suất thiếu đồng bộ: Ở Việt Nam lãi suất vay vốn
USD bình quân thường thấp hơn lãi suất vay vốn nội tệ nên nhiều doanh
nghiệp chuyển sang vay ngoại tệ làm cho tỷtrọng và số tuyệt đối dư nợ vốn
vay ngoại tệ tăng lên. Ngoài ra, chính sách phá giá đồng nội tệ nhằm
khuyến khích xuất khẩu làm cho dân chúng cũng có tâm lý chuyển sang giữ
ngoại tệ.
Cung – cầu ngoại tệ: Khi cung - cầu ngoại tệ trên thị trường mất cân
bằng làm cho tỷ giá không phản ánh chính xác cung - cầu ngoại tệ gây ảnh
hưởng đến đồng ngoại tệ và giá trị đồng nội tệ. Từ đó, gây khó khăn cho
việc ổn định thị trường tiền tệ và chính sách tỷ giá.


Hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt kém phát triển: Việc sử
dụng tiền mặt còn rất phổ biến, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng
ngoại tệ công khai. Việc niêm yết, quảng cáo sản phẩm, thu tiền bán hàng
bằng ngoại tệ được sử dụng phổ biến sẽ tạo tâm lý và thói quen sử dụng
ngoại tệ. Điều này tạo điều kiện cho ngoại tệ được sử dụng mạnh. Ngoài ra,
hoạt động buôn lậu, mua bán bất hợp pháp cũng là nguyên nhân quan trọng
tạo điều kiện cho thị trường ngoại hối phi chính thức phát triển làm trầm
trọng thêm hiện tượng "Đôla hóa".
Nguyên nhân về sự phát triển thiếu vững chắc của nền kinh tế: khi
nền kinh tế phát triển thiếu vững chắc, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp.
Các cơ chế chính sách ban hành thiếu đồng bộ và thống nhất, nguồn lực

quốc gia phân bổ chưa hợp lý chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế.
3. Tác động của "Đôla hóa" lên nền kinh tế Việt Nam
3.1.

Tác động tích cực

Do đồng ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD - đồng tiền chính trong giao
thương quốc tế nên ở Việt Nam nó cũng phát huy tối đa vai trò này. Ngoại
tệ hóa giúp Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư của các nước vào Việt
Nam; Giúp Việt Nam thu hút nguồn kiều hối và các hoạt động trong nước
phát triển như du lịch, du học, người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư… và
thúc đẩy các quan hệ giao thương, trao đổi giữa Việt Nam với các quốc gia
phát triển. Đặc biệt, nó còn là một công cụ chống lạm phát. Mặt khác, do
tâm lý người dân chấp nhận ngoại tệ như một phương tiện thanh toán, tính
toán giá trị cũng như cất trữ của cải dưới dạng một tài sản có tính thanh
khoản cao. Với tính năng này, đồng ngoại tệ càng trở nên quan trọng hơn
trong danh mục tiết kiệm của các hộ gia đình, chưa kể tới điểm ưu việt là sẽ
bảo toàn tài sản của người dân khi lạm phát gia tăng.


3.2.

Tác động tiêu cực

Khi hiện tượng "Đôla hóa" tăng, đồng ngoại tệ được sử dụng phổ biến
sẽ làm cho người dân mất niềm tin vào VND, thị trường "chợ đen" về ngoại
tệ tác động không hiệu quả đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp
(doanh nghiệp). doanh nghiệp phải phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ ở thị
trường chợ đen.

Đôla hóa là nguyên nhân gây ra tình trạng hai tỷ giá ở Việt Nam: Tỷ
giá trên thị trường chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Tỷ giá trên thị
trường tự do thường cao hơn tỷ giá trên thị trường chính thức, không chỉ
gây khó khăn cho việc kiểm soát ngoại tệ của nhà nước mà còn gây thiệt hại
cho doanh nghiệp và một bộ phận dân cư. Khi các doanh nghiệp không sử
dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường, Đôla hóa làm cho
doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro tỷ giá và những thiệt hại lớn khi có
những biến động bất thường. Ngay cả nhà đầu tư, người dân khi có biến
động sẽ rút vốn hoặc chuyển hướng đầu tư. Đây là chính những mầm họa
dẫn tới nguy cơ khủng hoảng tiền tệ.
Đặc biệt, khi đồng ngoại tệ được sử dụng phổ biến, nền kinh tế sẽ phụ
thuộc nhiều vào chính sách tiền tệ nước ngoài vì Ngân hàng Nhà nước
không có chức năng phát hành đồng ngoại tệ. Về dài hạn Đôla hóa tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế bền vững, gây khó khăn trong việc điều
hành chính tiền tệ, chính sách tỷ giá và sự an toàn của hệ thống ngân hàng.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ RA HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA

III.

HÓA
Tình trạng Đôla hóa đang là chủ đề hết sức được quan tâm trong thập
kỉ trở lại đây khi nó không khuyến khích doanh nghiệp quốc dân tham gia
sản xuất trong nước hay làm cho người dân mất đi niềm tin vào đồng nội tệ.
Tuy Đôla hóa có những mặt tác động tích cực, quan điểm của Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước là phải áp chế được tình trạng này trong nền kinh tế,
đặc biệt trong thời gian các hiệp định quốc tế về hội nhập, phát triển ngày
càng gia tăng tại Việt Nam. Trong quá trình loại bỏ mặt tiêu cực và khai
thác mặt tích cực của Đôla, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nên chú

trọng đến các yếu tố vi vĩ mô và học tập những kinh nghiệm của các nước
đã thành công trong việc chống Đôla hóa như Singapore, Thái Lan,
Malaysia,… để đúc rút kinh nghiệm và áp dụng vào trong bối cảnh của
nước ta.
Sau đây, nhóm xin đề xuất một số nhóm giải pháp để có thể kiểm soát Đôla
hóa tại Việt Nam:
1. Tạo môi trường đầu tư trong nước để thu hút ngoại tệ trong nền

kinh tế:


Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, triệt để cải cách hệ thống ngân hàng,
có hệ thống tài chính đủ mạnh và có hệ thống giám sát tài chính hiệu
quả. Đồng thời, việc tự do hóa tài khoản vốn luôn phù hợp với sự
phát triển của thị trường chứng khoán. Hệ thống thông tin được xây
dựng và cơ sở dữ liệu chính xác về các giao dịch vốn, tập hợp số liệu
và đánh giá, phân tích hoạt động giao dịch vốn.



Mở rộng các dự án đầu tư chính phủ trong nền kinh tế để khuyến
khích các thành phần đầu tư từ các tổ chức, tư nhân. Tuy nhiên, việc


vay vốn đầu tư vẫn phải được kiểm soát chặt chẽ từ các cơ quan có
thẩm quyền, ví dụ như khi vay quá giới hạn của các công ty nước
ngoài thì không được phép, khuyến khích các nguồn lực tài chính
trong nước hơn là nước ngoài.



Nhà nước có thể dần thay thế các công cụ nợ từ trái phiếu ngoại tệ
trên thị trường quốc tế sang trái phiếu ngoại tệ tại thị trường trong
nước để khuyến khích người dân đầu tư bằng ngoại tệ.



Điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tránh lệ thuộc vào nguồn
nhập khẩu, nhất là nguyên liệu đầu vào để hạn chế nhu cầu
USD( lĩnh vực dầu khí, máy móc…). Thúc đẩy môi trường kinh tế vĩ
mô, tạo môi trường cạnh trinh đầu tư trong nước giữa các thành phần
kinh tế có khả năng hấp thụ được vốn ngoại tệ có trong dân (lĩnh vực
tài chính, ngân hàng….)



Nhà nước cần thực hiện các biện pháp vĩ mô tăng dự trữ USD, chủ
động trong điều hành tỉ giá, tránh tăng tỉ giá quá mạnh gây kích thích
tâm lý dự trữ Đôla, thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ tránh phụ thuộc
vào đồng đôla, sớm chủ trương bán ngoại tện cho người dân có nhu
cầu chính đáng như du học, chữa bệnh, đi công tác tại ngước ngoài..

2. Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ:


Hạn chế cho vay bằng đồng USD và các hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước khi thu về được bằng đồng USD thì sẽ phải
bàn giao lại cho nhà nước trong thời gian 6 tháng (áp dụng phương
pháp của Malaysia)

− yêu cầu phải bán hết các hợp đồng kỳ hạn không có khả năng chuyển


nhượng, thắt chặt trạng thái ngoại hối do mua quá mức của các ngân
hàng, tăng trạng thái ngoại hối do bán quá mức của các ngân hàng,
hạn mức bán USD qua thị trường giao dịch qua quầy (OTC), cấm


các ngân hàng thương mại cấp tín dụng bằng đồng Peso cho người
không cư trú.
− Để mở rộng phạm vi kiểm soát các giao dịch ngoại hối, ngân hàng

trung ương yêu cầu các ngân hàng thương mại phải nộp tất cả báo
cáo về tài chính của công ty con và chi nhánh phụ, các ngân hàng có
các công ty ngoại hối cho ngân hàng trung ương chi tiết các giao
dịch mua bán ngoại hối
− Quy định chống rửa tiền được ban hành, các ngân hàng được yêu cầu

báo cáo những giao dịch lớn có nghi ngờ hoặc có giao dịch bất
thường.


Các Ngân hàng thương mại cần tăng phí, giảm hạn mức rút tiền mặt
ở nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp kiểm soát
những thông tin chuyển tiền bất thường từ thẻ tín dụng. Ví dụ Người
Việt Nam có thể đánh bạc ở nước ngoài bằng cách chuyển tiền từ thẻ
tín dụng đến một địa chỉ nào đó ở nước ngoài. Mặt khác, chủ thẻ có
thể rút USD tại nước ngoài và số ngoại tệ là của Ngân hàng phát
hành thẻ.




Về giải pháp thu hút ngoại tệ, khuyến khích người nước ngoài tăng tỉ
lệ quy đổi USD sang VNĐ, nếu Nhà nước cho phép các Ngân hàng
thu mua USD kèm theo một mức thưởng nhất định giống như hình
thức khuyến mãi sẽ tăng thêm cung USD. Trong khi đó, để có ngoại
tệ bán cho người có nhu cầu chính đáng, Ngân hàng phải dự trữ
ngoại tệ dẫn đến phát sinh chi phí. Nếu Ngân hàng được phép bán
ngoại tệ có thu phí sẽ bảo đảm kinh doanh không thua lỗ, đồng thời
tỉ giá ngoại tệ uyển chuyển hơn. Riêng lãi suất ngoại tệ cần có lộ
trình khống chế trần lãi suất huy động vốn bằng USD, tăng dự trữ
bắt buộc, hạn chế đối tượng vay vốn bằng ngoại tệ để giảm cầu
USD.


− Quản lý kinh vực kinh tế đối ngoại chính là việc kiểm soát chặt chẽ

các giao dịch ngoại hối, nghĩa vụ báo cáo của các tổ chức và cá nhân
có giao dịch ngoại hối được gắn kết chặt chẽ với việc đăng ký tại
ngân hàng trung ương.
3. Thắt chặt, kiểm soát, xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm:
− Nghiêm cấm chi trả bằng đồng ngoại tệ khi ở Việt Nam, dù bằng

trực tiếp hay chuyển khoản mà không được sự đồng ý của Ngân
hàng Nhà nước
− Cá nhân có tiền gửi là ngoại tệ thì chỉ được rút ra khi có mục đích đi

sang nước ngoài hoặc cất giữ riêng
− Ngăn chặn các hoạt động kinh tế ngầm, nạn tham ô tham nhũng, hối

lộ, bán hàng thu ngoại tệ ở trong nước. Cần đưa ra những giải pháp
quyết liệt và cụ thể hơn ở trong luật để răn đe các trường hợp vi

phạm.


KẾT LUẬN
Hiện tượng Đôla hóa đã xuất hiện từ nước ta từ lâu và vẫn tồn tại
trong những năm gần đây. Bên cạnh những tác động tích cực, hiện tượng
Đôla hóa cũng có những đặc điểm tiêu cực đến tình hình kinh tế xã hội Việt
Nam. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc lập của việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng. Việc sử
dụng quá nhiều ngoại tệ vào đời sống hằng ngày sẽ làm cho đồng Việt Nam
bị thay thế và mất chỗ đứng trên chính đất nước mình, làm mất lòng tin của
người dân vào sức mua của đồng nội tệ. Như vậy, việc nhận thức đúng đắn
về hiện tượng Đôla hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế
của nước ta, cần sự quan tâm không chỉ của những nhà hoạch định chính
sách mà của những người tiêu dung, của mọi tầng lớp nhân dân.




×