Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.63 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH –NGÂN HÀNG
=====000=====

TIỂU LUẬN KINH DOANH NGOẠI HỐI
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các NHTM

Họ tên sinh viên:
Bùi Thị Ngọc Anh
1213320004
Nguyễn Thị Hồng Điệp
1213320026
Nguyễn Thị Bích Hằng
1213320047
Phạm Thị Thùy Linh
1213320097
Điện Thị Thùy Linh
1213320089
Bùi Thị Lương
1213320110
Nguyễn Thị Hồng Ngọc
1213320123
Giáo viên hướng dẫn:
TS Trần Thị Lương Bình
Hà Nội – Năm 2014

MỤC LỤC

1



LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO và đang trong tiến trình cải cách để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và song
song là tiến trình tự do hóa nền kinh tế mà lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu chính là lĩnh vực
tài chính ngân hàng. Khi tự do hóa kinh tế, các ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt
động nhưng đồng thời cũng chịu thêm nhiều áp lực cạnh tranh cũng như rủi ro từ môi
trường bên ngoài, trong khi không thể tiếp tục trông chờ vào chính sách bảo hộ của nhà nước.
Tiến trình tự do hóa kinh tế tất yếu dẫn đến tự do hóa các dòng vốn, tự do hóa lãi suất và tự do
hóa tỷ giá hối đoái. Từ trước tới nay, nhờ chính sách can thiệp của nhà nước đã giúp cho lãi
suất và tỷ giá hối đoái rất ổn định. Thêm vào đó, hoạt động của các ngân hàng trong những năm
trước đây chủ yếu tập trung vào khâu tín dụng, có những ngân hàng hoạt động kinh
doanh tín dụng chiếm đến hơn 90%. Vì thế, vấn đề KDNH cũng như quản lý rủi ro tỷ
giá ngoại tệ và giá vàng trong KDNH chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức. Chỉ đến
thời gian gần đây từ năm 2006-2010, khi thị trường chứng khoán sôi động, tỷ giá USD/VND
tăng giảm nhanh, giá vàng biến động mạnh, tỷ trọng kinh doanh tín dụng giảm dần, nhiều loại
hình kinh doanh mới xuất hiện như đầu tư tài chính, kinh doanh vàng,… áp lực cạnh tranh
trên thị trường tăng cao thì các ngân hàng mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc sử
dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho KDNH và các giải pháp khác trong việc quản lý
rủi ro trong hoạt động KDNH. Về phía các Ngân hàng, hoạt động KDNH luôn được kỳ
vọng đem lại nhiều lợi nhuận và rủi ro là thấp nhất. Trong khi đó, sự biến động của tỷ giá
ngoại tệ và giá vàng là rất khó để dự đoán và có thể gây ra nhiều thiệt hại cho cả ngân hàng.
Cho nên, việc tìm ra các giải pháp để phòng ngừa và nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro ngoại hối
cho hoạt động KDNH là thật sự cần thiết. Vì vậy chúng em chọn đề tài “QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ” để
nghiên cứu

2


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN
1.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
Các nhân tố tác động đến rủi ro trong KDNH được chia ra làm hai nhóm, bao gồm nhóm các
nhân tố tác động chung và nhóm các nhân tố tác động riêng:
Nhóm các nhân tố tác động chung gồm nhóm các yếu tố tác động từ môi trường kinh tế - chính
trị - xã hội của các nước trên thế giới gọi là nhóm các yếu tố bên ngoài và nhóm các yếu tố chủ
yếu từ môi trường kinh tế trong nước gọi là các yếu tố bên trong.
Nhóm các nhân tố tác động riêng là các yếu tố gây ra rủi ro cho KDNH của các NHTM xuất phát
từ hoạt động của các ngân hàng, có hai nguyên nhân chính làm phát sinh các rủi ro này là: các
ngân hàng mua bán ngoại tệ phục vụ cho khách hàng hay mua bán cho chính mình; các ngân
hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ
1.1.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
1.1.1.1. Các yếu tố bên ngoài

Đây là các yếu tố chủ yếu thuộc các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội của các nước trên thế
giới có ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia nói chung và hoạt động KDNH nói riêng.
Mức độ tác động này có thể tùy theo độ mở cửa của từng nền kinh tế khác nhau. Tuy nhiên qua
các năm, mức độ ảnh hưởng của sự biến động của các nền kinh tế trên thế giới sẽ tác động ngay
đến các hoạt động của nền kinh tế của một quốc gia theo chính sách mở cửa của quốc gia đó.
1.1.1.2. Các yếu tố bên trong

Đây là các yếu tố tác động từ nội tại của nền kinh tế ở một quốc gia, trong đó chủ yếu bao gồm:
lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, tình trạng đôla hóa nền kinh tế, trạng thái ngoại tệ, cơ
chế điều hành tỷ giá và các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối.


Lạm phát


Quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng,
tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi yếu tố này là nguyên nhân và yếu tố kia là kết quả..
Bên cạnh đó, mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ
giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương
như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷgiá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch
lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị
mất giá so với đồng tiền nước còn lại.


Thâm hụt cán cân thương mại

3


Nhập siêu hay tình trạng thâm hụt cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất
khẩu trong điều kiện nhập khẩu vượt quá xuất khẩu. Nếu tình trạng này duy trì trong dài hạn và
vượt quá mức độ cho phép có thể ảnh hưởng tới cán cân tài khoản vãng lai và gây nên những
biến động bất lợi đối với nền kinh tế như gia tăng tình trạng nợ quốc tế, hạn chế khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế, tác động tiêu cực đến thu nhập và việc làm và ở mức trầm trọng hơn có thể
gây nên khủng hoảng tài chính tiền tệ. Nhập siêu có tác động nhất định tới tỷ giá hối đoái, làm
đồng tiền nội tệ của một nướccó khuynh hướng giảm giá, tuy nhiên trong dài hạn sự giảm giá
của đồng nội tệ không có tác động xấu tới cán cân thương mại, do có tác dụng kích thích sản
xuất hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu.


Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Theo IMF, đôla hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn và tiền gửi ngoại tệ. Đôla hóa được hiểu theo cách đơn giản nhất là ngoại tệ USD được sử

dụng rộng rãi bên cạnh đồng nội tệ làm đồng tiền thanh toán trong các giao dịch thương mại.
Điển hình như, IMF đã xếp Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đôla hóa không chính thức.
Đôla hóa tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đôla hóa có thể làm cho
cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân và các tổ chức kinh tế có xu hướng chuyển từ
đồng nội tệ sang đôla Mỹ, làm cho cầu của đôla Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Đối với quốc gia có tình trạng đôla hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định, trong
trường hợp có biến động, người dân và các tổ chức kinh tế bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể
làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng
lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự
chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác hay còn gọi là hoạt động đầu cơ tỷ giá.
Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và
có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng và hoạt động của thị trường ngoại hối.


Trạng thái ngoại tệ

Đây cũng là một trong những công cụ để điều hành của NHNN. Càng co hẹp trạng thái ngoại tệ,
càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ, hạn chế việc chuyển đổi các đồng tiền. Do vậy, với
việc giảm trạng thái ngoại tệ trong quy định mới có thể khiến thị trường ngoại tệ biến động nhiều
hơn trong thời gian tới và tạo ra nhiều biến động cho tỷ giá USD/VND. Mặt khác, việc các
TCTD phải điều chỉnh lại trạng thái ngoại tệ theo hạn mức mới đồng nghĩa với việc tổ chức phải
mua lại nếu đang ở trạng thái âm lớn hơn hạn mức. Nhu cầu mua lại có lẽ sẽ gây áp lực nhất định
cho thị trường ngoại hối vì tình trạng chênh lệch lãi suất vay USD và VND thời gian qua đã
khuyến khích hoạt động chuyển vốn, chẳng hạn bán USD ra để đổi sang VND nhằm cho vay.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc mua bán vàng trên tài khoản vàng tại
nướcngoài cũng có ảnh hưởng nhất định đến trạng thái ngoại tệ của các NHTM. Từ đó, trạng thái
ngoại tệ này ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động KDNH của các ngân hàng.


Cơ chế điều hành tỷ giá


Kể từ năm 1999, khi Việt Nam có sự thay đổi lớn trong cơ chế tỷ giá, bảng phân loại cơ chế tỷ
giá của IMF xếp Việt Nam vào nhóm cơ chế tỷ giá thả nổi với mức phân định là cơ chế tỷ giá thả
nổi có quản lý không định trước cùng với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore. Ở

4


cùng thời gian này, Malaysia và Trung Quốc vẫn được xếp vào nhóm cố định truyền. Tuy nhiên,
từ cuối năm 2004 trở lại đây,IMF chuyển Việt Nam sang nhóm nước có cơ chế cố định truyền
thống vì nhận định rằng kể từ tháng 8/2004, NHNN công bố sẽ không để tỷ giá USD/VND tăng
quá 1%/năm Với độ mở thương mại khá cao, sự thiếu ổn định của tỷ giá sẽ gây nên vấn đề
nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn và kể cả trung hạn, Việt Nam
khó có thể chuyển sang trạng thái có độ mở thương mại thấp.
Ngoài ra, với việc quy định tỷ giá USD/VND theo hướng thị trường và có điều tiết của NHNN
dễ dàng tạo ra rủi ro tỷ giá, đồng thời kéo theo rủi ro cho hoạt động kinh doanh vàng của các
ngân hàng với lý do là giá vàng trong nước được xác định dựa vào giá vàng thế giới, tỷ giá
USD/VND và các chi phí khác, cho nên rủi ro tỷ giá cũng tất yếu gây nên rủi ro trong hoạt động
kinh doanh vàng của ngân hàng.


Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối

Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công
cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo
ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi
suất, v.v... Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn
toàn rủi ro,trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp
đồng hoán đổi hay những sản phẩm phái sinh kết hợp. Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các
NHTM trở nên phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang

tính truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính mới, hiện
đại, trong đó, phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ với doanh số giao dịch lớn hơn
nhiều so với trước đây. Đây là hoạt động kinh doanh có thể đem lại lợi nhuận rất cao cho
NHTM, nhưng cũng chứa không ít rủi ro. Khi tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng
sẽ tạo ra trạng thái ngoại tệ mở và dẫn đến rủi ro tỷ giá cho ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường
biến động. Để có thể hạn chế được rủi ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng
ngừa, một trong những công cụ hữu hiệu phòng ngừa tỷ giá đó chính là các hợp đồng phái sinh
tiền tệ. Các hợp đồng phái sinh tiền tệ cơ bản bao gồm: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp đồng
ngoại hối hoán đổi, hợp đồng ngoại hối quyền chọn và hợp đồng ngoại hối tương lai. Công cụ
phổ biến nhất để kiểm soát rủi ro giao dịch ngoại hối là những hợp đồng tương lai, hoán đổi và
quyền chọn tiền tệ.
1.1.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân hàng, đó là:Các Ngân
hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua bán cho chính mình; Các Ngân
hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay vàng.
Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính - ngân hàng như ngày nay, nhà quản trị Ngân hàng ngày
càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro ngoại hối, điều này cũng làm phát sinh nhiều nghiệp vụ
mới (gọi là nghiệp vụ phái sinh) trong kinh doanh ngoại hối và được sử dụng tích cực vào việc
phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

5


1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI
1.2.1. Các tiêu chí định lượng
1.2.1.1. Phương pháp đo lường VaR

Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại các NHTM phổ biến
nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR
Với việc sử dụng mô hình VaR, các nhà kinh doanh và quản trị ngân hàng xác định được một

con số cụ thể về mức độ rủi ro của danh mục ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ. Từ đó, các
nhà quản trị ngân hàng xác định được mức độ rủi ro này có nằm trong phạm vi tổn thất cho phép
của các lãnh đạo cao hơn trong ngân hàng hay không. Phương pháp này có thể được thực hiện
trước, trong hay sau khi các dealer thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc thực hiện tính toán VaR
trước khi thực hiện giao dịch ngoại hối sẽ tốt hơn cho việc quản trị ngân hàng.
1.2.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ

Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến hiện nay trên thế giới
về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng thực hiện.
Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) xMức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i)
hay giá vàng
Mức độ chính xác của việc sử dụng phương pháp này phụ thuộc rất lớn vào việc dự đoán mức độ
biến động của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Kết quả của công thức này là một con số cụ thể thể
hiện mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh vàng hay ngoại tệ của ngân hàng.
1.2.2. Các tiêu chí định tính

Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh, sử dụng các kỹ thuật dự đoán
tỷ giá, hạn mức, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước, các chính sách của
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền v.v…
Mức độ thường xuyên sử dụng các công cụ trên trong việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
KDNH hay diễn biến tình hình trong và ngoài nước quyết định quan trọng đến mức độ rủi ro của
KDNH tại các NHTM hiện nay. Do đó, việc ý thức được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
kinh doanh của các cấp lãnh đạo ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn đến rủi ro xảy ra là cao hay
thấp đến kết quả lợi nhuận của ngân hàng; đồng thời việc phân tích và dự báo tình hình trong và
ngoài nước cũng chi phối đến mức độ rủi ro trong hoạt động KDNH của ngân hàng
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.3.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại

Về bản chất, KDNH tự nó chứa đựng rủi ro rất cao. Ngoài các rủi ro thông thường mà các

hoạt động khác cũng phải đối mặt như: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro quốc gia, thì KDNH còn chịu thêm một rủi ro
đặc biệt, đó là rủi ro về tỷ giá ngoại tệ và giá vàng. Do tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động
thường xuyên và bất thường, nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng được xem là rủi ro thường
trực, gắn liền và trở thành rủi ro đặc trưng của hoạt động KDNH của các ngân hàng. Rủi ro ngoại
hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá
trị kỳ vọng trong tương lai.

6


Có hai nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng giao
dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho chính ngân hàng
mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên
nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại
hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh
thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn.
1.3.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại
1.3.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM

Để kinh doanh ngoại tệ có lãi thì các NHTM phải tạo trạng thái ngoại hối mở và tỷ giá
phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá thì nhà kinh doanh chỉ việc không tiến hành
bất kỳ giao dịch ngoại hối nào hoặc nếu đã tạo trạng thái ngoại hối thì tiến hành đóng trạng thái
ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng để làm cân bằng trạng thái. Tuy nhiên, là Dealer thì việc
tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi là công việc hằng
ngày của anh ta. Do đó, tỷ giá luôn biến động thất thường và không giới hạn làm cho cơ hội
kiếm lãi trở nên thường xuyên và vô cùng hấp dẫn. Tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro trong
KDNH là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến động
tỷ giá, trong khi tỷ giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn.
Điều này buộc ngân hàng phải có một cơ chế quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ

và vàng một cách chặt chẽ.
Rủi ro KDNH là một yếu tố khách quan, ngân hàng không thể loại trừ được tất cả mọi rủi
ro có thể xảy ra khi tham gia giao dịch KDNH, mà ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp và
công cụ nhằm hạn chế sự xuất hiện của rủi ro. Cho nên, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là
quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát,
phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro thông thường
gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro,kiểm soát, phòng ngừa rủi ro
và tài trợ rủi ro.
1.3.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM

- Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và hạn chế tổn thất
cho các ngân hàng, từ đó sẽ giúp tối đa hóa lợi nhuận và giá trị cho cổ đông của ngân hàng.
- Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình hình tài chính, ngăn
ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM. Qua đó, các NHTM góp phần tăng lòng
tin nơi khách hàng và các đối tác trong và ngoài nước; đồng thời thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
kinh tế ổn định và bền vững cho đất nước.
- Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể gây nên rủi ro cho
hoạt động KDNH, từ đó ngân hàng có những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp.
Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các quy định
trong nước và các chuẩn mực quốc tế.
- Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân tố tích cực sau
trong quá trình hoạt động của ngân hàng như có sự giám sát và quản lý tích cực của Hội đồng
quản trị và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ các chính sách, quy trình quản lý rủi ro
và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống thông tin quản lý rủi ro phù hợp; và thiết lập được hệ
thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động phù hợp.

7


- Ngoài ra, việc thực hiện quản lý rủi ro KDNH một cách nghiêm túc giúp ngân hàng đảm bảo

rằng vốn pháp định của ngân hàng không bị suy giảm và khả năng chịu đựng rủi ro của ngân
hàng đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đếntổn thất cho ngân hàng tại mọi thời điểm. Bộ
phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc theo dõi, đo lường tất cả các rủi ro của ngân hàng và đánh
giá mức độ đầy đủ của khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm
bảo, ngân hàng sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời.
1.3.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng thương mại

Trên thế giới, các Ngân hàng thường sử dụng các phương pháp sau đây để quản lý rủi ro trong
hoạt động KDNH của Ngân hàng:
- Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi nhóm, cá nhân KDNH
được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính
và trang thiết bị mà hạn mức giữa các tổ chức, giữa các nhân viên kinh doanh là không giống
nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như
sau:
+ Hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức cho từng nhà kinh
doanh cụ thể
+ Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức chung, đối với
những nhóm và cá nhân kinh doanh liên quan đến nhiều đồng tiền, thì việc quy định hạn mức
kinh doanh đối với mỗi đồng tiền là cần thiết. Những đồng tiền ít biến động thì hạn mức có thể
cao, còn những đồng tiền biến động mạnh thì hạn mức thấp hơn.
+ Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức cho từng nghiệp vụ giao ngay, kỳ
hạn, tương lai, hoán đổi và quyền chọn.
- Sử dụng các kỹ thuật dự đoán tỷ giá
Phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay là phân tích cơ bản. Những người sử dụng
phương pháp này dựa vào những phân tích về “những nhân tố cơ bản” như GDP, đầu tư, tiết
kiệm, sản lượng, lạm phát, cán cân thanh toán,…. Những phân tích này không được mô hình hóa
bằng kinh tế lượng mà chỉ mang tính định tính nhằm xác định tác động của nhân tố này đến xu
hướng biến động dài hạn của tỷ giá.
Một phương pháp khác cũng được nhiều nhà quản trị Ngân hàng sử dụng là phương pháp

phân tích kỹ thuật. Phương pháp này dựa trên những nguyên tắc của trường phái nghiên cứu
“hành vi học trong tài chính” (behavioral finance). Theo quan điểm này, các nhà phân tích kỹ
thuật có thể dự báo được những “mẫu hình” của thị trường bằng cách “đọc” các đồ thị tỷ giá.
- Sử dụng các công cụ phái sinh
+ Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng kỳ hạn
Trên thị trường mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp xuất hay nhập khẩu thường có
nhu cầu bán ngoại tệ hay mua ngoại tệ để thanh toán cho các hợp đồng xuất nhập khẩu với các
nước khác. Với tình trạng tỷ giá ngoại tệ luôn biến động bất thường, các nhà xuất nhập khẩu có
xu hướng mua các hợp đồng kỳ hạn với các ngân hàng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Sau khi đã
thực hiện hợp đồng bán kỳ hạn với các doanh nghiệp, để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho chính ngân

8


hàng mình, các ngân hàng này cần thực hiện mua đối ứng các giao dịch kỳ hạn này tại thị trường
ngoại hối nước ngoài hoặc tại thị trường ngoại hối trong nước. Với các giao dịch kỳ hạn này,
ngân hàng trong nước chỉ hưởng phí dich vụ, là khoản chênh lệch giữa phí kỳ hạn tính cho khách
hàng trong nước và phí kỳ hạn mà ngân hàng nước ngoài tính cho ngân hàng trong nước khi thực
hiện giao dịch kỳ hạn ngoại tệ.Hàng hóa ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hóa nào: các loại ngoại
tệ hay vàng. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự
thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng hóa đó trên thị
trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hóa có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so
với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã
cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường. Như vậy
bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng
như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên
mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá
cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện
hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính
xác.

+ Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng tương lai
Cách thức phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng tương lai cũng gần tương tự như trường hợp phòng
ngừa rủi ro bằng hợp đồng kỳ hạn, như: khách hàng có nhu cầu bán hay mua một loại ngoại tệ
nào đó trong tương lai cho nhu cầu xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và lo ngại tỷ giá biến động
nhiều sẽ gây rủi ro cho số lượng ngoại tệ mà họ cần bán hay mua trên, khách hàng sẽ mua một
hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, ngân hàng sau khi bán hợp đồng tương lai, phải
thực hiện giao dịch đối ứng trên thị trường ngoại hối và hưởng chênh lệch phí đồng thời phòng
ngừa được rủi ro có thể xảy ra khi tỷ giá biến động bất lợi.
Tuy nhiên, một trong những điểm khác biệt cơ bản của giao dịch tương lai và kỳ hạn trong việc
phòng ngừa rủi ro tỷ giá là: hợp đồng kỳ hạn được thương lượng trực tiếp giữa hai chủ thể,
không cần chuẩn hóa sản phẩm và không yêu cầu thủ tục phức tạp, trong khi hợp đồng tương lai
được giao dịch trên Sở giao dịch tương lai nên việc chuẩn hóa hợp đồng là điểm quan trọng, vì
vậy rủi ro tín dụng cũng được hạn chế nhiều hơn so với các giao dịch kỳ hạn.
+ Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng quyền chọn
Tương tự như hai loại sản phẩm phái sinh trên, khách hàng xuất nhập khẩu có nhu cầu mua sản
phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi tỷ giá do tỷ giá có thể biến động bất lợi và gây tổn thất đến số
lượng ngoại tệ dự kiến trong tương lai. Trong trường hợp này, khách hàng chọn mua hợp đồng
quyền chọn (quyền chọn bán hoặc hoặc chọn mua). Còn ngân hàng thì bán quyền chọn bán hoặc
bán quyền chọn mua. Đối với nước ta, trong thời gian trước đây khi cho thực hiện giao dịch
quyền chọn, thì khách hàng chỉ được mua quyền chọn, chứ không được bán quyền chọn để
phòng ngừa rủi ro hay đầu cơ. Ngân hàng chỉ được thực hiện bán quyền chọn cho khách hàng có
nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Sau khi ngân hàng bán quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua cho khách hàng, để phòng ngừa
rủi ro tỷ giá, ngân hàng cần thực hiện mua lại quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua trên thị
trường ngoại hối. Lúc đó, ngân hàng chỉ hưởng phí quyền chọn chênh lệch.
+ Phòng ngừa rủi ro ngoại hối bằng hợp đồng hoán đổi
Giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn. Bản thân
giao dịch hoán đổi giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao ngay là có thể thỏa mãn nhu
cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời khắc phục được nhược điểm của
hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại.


9


Trong trường hợp này ngân hàng cần mua đối ứng giao dịch hoán đổi tương ứng với đối tác trên
thị trường ngoại hối nhằm tránh rủi ro khi tỷ giá biến động bất lợi.
Vào ngày hiệu lực hợp đồng hoán đổi, ngân hàng có thể kiếm lợi nhuận từchênh lệch giá mua và
giá bán ngoại tệ giao ngay và tránh được rủi ro tỷ giá đối với nguồn ngoại tệ đáp ứng cho giao
dịch giao ngay. Vào ngày đáo hạn hợp đồng hoán đổi ngoại tệ trên, ngân hàng kiếm được lợi
nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán kỳ hạn và cũng tránh được rủi ro khi tỷ giá biến động bất
lợi đối với nguồn ngoại tệ đáp ứng cho giao dịch kỳ hạn.
- Sử dụng công cụ VaR – Giá trị chịu rủi ro
VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường của danh mục.
Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản được tuân theo quy luật phân phối chuẩn, với
2 giá trị đặc trưng là mức kỳ vọng và phương sai.
Phương pháp đo lường VaR
Hiện tại, các Ngân hàng trên thế giới đang sử dụng ba phương pháp chính để đo lường VaR, đó
là: Phương pháp Delta – Gamma, phương pháp phân tích và phương pháp Monte Carlo.
Các nguyên tắc xây dựng mô hình VaR
Sử dụng phương pháp phân tích (Analytical Method), áp dụng đối với các ngoại tệ mạnh X
không phải USD (gọi tắt G7) và vàng (riêng trường hợp USD/VND có phương pháp tính riêng)
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân
hàng thương mại
1.3.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía các NHTM

- Tuân thủ không tốt các chính sách và quy trình QLRR của ngân hàng .Mặc dù ngân hàng đã
ban hành hệ thống quản lý rủi ro cho hoạt động KDNH, việc tuân thủ không đúng theo những gì
trong hệ thống quy định tạo nên nhiều rủi ro cho hoạt động chung của ngân hàng. Việc không
tuân thủ theo các quy định trong chính sách này thể hiện ở chỗ có thể xuất phát từ phía các cấp
lãnh đạo không quản trị rủi ro theo quy định đã ban hành hoặc có thể xuất phát từ phía những

người thực hiện thi hành các quy định không đúng hoặc cố ý làm trái quy định vì một lý do nào
đó. Việc thực hiện không tốt các quy định trong hệ thống quản trị rủi ro trong KDNH có thể đem
lại nhiều tổn thất cho ngân hàng và gây nhiều khó khăn cho quá trình thực thi chính sách vì mục
tiêu chung của ngân hàng.
- Ưa thích các giao dịch có lợi nhuận cao và chấp nhận mức độ rủi ro cao
Hội đồng quản trị ngân hàng thuộc nhóm người thích kinh doanh với các giao dịch tạo ra nhiều
lợi nhuận và sẵn sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao. Chính sự ưa thích này có thể là nguồn cảm
hứng cho quá trình quản trị hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng là lĩnh vực được kiểm
soát chặt chẽ bởi NHNN và các cơ quan khác của Chính phủ, hoạt động ngân hàng luôn phải
tuân thủ theo rất nhiều quy định khắc khe từ phía Nhà nước, đặc biệt là từ NHNN. Do đó, loại
“sở thích” này trong hoạt động KDNH của ngân hàng bị kiểm soát và hạn chế nhiều. Việc thực
hiện kinh doanh với các giao dịch tạo ra nhiều lợi nhuận và mức độ rủi ro cao có nhiều khả năng
đem lại khó khăn cho quá trình quản lý rủi ro trong KDNH của các NHTM.
- Hạn mức giao dịch và tổn thất cao
Thông thường Hội đồng quản trị giao các loại hạn mức kinh doanh cho Tổng
giám đốc ngân hàng, sau đó Tổng giám đốc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới. Việc giao hạn
mức từ phía Hội đồng quản trị phụ thuộc rất lớn vào “khẩu vị rủi ro”của từng ngân hàng. Còn
việc giao hạn mức xuống các cấp bên dưới của Tổng giám đốc có quy định rất chặt chẽ và đặc
biệt mỗi cấp quản lý chỉ được một hạn mức nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế các ngân hàng
thường giao mức tối đa hạn mức của Tổng giám đốc cho trưởng phòng KDNH của ngân hàng

10


nhằm hổ trợ cao nhất cho hoạt động kinh doanh với bản chất là kinh doanh luôn mang tính nhanh
chóng, cơ hội và chấp nhận rủi ro. Chính vì lẽ đó, đi kèm với mức độ rủi ro cao từ hạn mức được
giao cao sẽ dễ dàng dẫn đến nhiều tổn thất cho hoạt động của các NHTM và gây khó khăn cho
quá trình quản lý rủi ro của ngân hàng.
- Theo đuổi mục tiêu lợi nhuận quá cao
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và được kiểm soát rất chặt chẽ từ phía Chính

phủ. Bên cạnh đó, để phục vụ cho quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước cùng với quá
trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, nhiều ngân hàng được mở ra và tham gia
vào hoạt động tại cùng một thị trường trong nước. Chính lẽ đó, mức độ cạnh trạnh ngày càng cao
và mục tiêu lợi nhuận ngày càng khó đạt được so với điều kiện thị trường trong thời kỳ hội nhập.
Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận năm sau phải cao hơn năm trước nhằm đáp ứng mong muốn của cổ
đông, do đó, mục tiêu lợi nhuận ngân hàng luôn ở mức cao hơn so với khả năng thực hiện của
ngân hàng, và lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro cao. Cho nên, với các mục tiêu như trên
gây nhiều khó khăn cho quá trình quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Trình độ nhân sự không tốt
Việc thực thi các chính sách về quản trị rủi ro phần lớn là thuộc về Ban tổng giám đốc cùng đội
ngũ nhân viên ngân hàng. Quá trình tuân thủ này của đội ngũ nhân sự ngân hàng không chỉ xuất
phát từ các quy định chặt chẽ trong chính sách mà phụ thuộc rất lớn vào tính ý thức, trình độ
hiểu biết và quá trình thực hiện chính sách trên thực tế. Do đó, trình độ của đội ngũ nhân sự
không tốt dẫn đến nhiều khó khăn cho quá trình đưa các quy định trong chính sách vào thực tiễn
áp dụng củangân hàng.
1.3.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngoài ngân hàng

- Chính sách của nhà nước thay đổi
Hàng năm nhà nước ban hành nhiều chính sách mới nhằm bổ sung, thay đổi các quy định pháp
luật đã cũ và không phù hợp với điều kiện của thị trường trong thời kỳ mới. Các giao dịch
KDNH không chỉ được thực hiện trong vài ngày mà có nhiều giao dịch được thực hiện trong vài
năm, ví dụ như các giao dịch huy động và cho vay vàng trong thời gian qua. Một khi chính sách
nhà nước thay đổi và ngân hàng không dự liệu được hết sẽ tạo ra nhiểu khó khăn cho quá trình
quản lý rủi ro trong KDNH của ngân hàng. Việc thay đổi chính sách nhanh chóng của nhà nước
đem lại rủi ro chính sách cho các ngân hàng, ví dụ như chính sách tất toán các tài khoản huy
động và cho vay vàng của NHNN vừa qua đem lại nhiều khoản lỗ cho các NHTM.
- Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước tiềm ẩn nhiều rủi ro
Hoạt động kinh doanh luôn được đặt trong môi trường nhiều biến động ở trong và ngoài nước,
ngân hàng mặc dù có nhiều sự chuẩn bị trong kế hoạch kinh doanh cũng khó tiên liệu được hết
những khó khăn của thị trường đem lại. Chính vì lẽ đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng là

luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và những sự thay đổi của môi trường kinh doanh bên ngoài thường gây
nhiều khó khăn cho công việc quản trị rủi ro KDNH của ngân hàng.

11


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KDNH CỦA MỘT
SỐ NHTM
2.1. THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1.1. Các nhân tố chung tác động đến rủi ro kinh doanh ngoại tệ

Tình hình kinh tế thế giới trong những năm qua có những diễn biến hết sức phức tạp, trong bối
cảnh chung đó, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tiêu cực và gặp phải một số
khó khăn, trong đó, nổi lên vấn đề lạm phát tăng cao trở thành thách thức đối với công tác điều
hành vĩ mô từ năm 2011.Nền kinh tế của Việt Nam trở về tình trạng môi trường kinh tế vĩ mô
tương đối ổn định trong suốt hai năm qua so với thời kỳ đầy biến động 2007-11. Các biện pháp
bình ổn được thực hiện trong năm 2011 và 2012 đã giúp Việt Nam khôi phục ổn định kinh tế vĩ
mô thông qua giảm lạm phát, tăng cường các tài khoản đối ngoại, và ổn định thị trường ngoại
hối. Chỉ số lạm phát CPI giảm xuống còn 6,04% trong năm 2013 so với 18,13% trong năm 2011
và 6,81% trong năm 2012. Tăng trưởng tín dụng và giá lương thực thực phẩm giảm đã giúp giảm
tỷ lệ lạm phát.
Lạm phát tại Việt Nam bị ảnh hưởng theo mức lạm phát của các nước trên thế giới và trở thành
nguy cơ lớn đối với nền kinh tế, cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao qua nhiều năm tuy có
mức giảm qua các năm do giá các nguyên nhiên liệu nhập khẩu tăng mạnh, trong khi xuất khẩu
gặp nhiều khó khăn do nhu cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm trong giai đoạn khó khăn mới
kể từ 2007-2008, giai đoạn khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo
theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh
đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có của các nền kinh tế để chống chọi với
"bão".

Vấn đề nhập siêu cũng đang gây áp lực lên dự trữ ngoại hối quốc gia, tác động tới tỷ giá
USD/VND, đồng thời gián tiếp làm gia tăng nguy cơ lạm phát đối với nền kinh tế Việt nam trong
các năm qua.
Thu hút đầu tư FDI, viện trợ nước ngoài ODA mặc dù chưa có tín hiệu chịu tác động rõ nét,
nhưng về lâu dài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do nhiều nước phải thực hiện các biện pháp thắt chặt
chi tiêu, hạn chế đầu tư, nhất là việc Nhật Bản phải tập trung tài chính để tái thiết đất nước sau
thảm họa thiên tai. Trong lĩnh vực tiền tệ, áp lực tỷ giá gia tăng do tác động của lạm phát, nhập
siêu và nhất là sự tồn tại của thị trường tự do mua bán ngoại tệđã gây ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động quản lý Nhà nước về ngoại hối, gây ra tình trạng đầu cơ làm giá trục lợi, làm méo mó
thị trường.
Trong khi lạm phát có thể không còn là câu chuyện chính yếu của năm 2012, thì tỷ giá lại có thể
lại là nhân vật chính. Với việc tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và cắt giảm đầu tư
công như năm 2011, mức lạm phát đã quay về mức 6,81% năm 2012. Khó khăn của kinh tế thế
giới sẽ khiến cho dòng vốn quốc tế đầu tư vào Việt Nam có thể sụt giảm. Xuất khẩu khó có thể
giữ được mức tăng trưởng cao như năm nay. Hơn nữa, nguy cơ các quỹ đầu tư nước ngoài, với

12


danh mục chứng khoán lên tới 7 tỉ USD, rút vốn trong năm 2013 và các năm sau là rất lớn. Đây
sẽ là những áp lực chính đối với cán cân thanh toán của Việt Nam trong những năm sau.
Hơn nữa, với việc lãi suất huy động VND có xu hướng giảm dần theo đà giảm của lạm phát, việc
găm giữ ngoại tệ sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Với tất cả những khía cạnh trên, tỷ giá trở thành tâm
điểm bên cạnh các nội dung tái cấu trúc nền kinh tế.Sự biến động phức tạp của kinh tế thế giới
và nền kinh tế Việt Nam sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngoại hối của nền kinh tế.
• Lạm phát
Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát qua các năm (%)
Nguồn:Tổng cục Thống kê
Trong những năm vừa qua, tỉ lệ lạm phát đặc biệt cao trong những năm từ 2007 đến 2011 trừ
năm 2009. Như trong hai năm 2007 và 2008, tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô

trong nước bất ổn như mức sống người dân ngày càng thấp, thất nghiệp cao, niềm tin vào đồng
tiền Việt Nam ngày càng thấp, thâm hụt các cân thương mại nặng nề...Cùng với đó, đây là giai
đoạn nền kinh tế thế giới vừa bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính mới bắt nguồn từ
Mỹ. Với tình hình khó khăn chung của nhiều nước trên thế giới, các nhà đầu tư vào thị trường
Việt Nam rất cần vốn USD rút về nước để bù đắp cho các khoản lỗ của hoạt động đầu tư trong
nước của chính các nhà đầu tư nước ngoài đó. Các nhà đầu tư nước ngoại này rút vốn thông qua
việc bán các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán, hay bán trái phiếu chính phủ tại Việt
Nam và mua USD để chuyển về nước họ. Từ đó, cầu USD tăng đột biến từ người dân trong nước
và các nhà đầu tư nước ngoài làm cho tỷ giá USD/VND tăng lên bất thường.
Đồng thời, tỷ lệ lạm phát cao khiến người dân trong nước “đổ xô” vào vàng nhằm tìm kênh trú
ẩn an toàn để bảo toàn giá trị tài sản của họ. Nguồn cung vàng tại Việt nam chủ yếu từ nhập
khẩu.Từ đó, giá vàng tăng cao cùng với tỷ giá USD/VND càng tăng cao hơn và gây bất lợi cho
các trạng thái đoản ngoại hối của các NHTM cổ phần. Do dự báo được tình hình, trong năm
2007 và 2008 hoạt động KDNH tại các ngân hàng trên tạo được kết quả khả quan.
Trong năm 2010 và 2011 lạm phát tăng trở lại sau khi giảm xuống mức 6,34% năm 2009. Một
đặc điểm đáng chú ý của hai năm này là các sàn vàng của các ngân hàng trong nước đồng loạt
đóng cửa theo chỉ đạo của Chính phủ, lãi suất tiết kiệm vàng bằng 0 làm cho nhu cầu về USD
giảm đáng kể. Tuy nhiên, NHNN cho phép nhập khẩu vàng để kéo chênh lệch giá vàng trong và
ngoài nước về một mức hợp lý, việc làm này đã đẩy cầu USD tăng cao. Đồng thời trong thời kỳ
lạm phát cao này, lãi suất cho vay VND cao và lãi suất cho vay USD thấp càng khiến cho các tổ
chức vay USD và tạo ra cầu USD tăng ảo. Cũng như phân tích ở trên NHNN cũng chưa bình ổn
được tỷ giá USD/VND và giá vàng trong nước, tạo cho chúng biến động phức tạp và gây ra
nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của Eximbank và đã tạo ra các khoản lỗ cho các NHTM khác
nữa ko chỉ riêng Eximbank.
Trong những năm vừa qua từ năm 2007 đến nay, chỉ có hai năm 2009, 2012 và năm 2013 có tỉ lệ
lạm phát thấp, giúp cho tỉ giá USD/VND tương đối ổn định.

Biểu đồ 2.2: Tỷ giá USD/VND bình quân năm từ năm 2007 đến năm 2012

13



Đơn vị tính: đồng/USD
Nguồn: website
Tuy nhiên, tình hình kinh tế trong nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: giá USD vẫn tăng
trong khi giá USD thế giới giảm, dự trữ ngoại hối còn mỏng, các hoạt động kinh tế nói chung
còn trì trệ kéo theo cầu trong nước yếu,… Từ đó, với các bất ổn trên của nền kinh tế trong nước
kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn trung và dài hạn cho các hoạt động KDNH của nhiều NHTM trong
đó có Eximbank.
Biểu đồ 2.3: Lãi/Lỗ thu nhập trong KDNH tại Ngân hàng EXIMBANK
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàngEximbank
Biểu đồ 2.4: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng ACB
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng ACB
Biểu đồ 2.5: Lãi/Lỗ thu nhập trong kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng SACOMBANK
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn:Báo cáo tài chính thường niên của Ngân hàng SACOMBANK
• Thâm hụt cán cân thương mại
Biểu đồ 2.6: Thâm hụt/Thặng dư cán cân thương mại (tỷ USD)
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê
Nhập siêu là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai trong nhiều năm gần đây. Tỉ lệ
thâm hụt cán cân vãng lai/GDP năm 2007 là -9,87%, năm 2008 là -11,93% , năm 2009 là -6,67%

14


và năm 2010 là –0,73%; trong khi đó tỷ lệ nhập siêu/GDP luôn ở mức cao từ khoảng 14- 20%
GDP trong thời gian này. Cán cân vốn và tài chính liên tục thặng dư là nguồn tài trợ chủ yếu
thâm hụt cán cân vãng lai. Mặc dù vậy, dưới áp lực nhập siêu cao, cán cân thanh toán tổng thể

vẫn bị thâm hụt, cùng với yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ đã dẫn tới mất cân đối cung - cầu ngoại
tệ theo hướng dư cầu ngoại tệ và gây áp lực tăng tỷ giá.
Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán và từ đó tạo áp
lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do NHNN phải bán ngoại tệ để can thiệp trên thị trường
ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Trong các năm 2009 và 2010, do cán cân thanh toán thâm hụt
lớn, NHNN đã phải bán ngoại tệ cho các TCTD, dẫn đến dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm
tương đối.
Trong cán cân thương mại của nước ta, nhập khẩu vàng là một trong những nguyên nhân làm
cho tình hình nhập siêu chưa được cải thiện đáng kể, mặc dù cán cân thương mại năm 2012 có
thặng dư nhỏ. Cầu vàng cao khiến cho cầu ngoại tệ tăng và làm cho tỷ giá USD/VND luôn có xu
hướng tăng; từ đó làm cho cung cầu về ngoại tệ và vàng thường xuyên ở trạng thái mất cân đối.
Cuối cùng, các vấn đề này đã tạo nên nhiểu tổn thất cho hoạt động KDNH của các NHTM cổ
phần nói chung và Eximbank nói riêng.


Tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Trong những năm qua, tình hình đôla hóa tại Việt Nam có xu hướng giảm rõ nét. Cùng với niềm
tin của người dân vào đồng tiền Việt Nam ngày càng tăng, các chính sách và biện pháp hành
chính của Chính phủ đang tỏ ra hiệu quả và góp phần làm hạn chế việc sử dụng USD trong thanh
toán, niêm yết giá, giảm đáng kể các đối tượng được phép vay bằng ngoại tệ (đặc biệt là USD).
Các hoạt động trên góp phần ổn định tỷ giá USD/VND và giảm các khoản đầu cơ vào tài sản là
vàng.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế như đã phân tích trong phần
lạm phát ở trên. Cho nên các rủi ro tiềm ẩn trong trung và dài hạn vẫn còn đó, việc “yêu thích”
USD và vàng của người dân vẫn còn đó, tình trạng đôla hóa chưa thể chấp dứt được. Từ đó, việc
điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN gặp không ít khó khăn, việc quản lý thị trường ngoại
hối trong nước vẫn luôn là một ẩn số và rất khó tìm được sự đồng thuận lớn từ phía người dân
cũng như các ngân hàng. Cho nên, các rủi ro đối với hoạt động KDNH của các NHTM cổ phần
nói chung và Eximbank nói riêng vẫn còn tồn tại trong thời gian vừa qua cũng như sắp tới.
• Trạng thái ngoại tệ

Trong các năm qua, theo Báo cáo của NHNN, các ngân hàng TMCP vẫn duy trì trạng thái ngoại
tệ trong quy định của NHNN. Tuy nhiên, việc quy định trạng thái ngoại tệ cao trong thời gian
trước thời điểm thông tư 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 do NHNN ban hành có hiệu lực
đem lại nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của các ngân hàng. Nhằm tăng lợi nhuận, các ngân
hàng chấp nhận duy trì trạng thái đoản hay trường đến mức tối đa của trạng thái ngoại tệ mà
NHNN cho phép, thậm chí các ngân hàng còn duy trì trạng thái ngoại tệ trong ngày cao hơn mức
quy định 30%, mức quy định về trạng thái ngoại tệ cuối ngày của NHNN. Việc đáp ứng quy định
của NHNN theo cách thức đối phó càng tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng. Ngoài ra, quy định về trạng thái ngoại tệ của NHNN trước ngày thông tư 07 có hiệu
lực tạo ra tình trạng đôla hóa khó kiểm soát và tạo ra sự biến động của tỷ giá ngoại tệ càng phức
tạp khi cầu ngoại tệ có xu hướng cao hơn cung ngoại tệ đặc biệt vào cuối năm. Sau ngày thông tư
07 có hiệu lực, tình trạng đôla hóa giảm đi rõ nét, tuy lợi nhuận về kinh doanh ngoại hối các
NHTM cổ phần trong đó có Eximbank giảm đi rõ rệt. Phần lỗ trong KDNH này chủ yếu xuất

15


phát từ kinh doanh vàng, nhằm đáp ứng thanh khoản vàng để tất toán các tài khoản huy động
vàng của khách hàng theo đúng quy định của NHNN. Về tổng thể, việc ban hành thông tư 07
giúp các NHTM cổ phần trong đó có Eximbank dễ dàng hơn trong quá trình kiểm soát hoạt động
KDNH, giảm đáng kể rủi ro cho hoạt động này với trạng thái ngoại tệ trong mức +/-20%.


Cơ chế điều hành tỷ giá

Trên thực tế, theo cơ chế điều hành tỷ giá trong những năm gần đây, NHNN đang sử dụng công
cụ “tỷ giá bình quân liên ngân hàng” và “biên độ” để kiểm soát tỷ giá trên thị trường. Mặc dù gọi
là tỷ giá bình quân liên ngân hàng nhưng NHNN thường ấn định tỷ giá này theo mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô, thường là mang tính dài hạn. Vì thế đôi khi có một “độ lệch” nhất định so với
thực tế biến động ngắn hạn trên thị trường. Với cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay, thị trường

ngoại hối đã xuất hiện hai tỷ giá, đó là tỷ giá chính thức được các NHTM niêm yết, mua bán và
tỷ giá phi chính thức trên thị trường tự do; đồng thời sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ luôn có
thể xảy ra trong năm.
Với việc điều hành và kiểm soát các giao dịch ngoại hối trên thị trường, NHNN đã có cơ chế tỷ
giá USD/VND và điều tiết thị trường vàng hợp lý, đã không tạo ra những rủi ro đáng kể cho các
giao dịch KDNH của các NHTM cổ phần nói chung và Eximbank nói riêng.
Các chính sách điều hành trên của NHNN được cho là kịp thời và phù hợp với diễn biến của thị
trường. Tuy nhiên, sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính thức và thị trường tự do là cơ hội
không thể bỏ qua cho giới đầu cơ tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá này. Một khi đầu cơ xuất
hiện, tỷ giá USD/VND lại càng diễn biến phức tạp hơn và càng tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động
KDNH của các NHTM cổ phần. Theo biểu đồ về lãi/lỗ trong KDNH của các NHTM, lợi nhuận
các ngân hàng đều giảm đáng kể, thậm chí Eximbank giảm lợi nhuận trên 50% của KDNH trong
năm 2009 so với năm 2008.
Trước tình hình giá USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá vàng, NHNN đã lập
tức công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên cung vàng; qua đó hạ bớt sức nóng của
đồng USD trên thị trường tự do. Thêm vào đó, NHNN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay
vào tỷ giá khi điều chỉnh tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng. Tuy nhiên cùng với rủi ro
tỷ giá và với cơn sốt vàng trên thị trường trong thời gian này, các ngân hàng gặt hái được nhiều
lợi nhuận và cũng bị nhiều tổn thất cho lợi nhuận của ngân hàng, cuối cùng là lợi nhuận các
NHTM cổ phần hầu như giảm kể cả Eximbank.
Trong năm 2010, nền kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn như: lạm phát cao ở mức 2 con
số, nhập siêu chưa giảm đáng kể, cầu USD tăng mạnh, cung USD còn yếu, chênh lệch tỷ giá
USD/VND giữa thị trường chính thức và thị trường tự do vẫn còn cao, nhu cầu mua vàng tăng
mạnh, … Đứng trước tình hình như vậy, để bình ổn TTNH, NHNN đã thực thi rất nhiều chính
sách, biện pháp như điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, kiểm soát mạnh TTNH cuối năm
2009, tăng nguồn cung USD trên thị trường qua các biện pháp hành chính như kết hối ngoại tệ,
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, mở rộng đối tượng được vay ngoại tệ. Thêm
vào đó, việc chấm dứt hoạt động của các sàn vàng, lãi suất tiết kiệm bằng vàng tại các NHTM
gần như 0% cộng với một lượng vàng khá lớn tại các NHTM đã khiến cho giá vàng trong nước
đã giảm (thậm chí thấp hơn giá vàng thế giới) và khiến cho hoạt động đầu tư vào vàng suy giảm.

Với các biện pháp kịp thời này của NHNN đã góp phần giảm sức ép đối với cầu USD, tăng
nguồn cung vàng miếng, giảm chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa hai thị trường, kéo giá vàng
trong nước và thế giới về sát nhau.

16


Sau khi đóng cửa sàn vàng năm 2010, nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng SJC kể từ tháng
5/2012, ngừng cho vay vàng miếng từ tháng 4/2011 và ngừng huy động vàng miếng kể từ tháng
11/2012, tỷ giá USD/VND tăng thêm 9,3% từ mức 18.932 lên mức 20.693, đáp ứng đủ các nhu
cầu mua USD của doanh nghiệp có nhu cầu hợp pháp, tỷ giá USD/VND dần đi vào ổn định, đầu
cơ vàng miếng không còn xuất hiện như trước, niềm tin của người dân vào VND tăng lên, v.v..
trong năm 2011 và 2012.
Tuy các chính sách trên của NHNN là kịp thời và hợp lý trong giai đoạn ngắn hạn, về lâu dài các
biện pháp này tỏ ra không hiệu quả và mang nặng tính hành chính đồng thời ngày càng xa các
quy tắc của thị trường; từ đó, rủi ro về biến động tỷ giá, giá vàng trong nước, cũng như chênh
lệch giá vàng trong nước và quốc tế cũng như chênh lệch tỷ giá USD/VND giữa thị trường chính
thức và thị trường phi chính thức không giải quyết được một cách triệt để.
Hơn nữa, ngoài các rủi ro tỷ giá ngoại tệ tiềm ẩn cho hoạt động KDNH tại Eximbank như đã
phân tích ở trên, cơ hội kinh doanh đã và đang giảm đi đáng kể và rủi ro chính sách của NHNN
là đang hiện hữu như việc tất toán các tài khoản huy động vàng mà các NHTM đang thực hiện
làm giảm lợi nhuận cho hoạt động KDNH của Eximbank rất nhiều.
- Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối
Hầu hết các giao dịch phái sinh ngoại tệ mà Eximbank thực hiện đều đáp ứng cho nhu cầu mua
bán sản phẩm phái sinh ngoại hối từ phía khách hàng đa số là doanh nghiệp.
Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch kỳ hạn của Eximbank
Đối tượng
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009

Năm 2010
Năm 2011
Khách hàng 23
151
1.128
334
72
TCTD khác 14
16
20
23
32
Tổng cộng 37
167
1.148
357
104
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm
Giá trị giao dịch kỳ hạn với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank
Năm
Giao dịch
Giao dịch
với khách hàng
với TCTD khác
2007
1.067.690,62
784.482,80
2008
5.484.465,67
732.100,26

2009
12.227.412,34
3.023.000,11
2010
3.471.789,64
1.868.448,50
2011
2.448.703,44
8.359.126,37
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm

Số lượng khách hàng và TCTD khác giao dịch hoán đổi của Eximbank
Đối tượng
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Khách hàng 5
157
881
78
65
TCTD khác 12
16
13
21
23
Tổng cộng 17
173

894
99
88
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm
Giá trị giao dịch hoán đổi với khách hàng và với TCTD khác của Eximbank
Năm
Giao dịch
Giao dịch
với khách hàng
với TCTD khác
2007
2.059.108,00
33.803.563,57

17


2008
1.869.207,00
17.569.924,55
2009
6.009.091,00
14.186.828,26
2010
882.882,00
12.122.545,41
2011
4.001.260,00
40.789.533,33
Tổng cộng

14.821.548,00
118.472.395,12
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm
Giá trị giao dịch quyền chọn với TCTD khác của Eximbank
Quyền chọn ngoại tệ
Quyền chọn mua
Quyền chọn bán
Năm
Mua quyền
Bán quyền
Mua quyền
Bán quyền
chọn mua
chọn mua
chọn bán
chọn bán
2007
0
_
1.098.950
2.197.900
2008
145.100
_
755.500
148.700
2009
0
_
0

0
2010
269.950
_
136.500
136.500
2011
341.600
_
266.700
0
Tổng cộng
756.650
_
2.257.650
2.483.100
Nguồn: Báo cáo giao dịch tiền tệ tại EXIMBANK qua các năm

Quyền chọn
nội tệ
0
0
0
0
0
0

Lời / Lỗ từ giao dịch phái sinh ngoại tệ của Eximbank
Năm
2007

2008
2009
2010
2011
Lời / lỗ
115.618
503.357
467.857
106.886
158.033
Nguồn: Báo cáo tài chính thường niên của EXIMBANK qua các năm
Khách hàng của ngân hàng là các tổ chức/cá nhân mua hay bán các sản phẩm phái sinh ngoại tệ
hay vàng nhằm phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của họ có liên quan
đến ngoại tệ hay nhằm đầu cơ trạng thái vàng hay ngoại tệ. Sau khi tiếp nhận các giao dịch từ
phía khách hàng, ngân hàng phần lớn là thực hiện đối ứng ngay với các đối tác ngân hàng nước
ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, do thị trường mua bán sản phẩm phái sinh ngoại hối tại Việt
Nam chưa phát triển đủ để các ngân hàng sau khi nhận lệnh mua bán của khách hàng có thể bán
hay mua lại với một khách hàng khác hay cân đối trạng thái giao dịch của khách hàng với Trung
tâm giao dịch Quốc gia về sản phẩm phái sinh ngoại hối như các nước. Ngoài việc thực hiện môi
giới cho khách hàng về các giao dịch phái sinh ngoại hối, ngân hàng hầu như rất hiếm khi thực
hiện mua hay bán các giao dịch phái sinh ngoại hối cho chính các trạng thái ngoại hối của ngân
hàng mình để phòng ngừa rủi ro của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Chính vì lẽ đó, trong những
năm vừa qua, khi mà tỷ giá USD/VND và giá vàng ngày càng biến động phức tạp, đồng thời rủi
ro chính sách từ phía NHNN ngày càng hiện hữu, lợi nhuận từ mảng KDNH của các ngân hàng
ngày càng giảm, đặc biệt là bị lỗ trong năm 2011 và năm 2012 vừa qua tại nhiều NHTM cổ phần
có thị phần giao dịch lớn trong KDNH như Eximbank, ACB và Sacombank.
2.1.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro kinh doanh ngoại tệ

Khi Eximbank thực hiện mua hộ và bán hộ cho khách hàng để thu phí thì rủi ro hối đoái không
phát sinh. Một khi ngân hàng tiến hành mua bán ngoại hối cho khách hàng hay cho chính ngân

hàng nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận do tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động, ngân hàng đang

18


mở trạng thái ngoại hối trường hay đoản, khi đó rủi ro ngoại hối sẽ xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ hay
giá vàng biến động ngược với trạng thái ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ.
Khía cạnh thứ hai của rủi ro hối đoái mà Eximbank phải đối mặt là sự không cân xứng giữa tài
sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ hay vàng. Tài sản có bằng ngoại tệ hay vàng là các
khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như các khoản cho vay bằng ngoại tệ hay vàng, các chứng
khoán bằng ngoại tệ, tiền gửi bằng ngoại tệ hay vàng ở Ngân hàng khác, tiền mặt bằng ngoại tệ,
vàng, v.vv... Tài sản nợ bằng ngoại tệ hay vàng là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản như
phát hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ/vàng, phát hành trái phiếu châu Âu, và các hình
thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ hay vàng.
Do tính chất toàn cầu hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những khả năng to lớn để tăng nguồn
vốn của các Ngân hàng bằng các ngoại tệ khác nhau. Đây là lợi thế to lớn không những đa dạng
hóa nguồn vốn và sử dụng vốn bằng các ngoại tệ, mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi
tức đầu tư và giảm được chi phí huy động vốn. Ví dụ chúng ta có một bảng cân đối tài sản rút
gọn như sau:
Tài sản có
Tài sản nợ
Tín dụng cho các công ty Việt Nam: 1.000 Phát hành chứng chỉ tiền gửi: 2.000 tỷ
tỷ VND
VND
(bằng VND, kỳ hạn 1 năm)
(bằng VND, kỳ hạn 1 năm)
Tín dụng cho các công ty nước ngoài: 1.000
tỷ VND
(bằng USD, kỳ hạn 1 năm)
Cộng: 2.000 tỷ VND

Cộng: 2.000 tỷ VND
Trong bảng cân đối này, toàn bộ tài sản nợ của Ngân hàng là bằng VND, nhưng chỉ đầu tư 50%
vào tài sản có bằng VND và 50% còn lại là đầu tư bằng USD. Vì kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản
có đều là 1 năm, cho nên thời lượng trung bình của tài sản có và tài sản nợ là cân xứng với nhau,
nhưng trạng thái ngoại tệ của các đồng tiền lại không cân xứng với nhau. Mức lãi suất trả cho
chứng chỉ tiền gửi bằng VND, kỳ hạn 1 năm là 8%; mức lãi suất tín dụng bằng VND, kỳ hạn 1
năm, không có rủi ro (tín phiếu kho bạc) chỉ là 10%. Chúng ta thấy rằng, nếu Ngân hàng đầu tư
vào tài sản có chỉ bằng đồng bản tệ, thì chỉ được hưởng mức chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra là
+2% (10% - 8%). Nhằm đơn giản trong quá trình tính toán, chúng ta giả sử rằng, khoản tín dụng
cho các công ty nước ngoài bằng USD không có rủi ro, mức lãi suất là 15%/năm. Muốn đầu tư
cho các công ty nước ngoài bằng USD, trước hết Ngân hàng phải chuyển hóa 50% của 2.000 tỷ
VND thành USD theo tỷ giá giao ngay, và tiến hành cho vay theo các bước giao dịch như sau:
 Tại thời điểm đầu năm, bán 1.000 tỷ VND để lấy USD. Tỷ giá giao ngay lúc bấy giờ là: 1
USD = 20.385 VND, ta có: 1.000.000 : 20.385 ≈ 49,06 triệu USD.
 Cho các công ty nước ngoài vay 49,06 triệu USD, kỳ hạn một năm, lãi suất 15%/năm.
 Tại thời điểm cuối năm (tín dụng đến hạn) thu được cả gốc lẫn lãi là:
49,06 (1 + 0,15) = 56,42 triệu USD.
 Chuyển hóa số lượng 56,42 triệu USD thu được thành VND theo tỷ giá giao ngay tại thời
điểm cuối năm. Tỷ giá giao ngay tại thời điểm cuối năm 2010 không thay đổi, tức là 1 USD =
20.385 VND, số lượng VND thu được là:
56,42 x 20.385 = 1.150 tỷ VND.
Tỷ lệ lợi tức đầu tư là:
(1.150 - 1.000)/l .000 = 0,15 hay 15%.
Tỷ lệ lợi tức đầu tư cho cả danh mục tài sản có được tính là:

19


(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,15) = 0,125 hay 12,5%.
Đến đây, chúng ta thấy rằng, mức lợi tức đầu tư của toàn bộ danh mục tài sản có lớn hơn 4,5%

(12,5% - 8%) so với chi phí huy động vốn, và lớn hơn 2,5% so với đầu tư bằng nội tệ (VND).
Tuy nhiên, nếu giá trị của USD tăng so với VND vào thời điểm cuối năm, thì tỷ lệ lợi tức từ
khoản cho vay bằng USD sẽ còn cao hơn; và ngược lại, nếu giá trị của USD giảm so với VND
vào thời điểm cuối năm, thì tỷ lệ lợi tức từ khoản cho vay bằng USD sẽ giảm, cho dù mức lãi
suất cho vay vẫn không thay đổi là 15%/năm. Giả sử tỷ giá thay đổi từ 1 USD = 20.385VND tại
thời điểm đầu năm giảm còn 1 USD = 19.181VND tại thời điểm cuối năm, chúng ta tính số
lượng VND thu được cả gốc và lãi là:
56,42 x 19.181 = 1.082 tỷ VND
Tỷ lệ lợi tức của khoản cho vay bằng USD sẽ là:
(1.082 - 1.000)/1.000 = 0,082 hay 8,2%/năm.
Tỷ lệ lợi tức cho cả danh mục tài sản có là:
(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,082) = 0,091= 9,1%/năm.
Như vậy, Ngân hàng thực sự chỉ còn lời 1,1% (9,1% - 8%), hay mức chênh lệch giữa lãi suất cho
vay hỗn hợp và lãi suất huy động vốn là 1,1%; đồng thời, kết quả đầu tư thông qua bằng ngoại tệ
là thấp hơn nhiều so với mua trái phiếu kho bạc bằng nội tệ.
Nguyên nhân làm cho Ngân hàng không có lãi nhiều là do USD giảm giá so với VND, đã làm
gần như triệt tiêu sự hấp dẫn bởi mức lãi suất cho vay bằng USD cao hơn so với đồng nội tệ. Kết
quả là, rủi ro do tỷ giá biến động có thể làm triệt tiêu thu nhập, thậm chí là lỗ đối với một danh
mục tài sản bằng ngoại tệ.
Ngược lại, nếu USD tăng giá so với VND, ví dụ từ 1 USD = 20.385 VND tăng lên 1 USD =
20.955 VND, thì lượng VND gốc và lãi thu được trong trường hợp này là: 56,42 x 20.955 =
1.182 tỷ VND.
Mức lợi tức tương ứng là 18,2%/năm.
Trong trường hợp này, Ngân hàng thu được lợi tức kép từ cho vay bằng USD, bao gồm lãi suất
cho vay và phần lên giá của USD so với VND sau một năm đầu tư. Mức lợi tức chung cho cả
danh mục đầu tư sẽ là:
(0,5 x 0,10) + (0,5 x 0,182) = 0,141 = 14,1%/năm
Trên thực tế, Ngân hàng không thể biết trước được tỷ giá giao ngay USD/VND biến động như
thế nào tại thời điểm tín dụng đến hạn, trong khi đó trạng thái ngoại tệ của Ngân hàng là trường
ròng 1.000 tỷ quy VND (hay 49,06 triệu USD) chịu rủi ro ngoại tệ. Như chúng ta đã phân tích

phần trên, 50% khoản tín dụng bằng USD có thể có mức lợi tức 18,2% nếu USD lên giá từ 1
USD = 20.385VND lên 1 USD = 20.955VND; ngược lại, mức lợi tức tín dụng bằng USD cũng
chỉ có thể là 8,2% nếu USD giảm giá xuống 1 USD = 19.181VND.
2.2. THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.2.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
2.2.2.1 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ

Còn đối với nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam
từ những năm 1990, chủ yếu là tại các Ngân hàng có giao dịch với các Ngân hàng nước ngoài.
Một số Ngân hàng lớn như: Vietcombank, BIDV, Vietinbank,.... cũng đã triển khai chủ yếu các
nghiệp vụ như: mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai, quyền chọn cho các

20


doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc
tế. Tuy nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại Eximbank còn ít, chưa thu hút được
các doanh nghiệp sử dụng, vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng thu nhập của Ngân hàng.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng Eximbank chỉ chú ý đến việc
mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà
hầu như không thực hiện bảo hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu
là trung gian giao dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ
đó, các NHTM nói chung và Eximbank nói riêng còn yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là về
phân tích kỹ thuật. Đó cũng là lý do vì sao mà ngân hàng không mạnh về kinh doanh đầu cơ mà
chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các
Eximbank giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái
sinh ngoại tệ trong nước với các đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào
từng thời kỳ theo quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi

ro xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra hoặc nếu
có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được.Hoạt động tự doanh của Eximbank cũng như
việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay doanh nghiệp với doanh số rất ít trong
thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng các nghiệp vụ phái sinh trên là các nghiệp vụ hiện đại, phức
tạp nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên Ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao mới có thể tư vấn
cho các doanh nghiệp; đồng thời việc quảng bá, giới thiệu của Ngân hàng đến doanh nghiệp
chưa rộng rãi, nên doanh nghiệp chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ
phái sinh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỷ giá USD/VNĐ đang có xu hướng ổn định trong những
năm vừa qua, đặc biệt là nữa năm đầu của năm 2010 và những tháng đầu năm 2012 cũng là một
lý do. Mặc dù tỷ giá USD/VNĐ biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng đồng
Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài, nhưng trong suốt một quãng thời
gian khá dài vừa qua, sự biến động này chỉ tăng một chiều với biên độ hẹp nên nhu cầu bảo hiểm
rủi ro tỷ giá không được quan tâm đến. Trên thực tế, áp lực tăng tỷ giá vẫn luôn hiện hữu và rủi
ro tỷ giá trong tương lai khó loại trừ, nhưng phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các
Ngân hàng vẫn chưa nhận diện được và chưa mặn mà với các công cụ phòng ngừa rủi ro. Cụ thể
trong thời gian qua, thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm USD và tỷ
giá USD/VNĐ không phải lúc nào cũng bình ổn, nửa cuối năm 2010 cho đến đầu 2011, tỷ giá
USD/VNĐ đột ngột liên tiếp leo thang làm cho thị trường ngoại hối ngày càng căng thẳng và rủi
ro tỷ giá bắt đầu xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên đến đầu năm 2009, do sự lợi dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ như kỳ hạn
USD/VNĐ hay quyền chọn USD/VNĐ để giao dịch USD/VNĐ vượt tỷ giá trần do NHNN quy
định, nên NHNN đã cấm các giao dịch phái sinh này. Sau nhiều năm liền chỉ lình xình trong
khoảng 1%, tỷ giá USD/VNĐ đã thể hiện những biến động lớn và căng thẳng, gây xáo trộn trên
thị trường và trong hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định, các NHTM chỉ được phép bán
USD đúng với giá niêm yết và theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên
Ngân hàng. Những thời điểm ngột ngạt, tỷ giá phi chính thức đã xuất hiện ngay trong lòng hệ
thống Ngân hàng, mà nghiệp vụ quyền chọn và kỳ hạn USD/VNĐ là một kẽ hở. Tại những thời
điểm thị trường ngoại hối căng thẳng, Ngân hàng và doanh nghiệp chủ động chọn giao dịch
quyền chọn kiểu Mỹ, tức thực hiện theo một tỷ giá thỏa thuận và có thể đáo hạn ngay. Cơ chế

này “nhẹ nhàng” lách qua quy định giao dịch giao ngay phải đúng giá niêm yết. Để trám lại lỗ
hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Công văn 4941/NHNN-QLNH ngày 1/7/2009 ghi rõ

21


các TCTD không được phép thu phí thông qua các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như
chi trả hoa hồng, phí quản lý tiền mặt,… để bán vượt trần. Theo dự thảo Thông tư hướng dẫn
giao dịch hối đoái và Thông tư hướng dẫn phạm vi hoạt động ngoại hối đang được lấy ý kiến từ
tháng 3/2012, các sản phẩm phái sinh nhiều khả năng sẽ được cho phép giao dịch trở lại với các
điều kiện chặt chẽ hơn các quy định trước của NHNN. Trong đó, bản dự thảo cũng đề cập đến
các nguyên tắc quản lý rủi ro cơ bản trong quản lý rủi ro KDNH mà các quy định trước đây của
NHNN không có. Ví dụ: Giao dịch quyền chọn chỉ được lựa chọn theo kiểu châu Âu tức là chỉ
được thực hiện giao dịch quyền chọn USD/VNĐ tại thời điểm đáo hạn; kỳ hạn của các giao dịch
dự kiến được xác định tối thiểu là 30 ngày đến 365 ngày. Còn đối với giao dịch kỳ hạn
USD/VNĐ thì thời hạn thanh toán tối thiểu đối với giao dịch kỳ hạn là 3 ngày làm việc sau ngày
giao dịch.

2.2.2.2 . Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay

Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Eximbank, giao dịch giao ngay luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng doanh số giao dịch ngoại tệ, trong khi giao dịch phái sinh chưa phát triển nhiều.
Trong tổng số giao dịch ngoại tệ giao ngay, mua bán chuyển khoản chiếm tỷ trọng trên 90%
doanh số, và các giao dịch bán ngoại tệ của Ngân hàng chủ yếu là bán USD và đáp ứng phần lớn
cho nhu cầu thanh toán quốc tế và du học. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc bán USD của
Eximbank luôn kèm theo phí dưới các hình thức khác nhau để bù khoản chênh lệch giá giữa tỷ
giá Ngân hàng và tỷ giá của thị trường phi chính thức (gọi là “phí bù lỗ tỷ giá”), do vậy trong các
trường hợp Ngân hàng bán USD cho doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu theo tỷ giá niêm yết
(không thu thêm khoản phí nào) sẽ bị lỗ, đây cũng chính là rủi ro của Ngân hàng trong giao dịch
mua bán USD chuyển khoản. Do vậy Ngân hàng thường có sự lựa chọn mục đích sử dụng ngoại

tệ của khách hàng để bán, cụ thể đối với nhu cầu bán và chuyển tiền thanh toán du học, Ngân
hàng sẽ bán USD theo giá niêm yết, đồng thời thu thêm phí bù lỗ tỷ giá và khoản phí này được
cộng dồn vào phí chuyển tiền ra nước ngoài; đối với nhu cầu du lịch, công tác thì hầu hết các
Ngân hàng đều tìm cách từ chối giao dịch vì đây là giao dịch mua bán ngoại tệ tiền mặt, Ngân
hàng không thu thêm bất kỳ khoản phí nào nên không có lý do để tăng thêm phí bù lỗ tỷ giá
được. Nếu phân tích chi tiết giao dịch bán USD tiền mặt thì Eximbank phải tốn rất nhiều chi phí:
để có USD tiền mặt, đa số trường hợp phải nhập khẩu từ nước ngoài với mức phí khoảng 0,05%
số tiền nhập, để có mức phí rẻ nhất thì phải nhập số lượng lớn, sử dụng dần trong nhiều tháng
khiến một lượng vốn bị tồn đọng không sinh lãi. Do vậy khi Ngân hàng bán USD tiền mặt theo
giá niêm yết sẽ không bù đắp được chi phí, đây là lý do khiến nhiều Ngân hàng từ chối bán USD
tiền mặt cho khách hàng.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua ngoại tệ hiện nay chủ yếu của khách hàng là USD, kể cả các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu các nước không phải là Mỹ hay khách hàng đi du lịch đến nhiều nơi
không sử dụng tiền USD. Lý do khách hàng chuộng mua USD hơn các ngoại tệ khác vì tỷ giá
này không biến động nhiều. Trong khi đó, giá các loại ngoại tệ khác phụ thuộc hoàn toàn vào thị
trường thế giới, rủi ro cao hơn. Ngoài ra, phần lớn người dân cũng không thích giữ ngoại tệ khác
do có lãi suất gửi tại Ngân hàng cho các ngoại tệ này thấp hơn so với USD. Ngân hàng lại hạn
chế loại ngoại tệ gửi tiết kiệm cũng khiến người dân ngần ngại.Hiện nay, Ngân hàng hầu như chỉ
nhận gửi tiết kiệm bằng USD và EUR. Do đó, Ngân hàng khi giao dịch ngoại tệ không phải USD
cũng phải chịu rủi ro do các lý do trên.

22


Chính vì lẽ đó, để không phải bán USD bị lỗ, Eximbank phải thu phí hay mua bán USD thông
qua một ngoại tệ thứ ba, hay phải mua bán USD thông qua một hợp đồng kỳ hạn hay quyền chọn
USD như đã đề cập ở các phần trên. Tuy nhiên, hiện nay cả ba cách trên đều bị NHNN cấm thực
hiện.Đến thời điểm tháng 8/2012, NHNN đang lấy ý kiến cho bản dự thảo thông tư về các giao
dịch hối đoái được phép thực hiện, quy trình và phương thức quản lý rủi ro trên thị trường ngoại
tệ. Rủi ro kinh doanh ngoại tệ giao ngay của Ngân hàng vẫn còn cho đến khi tình trạng hai tỷ giá

ngoại tệ trên thị trường chấm dứt và việc “ưa chuộng” USD của khách hàng cho các giao dịch
ngoại tệ không còn tiếp diễn. Cho đến thời điểm tháng 8/2012, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức
của Ngân hàng và thị trường phi chính thức hầu như không còn, diễn biến thị trường ngoại tệ
trầm lắng, nhu cầu của khách hàng có thể được đáp ứng theo tỷ giá liên Ngân hàng (gần sát tỷ
giá niêm yết của NHTM). Tuy nhiên khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung vượt quá cầu, chênh
lệch hai tỷ giá lại được mở ra, Ngân hàng gặp ngay khó khăn trong việc xác định tỷ giá mua bán
và rủi ro cho Ngân hàng lại tiếp tục xảy ra.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.3.1. Thành tựu

 Có ban hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH trong nội bộ ngân hàng.
 Tích cực thay đổi hệ thống cơ sở hạ tầng và mua thêm thiết bị nhằm tăng tính hiệu quả của
hoạt động KDNH.
 Tuân thủ các quy định quản lý rủi ro của NHNN và của chính ngân hàng.
 Thường xuyên nâng cao năng lực quản trị rủi ro của đội ngũ quản lý và thực hiện các quy định
quản lý rủi ro.
 Lập các bản tin về thị trường liên quan hoạt động KDNH để hỗ trợ cho khách hàng và các bộ
phận có liên quan trong ngân hàng.
 Tích cực tiếp thị và quản lý danh mục khách hàng.
2.3.2. Hạn chế

 Thiếu các quy định pháp luật cho hoạt động KDNH của ngân hàng.
 Tuân thủ các quy định của NHNN mang tính đối phó như về trạng thái ngoại tệ, giao dịch
option USD/VND, mua bán ngoại tệ với giá vượt trần quy định.
 Chạy theo lợi nhuận nên ít quan tâm đến các quy định về quản lý rủi ro đã ban hành.
 Các biện pháp đo lường rủi ro về định lượng và định tính chỉ mang tính tham khảo, thiếu sự
cảnh báo và ngăn chặn kịp thời.
 Do hạn chế và chậm đầu tư về công nghệ thông tin, việc quản lý rủi ro trong KDNH ít có tính
liên thông trong hệ thống các phòng ban chức năng.

 Kiến thức của đội ngũ có chức năng thi hành các quy định về quản lý rủi ro trong KDNH còn
rất yếu, đặc biệt là đội ngũ nhân viên của phòng QLRR trên Hội sở ngân hàng. Tuy có nhận diện

23


được một phần các rủi ro có thể xảy ra, nhưng chưa đủ khả năng thuyết phục Ban lãnh đạo ngân
hàng về tính rủi ro của các giao dịch đã đang thực hiện tại phòng KDNH.
 Công việc kinh doanh tại phòng KDNH được thực hiện rất thụ động ở cả các bộ phận như
kinh doanh, bán hàng, nghiên cứu sản phẩm mới.
 Đội ngũ phân tích và dự báo còn rất mỏng và yếu làm cho các giao dịch thiếu cơ sở định
lượng thuyết phục, chủ yếu các quyết định giao dịch mang tính cảm tính nhiều.
 Hầu như không sử dụng các sản phẩm phái sinh cho các trạng thái ngoại hối mở của ngân
hàng để phòng ngừa rủi ro.
2.3.3. Nguyên nhân

 Các chính sách của Chính phủ và NHNN chậm được ban hành để theo kịp các thay đổi của thị
trường.
 Trong quá trình hội nhập và phát triển, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm cho lợi nhuận
các ngân hàng giảm đi nhiều. Do đó, để thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận theo kế hoạch, ngân hàng
phải chấp nhận các hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao hơn và làm cho quy trình quản lý
rủi ro gặp nhiều khó khăn.
 Lợi ích bị xung đột giữa hai phòng ban trong ngân hàng: phòng KDNH và phòng QLRR.
Phòng KDNH luôn muốn kinh doanh có được lợi nhuận cao nhất, phòng QLRR là muốn hoạt
động kinh doanh với mức độ an toàn cao nhất cho ngân hàng. Do đó, các cảnh báo và phân tích
về rủi ro của phòng QLRR ít được đội ngũ kinh doanh phòng KDNH quan tâm. Từ đó, việc quản
lý rủi ro khó được thực hiện.
 Việc đầu tư hệ thống công nghệ thông tin tốn kém nhiều, nên các ngân hàng rất ngại thay đổi
và nâng cấp hệ thống hạ tầng tuy đã cũ kỹ.
 Đội ngũ nhân viên của phòng KDNH phải thực hiện quản lý cả hệ thống KDNH của một ngân

hàng, cho nên việc sắp xếp nhân sự để đi học và nâng cao trình độ về KDNH và quản lý rủi ro
rất khó thực hiện.
 Các sản phẩm phái sinh có liên quan đến USD/VND trên thị trường quốc tế được giao dịch
với thời gian ngắn, số tiền ít hơn so với nhu cầu của ngân hàng cần phòng ngừa rủi ro và chi phí
rất cao; từ đó làm cho ngân hàng phải phải chấp nhận rủi ro với các giao dịch ngoại tệ trong
nước. Với các sản phẩm phái sinh khác, ngân hàng thường ngại chi phí cao; cho nên cũng ít tham
gia.

24


CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NHTM
3.1. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
Để kinh doanh ngoại hối có lãi thì ngân hàng phải tạo trạng thái ngoại hối mở và tỷ giá hay giá
phải biến động. Trong KDNH, tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro luôn đồng hành với nhau. Lãi
lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến động tỷ giá hay giá, trong khi tỷ giá hay
giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn. Do đó, việc tìm
giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong KDNH là vô cùng cần thiết. Sau đây là các giải pháp cơ bản
nhằm giúp hạn chế rủi ro trong KDNH tại các NHTM.
3.1.1. Tổ chức lại hoạt động kinh doanh ngoại hối

Một NHTM trong KDNH cần có ba phòng có liên quan mật thiết với nhau nhằm hạn chế rủi ro
hoạt động trong quá trình KDNH tại các NHTM và tăng cường khả năng quản lý rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng. Các NHTM phần lớn tập trung phát triển hoạt động của phòng kinh
doanh nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ít chú trọng kiểm soát một cách kỹ lưỡng
hoạt động của hai phòng còn lại là phòng thanh toán và phòng quản lý rủi ro. Do đó, các NHTM
cần xác định rõ, phân chia rõ ràng chức năng và nhiệm vụ cũng như có cơ chế để kiểm soát quá
trình hoạt động của từng phòng. Các phòng này bao gồm:

- Phòng kinh doanh (Dealing Room): Tại đây, các Dealer trực tiếp tham gia mua bán trên thị
trường liên ngân hàng và các khách hàng khác, nghĩa là họ phải đối mặt với thị trường, đối thủ
cạnh tranh. Phòng kinh doanh cần kiểm soát được một cách chắc chắn trạng thái trường hay
đoản của từng đồng tiền và vàng tại bất cứ thời điểm nào, cũng như phương án thoát ra khỏi từng
trạng thái là như thế nào. Cán bộ kinh doanh phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về lãi lỗ
trong hoạt động của mình và bảo đảm rằng hoạt động của mình luôn nằm trong giới hạn quản lý
rủi ro cho phép hay có thể kiểm soát được của lãnh đạo ngân hàng.

25


×