Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam việt nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (1960 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 185 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------

TRẦN THỊ LAN PHƯƠNG

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP
ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG
NHẤT ĐẤT NƯỚC (1960-1975)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ LAN PHƯƠNG

MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP
ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1960-1975)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số


: 60 22 54

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hồng Tung

Hà Nội - 2014


DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT
BCHTƯĐ

Ban Chấp hành Trung ương Đảng

BCT

Bộ Chính trị

CPCMLTCHMNVN Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
ĐCS

Đảng Cộng sản

LĐVN

(Đảng) Lao động Việt Nam

MTDTGPMNVN

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Nxb


Nhà xuất bản

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

Tr.

Trang

VNCH

Việt Nam Cộng hòa

VNDCCH

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Công trình được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Hồng Tung.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.


Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014
HỌC VIÊN

Trần Thị Lan Phương


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này không thể hoàn thành nếu không nhận được sự hỗ trợ và
giúp đỡ nhiệt thành của nhiều người.
Trước hết, học viên xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm
Hồng Tung, người Thầy tận tâm đã chỉ dạy và hướng dẫn học viên trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành được luận văn. Sự biết ơn sâu sắc
của bản thân học viên dành cho Thầy giáo hướng dẫn về thời gian, sự kiên nhẫn,
sự động viên về tinh thần và lý tưởng khoa học cũng như những lời khuyên quý
báu mà Thầy đã truyền thụ.
Học viên cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo trong khoa Lịch
sử, đặc biệt là tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại của trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, đã truyền thụ những
nguồn kiến thức, tinh thần, thái độ, và lý tưởng khoa học cần thiết và quý báu
cho thế hệ sinh viên, học viên chúng em trong suốt những năm tháng học tập,
trưởng thành.
Học viên cũng gửi lời cảm ơn tới Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện
Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III đã ủng hộ, cung cấp
những nguồn sử liệu quý giá cho bản thân học viên trong suốt quá trình nghiên
cứu để hoàn thành luận văn. Đặc biệt học viên gửi lời cám ơn chân thành tới ông
Đỗ Phượng - nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, ông Nguyễn Đức
Giáp - nguyên Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam đã cung cấp những

tư liệu quý báu liên quan đến một phần đề tài.
Cuối cùng, học viên cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè và gia
đình, những người đã khuyến khích, động viên và ủng hộ học viên trong suốt
chặng đường học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2014
HỌC VIÊN

Trần Thị Lan Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG ..........................................................................................................13
Chương 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM (1954 - 1960).....................................................................13
1.1. Từ đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 đến Đồng khởi 1960...........13
1.1.1. Quá trình áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam...............13
1.1.2. Phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân miền Nam
Việt Nam (1954 - 1960) .........................................................................................21
1.2. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời..............................27
1.2.1. Quá trình hình thành chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
mới ở miền Nam Việt Nam.....................................................................................27
1.2.2. Hội nghị thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam..36
Chương 2. HOẠT ĐỘNG VÀ ĐÓNG GÓP CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI
PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ 1960 - 1975 ................45
2.1. Hoạt động và đóng góp của MTDTGPMNVN trong thời kỳ 1960 - 1968.....45
2.1.1. Phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc đánh thắng chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1960 - 1965) ...........................................................45
2.1.2. Động viên toàn dân giành thắng lợi trong “Chiến tranh cục bộ” và sự ra
đời Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (1965 1968) ..................................................................................................................66

2.2. Hoạt động và đóng góp của MTDTGPMNVN trong thời kỳ 1969 - 1975.....97
2.2.1. Đoàn kết toàn dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại
giao buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1969 - 1973) .......................................97
2.2.2. Phát huy thế thắng của khối đại đoàn kết toàn dân tiến lên “đánh cho
ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975) .........................120
KẾT LUẬN........................................................................................................131
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................152
PHỤ LỤC...........................................................................................................160


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam,
truyền thống đó được hun đúc trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Tổng kết lịch sử đấu tranh lâu dài của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phát biểu tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa I) họp
tháng 5/1941 tại Pác Bó (Cao Bằng) khi quyết định thành lập Mặt trận Việt
Minh: “Sử dạy ta rằng khi nào dân ta đoàn kết thì nước ta độc lập, khi nào dân ta
chia rẽ thì nước ta bị nước ngoài đô hộ”. Kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng xây
dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Mặt trận Dân tộc
Thống nhất, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế, sức mạnh
truyền thống với sức mạnh thời đại nên đã giành được những thắng lợi vĩ đại
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc
của nhân dân.
Lịch sử và truyền thống của Mặt trận Dân tộc Thống nhất luôn luôn gắn
liền với lịch sử và truyền thống của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Từ khi ra đời
đến nay, trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận Dân tộc Thống nhất luôn bám
sát nhiệm vụ chính trị, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, góp
phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng

tháng Tám gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Mặt trận Việt Minh. Trong
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Mặt trận Việt Minh và
Hội Liên Việt, sau thống nhất thành Mặt trận Liên Việt đã tập hợp sức mạnh dân
tộc về một khối, góp phần đưa kháng chiến đến thắng lợi. Trong bối cảnh sau
Hiệp định Giơnevơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền dưới hai chế độ
chính trị xã hội khác nhau, với những nhiệm vụ cách mạng khác nhau song đều
nhằm mục tiêu chung là thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Đảng ta quyết định thành
lập ở mỗi miền một Mặt trận riêng, ở miền Bắc là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(ra đời năm 1955), ở miền Nam là sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
1


miền Nam Việt Nam (20/12/1960). Mặt trận cùng giương cao ngọn cờ như một
biểu tượng sáng ngời của ý chí vì độc lập tự do của nhân dân miền Nam Việt
Nam, trở thành trung tâm đoàn kết, ngọn cờ quy tụ các lực lượng yêu nước và
tiến bộ tại miền Nam Việt Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Nhận
thức được vị trí, vai trò to lớn của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam đối với cách mạng miền Nam và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
chúng tôi đã chọn đề tài “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1960
- 1975)” làm đề tài luận văn Thạc sỹ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Mặt trận trong lịch sử Việt Nam cận hiện đại thu hút được đông
đảo sự quan tâm nghiên cứu của các học giả từ trước tới nay. Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu được chia thành các nhóm
tài liệu như sau:
Các công trình nghiên cứu trong nước
Sách tham khảo, chuyên khảo
Trước hết là tác phẩm ra đời trong thời gian hoạt động của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam như: Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận

Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: từ sau Đại hội I đến tháng 9/1962, từ
năm 1962 đến tháng 11/1963, từ tháng 12/1963 đến tháng 10/1964,… công bố
tư liệu về hoạt động của Mặt trận trong từng thời kỳ; hay cuốn Cương lĩnh
Chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cho thấy sự
hoàn chỉnh về đường lối chiến lược của Mặt trận.
Bên cạnh đó còn phải kể đến công trình nghiên cứu của Trần Văn Giàu:
Miền Nam giữ vững thành đồng gồm 5 tập, cung cấp một cái nhìn toàn diện về
lược sử đấu tranh của đồng bào miền Nam Việt Nam. Năm 1943, Trần Văn Giàu
được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, đóng vai trò lớn trong việc tổ chức đấu
tranh và thành lập chính quyền nhân dân, góp công lao lớn trong thành công của
cuộc nổi dậy giành chính quyền tại Sài Gòn ngày 25/8/1945. Cách mạng Tháng
Tám thành công, Trần Văn Giàu được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm
2


thời Nam Bộ. Pháp quay lại tái chiếm Nam Bộ, Trần Văn Giàu được cử giữ
chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ, đóng vai trò lớn trong
việc kiến tạo đường lối kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Trên chiến
trường, ông là một chiến sĩ kiên cường, một nhà lãnh đạo cách mạng tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân. Bộ sách đồ sộ Miền Nam giữ vững thành
đồng do giáo sư Trần Văn Giàu một mình biên soạn. Bộ sách gồm 5 tập dày
2500 trang là đóng góp lớn của giáo sư thể hiện chủ nghĩa anh hùng và ý chí
kiên cường bất khuất của nhân dân miền Nam. Bộ sách toát ra một niềm tin
mãnh liệt đối với tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam và dự báo một
cách sáng suốt và vững chắc sự sụp đổ của Mỹ ngụy và sự toàn thắng của nhân
dân ta. Bộ sách đầy tâm huyết này của giáo sư Trần Văn Giàu có tác động lớn
đối với xã hội Việt Nam mà không bộ sách nào lúc đó có thể so sánh được [105].
Những bài viết, những cuốn sách xuất bản cùng thời đó là những nguồn tư
liệu vô cùng quan trọng và quý giá để chúng ta khai thác.
Với độ lùi thời gian, những công trình có liên quan về vấn đề đang đặt ra

có độ tăng về số lượng và cả chất lượng.
Công trình của Hồ Sỹ Thành và Trần Thị Nhung: Bộ Tư lệnh miền, NXB.
Trẻ, 2005. Hai tác giả của công trình đồng thời cũng là cán bộ nghiên cứu lịch
sử: Thượng tá Nhà văn Lam Giang (Hồ Sĩ Thành) và Trung tá Tiến sĩ Trần Thị
Nhung đã cung cấp dung lượng lớn của công trình để giúp bạn đọc phần nào
hình dung được xuất xứ, quá trình hình thành và hoạt động của Bộ Tư lệnh Miền
- Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Trong suốt 15 năm
kháng chiến chống Mỹ (1961-1976), Bộ Tư lệnh Miền đã lãnh đạo chỉ huy các
lực lượng vũ trang vượt qua muôn vàn thử thách khó khăn, lập nên những kỳ
tích chiến công, góp phần cùng cả nước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Chứa đựng một kho thông tin sống
động về một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của 30 năm ròng rã kháng
chiến chống Mỹ, cùng việc trình bày theo dạng câu hỏi - đáp, qua đây, những tư
liệu về MTDTGPMNVN cũng được cập nhật.
3


Đặc biệt, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày ký Hiệp định Paris (27/1/1973),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã cho ấn hành cuốn “Chung một bóng cờ” (về
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) của tập thể tác giả do Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ đạo, biên soạn. Công trình này là một tuyển tập hồi
ký dày dặn với dung lượng lên tới gần 1000 trang sách, ghi chép lại những hồi
ức về quá trình hoạt động của hơn 100 nhân vật thuộc thế hệ đảng viên quan
trọng ở miền Nam như Nguyễn Hữu Thọ, Trần Văn Trà, Trần Nam Chung, Trần
Bạch Đằng, Ung Ngọc Kỳ,... Với dày đặc những sự kiện chi tiết và cả khái quát,
nhiều tư liệu quý giá được chia sẻ, đối với vấn đề đang nghiên cứu, công trình
này có ý nghĩa tương đương như một niên giám về MTDTGPMNVN.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập MTDTGPMNVN (20/12/2000),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã ra mắt cuốn “Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Chính phủ Cách mạng lâm thời tại hội nghị Paris về Việt Nam” của tập thể tác

giả, do đồng chí Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao CPCMLTCHMNVN chỉ
đạo biên soạn. Cuốn sách là tập hợp các bài viết, hồi ức, suy nghĩ của những
người đã từng tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh đàm phán trên bàn Hội nghị
Paris, cung cấp cho chúng ta nguồn tư liệu quan trọng về hoạt động đối ngoại
của Mặt trận.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày ký Hiệp định Paris, Bộ Ngoại giao tổ
chức Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Ngoại giao Việt Nam với cuộc
đàm phán Paris”, trong đó đáng chú ý có công trình nghiên cứu của tác giả Ngô
Bá Thành về “Phong trào đô thị và lực lượng chính trị thứ ba với đàm phán
Paris”, khẳng định những đóng góp quan trọng trên mặt trận chính trị ở các đô
thị miền Nam và tại Hội nghị Paris. Mặc dù lực lượng thứ ba đóng một vai trò
không nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhưng cho đến nay,
những công trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này vấn còn khá ít và đây vẫn
là một khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề tập hợp lực lượng để xây dựng
khối đoàn kết toàn dân chống Mỹ, cứu nước.
4


Đặc biệt cuốn Tham luận Hội thảo khoa học Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam những chặng đường vẻ vang là công trình tập hợp hơn 40 bài tham
luận trình bày tại Hội thảo đã làm sâu sắc các nội dung của tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng
Mặt trận trong các giai đoạn của cách mạng; chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Ðồng thời nêu bật những bài học lịch sử và kinh nghiệm thực
tiễn, khẳng định sự ra đời, quá trình phát triển, vị trí, vai trò và những đóng góp
to lớn của Mặt trận đối với cách mạng Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực
tiễn đang đặt ra trong việc hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam; các biện pháp đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam... Đáng chú ý là các bài: Vai trò của MTDTGPMNVN trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của PGS.TS
Nguyễn Trọng Phúc; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt
Nam - một thành công của Đảng trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
chống đế quốc Mỹ và tay sai của TS. Nguyễn Bình và Nghiên cứu sinh Dương
Minh Huệ.
Và công trình “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (19601977)” của tác giả Hà Minh Hồng - Trần Nam Tiến là một chuyên khảo ngắn
gọn và đầy đủ về Mặt trận giải phóng với những nội dung cơ bản về quá trình ra
đời, hoạt động và vai trò hết sức to lớn của MTDTGPMNVN. Qua 4 chương
sách, công trình đã cung cấp những tư liệu về lịch sử và hoạt động Mặt trận,
phân tích và khẳng định tính tất yếu “sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, nhằm đoàn kết tập hợp các lực lượng, tầng lớp yêu nước ở
miền Nam, tiếp tục thực hiện chuyển thế chiến lược cho cách mạng miền Nam.
Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã phất cao trên các chiến trường miền
Nam, hướng dẫn nhân dân đấu tranh trong cuộc chiến đấu một mất một còn với
chiến tranh thực dân mới của Mỹ và chế độ tay sai. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc
Giải phóng cũng giương cao như một biểu tượng sáng ngời của ý chí vì độc lập
5


tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam trên nhiều nơi của thế giới những người
lao động yêu chuộng hòa bình, tự do và công lý. Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải
phóng đã theo các đoàn quân giải phóng và lực lượng tiến công và nổi dậy vào
chiếm lĩnh dinh lũy cuối cùng của chế độ thực dân mới ở Sài Gòn, báo hiệu
niềm vui chiến thắng vẻ vang của quân và dân cả nước đã hoàn thành nhiệm vụ
lịch sử giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc” [48; tr.5]
đem lại Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử.
Một số sách của các bộ, ban, ngành có chức năng, nhiệm vụ làm công tác
tuyên truyền: Thông tấn xã Việt Nam - 50 năm một chặng đường; 55 năm Thông

tấn xã Việt Nam; Hồi ức Thông tấn xã Giải phóng; Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Đài
Phát thanh Giải phóng; Lịch sử nhiếp ảnh,...
Các bài báo và tạp chí
Vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong cuộc chiến
tranh yêu nước chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam nước ta hiện nay
của Trần Huy Liệu (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 69, tháng 12/1964); Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam - ngọn cờ đoàn kết, ngọn cờ tất thắng của
Nguyễn Công Bình (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 57, tháng 12/1963); Ba mũi
giáp công trong cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ và tay sai ở miền Nam của
M.N (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 86, tháng 5/1966); Mấy nét về phong trào
nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam của
Quỳnh Cư (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 91, tháng 10/1966); Từ Chương trình
mười điểm đến Cương lĩnh chính trị của MTDTGPMNVN của Bùi Đình Thanh
(Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 116, tháng 11/1968),... Những bài viết trên đây
đã đi sâu nghiên cứu về vai trò, hoạt động đối nội, đối ngoại, chủ trương, chính
sách của Mặt trận trong việc thu hút, tập hợp lực lượng xây dựng khối đoàn kết
toàn dân.
Trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam, Tạp chí Mặt trận của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã đăng tải chuyên đề cho những công trình mới về vấn đề
nghiên cứu. Tiêu biểu có các bài của các tác giả:
6


Tác giả Trần Trọng Tân với bài MTDTGPMNVN với cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, số 86 (12 - 2010). Tác giả Trần Trọng Tân nguyên là Ủy
viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương.
Bằng những sự kiện lịch sử tiêu biểu nhất được điểm lại từ công cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam từ khi có MTDTGPMNVN
ra đời, lãnh đạo cho tới ngày toàn thắng, tác giả đã đi tới tổng kết mang tính tầm

vóc về vai trò của Mặt trận: “Thắng lợi đó cho thấy rõ vai trò của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với công cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, được thực hiện theo mưu lược của Đảng Cộng sản Việt Nam là vô
cùng to lớn” [108].
Tác giả Phạm Phúc Vĩnh với bài MTDTGPMNVN với mục tiêu đại đoàn
kết dân tộc. Bằng phương pháp phân tích thực chứng những đóng góp của Mặt
trận trong việc tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đấu tranh, giành thắng
lợi trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác giả một lần nữa nhấn mạnh:
“Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời trên cơ sở nhu cầu của
thực tiễn đấu tranh cách mạng ở miền Nam và kế thừa truyền thống yêu nước,
đại đoàn kết của dân tộc. Trong 17 năm tồn tại, trong đó đặc biệt là 15 năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, MTDTGPMNVN đã liên tục giương cao ngọn
cờ dân tộc, nhờ vậy đã động viên được một cách cao nhất tinh thần yêu nước ở
mọi tầng lớp nhân dân, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, tạo ra khối
đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc dưới
ngọn cờ của MTDTGPMNVN do Đảng lãnh đạo cộng với sự chi viện của miền
Bắc và sự ủng hộ của bè bạn quốc tế đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đưa sự
nghiệp cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi này một lần
nữa khẳng định sức mạnh to lớn của truyền thống đại đoàn kết dân tộc của Việt
Nam, đồng thời thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo cách mạng” [108].
Tác giả Nguyễn Quý Tỵ, với tiêu đề Mãi mãi còn đó sự nghiệp vẻ vang
của MTDTGPMNVN. Tác giả đã đóng góp vào việc tổng kết vai trò to lớn của tổ
chức mặt trận tiêu biểu này trong công cuộc kháng chiến 20 năm của dân tộc
7


chống Mỹ. Từ đó, liên hệ với sứ mệnh tiếp nối của cơ quan Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hiện nay trong công cuộc dựng xây đất nước của dân tộc.
Các công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài

Đây là nguồn tư liệu hoặc bằng tiếng nước ngoài hoặc đã được dịch ra
tiếng Việt, bao gồm những công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu từ
các nước khác nhau trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Nga,... Có thể kể tên một
số tác phẩm tiêu biểu như:
Viet Nam, The Ten Thousand Day War (Việt Nam, cuộc chiến tranh mười
ngàn ngày) của Micheal Maclear, Nxb Sự thật Hà Nội, 1990; Cuộc chiến tranh
dài ngày nhất nước Mỹ của G.C Herring, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
Những bài học của chiến tranh Việt Nam của Shingo Shibata do Viện Thông tin
Khoa học xã hội dịch và phát hành, Hà Nội, 1976; J.Pimlott: Việt Nam những
trận đánh quyết định (Trung tâm Thông tin Khoa học công nghệ môi trường, Bộ
Quốc phòng, 1997),...
Nổi bật là cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh của Gabriel Kolko (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003). Tác giả đã đi sâu phân tích lí do “tại sao
Đảng Cộng sản đã thắng ở Việt Nam và Mỹ lại đã thua”, “Đảng có thể dung hòa
như thế nào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 với
những xu hướng và những cuộc đấu tranh liên tục ở miền Nam?”, “Đảng Cộng
sản cũng phải luôn luôn giải quyết chiến lược chính trị của mình đối với những
người ngoài hàng ngũ của Đảng. Đảng có thể xây dựng một mặt trận thống nhất
rộng rãi gồm nhiều giai cấp như thế nào… Khó khăn trong việc thực hiện liên
minh giai cấp bên cạnh đấu tranh giai cấp luôn luôn đứng trước Đảng trong hàng
thập kỷ, trở thành một đề tài cho toàn bộ lịch sử của Đảng” [52; tr.30].
Bên cạnh đó phải kể đến Hồi ký của R.Mc.Namara, nguyên Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ, ra đời sau 20 năm cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc: Nhìn
lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995). Tác giả đã phân tích 11 nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại
của Mỹ ở Việt Nam và cho rằng việc “đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa
8


dân tộc thúc đẩy một dân tộc đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của

nó” của phía Mỹ là một trong những nguyên nhân thất bại quan trọng.
I.V.Gaiduk viết cuốn Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam. Tác giả
là nhà sử học đồng thời là chuyên gia về quan hệ Xô - Mỹ, ông đã phân tích các
nhân tố, các sự kiện chính và động cơ hành động ảnh hưởng đến việc ra quyết
định của Liên Xô trong những năm 1964 - 1973 đối với Việt Nam. Tác giả cũng
đề cập nhiều đến quan hệ Xô - Mỹ, quan hệ Xô - Trung và đường lối chiến lược
của mỗi nước trong từng giai đoạn liên quan đến các mặt quân sự, ngoại giao
của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Tất cả những tìm kiếm, liên quan, khảo lược bước đầu này về nhóm sử
liệu nước ngoài cho đề tài nghiên cứu đã giúp học viên có thêm những góc nhìn,
phương pháp nghiên cứu toàn diện, cũng như cảm hứng say mê với đề tài thực hiện.

Nhìn chung lại, những công trình nghiên cứu trên đã đi vào những góc độ
nghiên cứu khác nhau của vấn đề, song chưa có công trình nghiên cứu một cách
toàn diện về vai trò, hoạt động của MTDTGPMNVN trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất Tổ quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ vai trò của MTDTGPMNVN trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 - 1975).
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu và nguồn tư liệu như trên, luận văn có nhiệm vụ
kế thừa thành quả của nhừng nhà nghiên cứu đi trước, thu thập, xử lý tư liệu mới
nhằm:
- Hệ thống hóa, khái quát hóa những tư liệu đã có, bổ sung những tư liệu
mới, góp phần khôi phục một cách khách quan quá trình hoạt động và đóng góp
của MTDTGPMNVN trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua hai
giai đoạn: 1960 - 1969 và 1969 - 1975.
- Đi sâu phân tích chủ trương, chính sách của Mặt trận dưới sự lãnh đạo
của Đảng, của Trung ương Cục miền Nam với quá trình tập hợp lực lượng, xây

9


dựng khối đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975). Tuy nhiên, do những hạn chế về điều kiện chủ quan và khách
quan, học viên mới chỉ tập trung vào trình bày những đóng góp chủ yếu của
MTDTGPMNVN trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao mà chưa có điều kiện
nghiên cứu kỹ càng về những đóng góp của Mặt trận trên lĩnh vực quân sự.
- Bước đầu đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách khoa học về vai trò
của MTDTGPMNVN trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, từ đó rút ra một số kinh nghiệm vận động quần chúng nhằm phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới.
4. Nguồn tài liệu
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc, về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và
thời đại.
- Các văn kiện, các nghị quyết, chỉ thị, thông tư, sắc lệnh,… của Đảng về
xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; các báo cáo, cương lĩnh, kế hoạch,
chương trình hành động của MTDTGPMNVN; thư, điện, bài phát biểu,… của
các lãnh đạo Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng Mặt trận
dân tộc thống nhất; hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia, Thư viện
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,…

- Các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, sách có liên quan do
các cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện Sử học, Viện Lịch sử Quân
sự, Viện Lịch sử Đảng, Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử,…
- Các tư liệu, sách báo về lịch sử Việt Nam, lịch sử Mặt trận Dân tộc
Thống nhất, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lịch sử quan hệ quốc
tế, lịch sử quân sự Việt Nam,… là nguồn tài liệu bổ trợ dùng để làm sáng tỏ các

khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu.
- Những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài (chủ
yếu là các tài liệu đã được dịch sang tiếng Việt) đã được khai thác nhưng còn
một số hạn chế do yếu tố chủ quan và khách quan của tác giả.
10


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân, về dân tộc và giai
cấp, về tập hợp lực lượng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân
tộc Thống nhất,…
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là kết hợp phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các hoạt
động của Mặt trận thông qua tư liệu, báo chí, các văn kiện, nghị quyết của Đảng,
của Mặt trận, thông qua hồi ký các nhân chứng lịch sử. Phương pháp logic được
sử dụng để nghiên cứu vai trò của Mặt trận đối với cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam nói riêng và đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói
chung. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê, so sánh lịch
đại và đồng đại, phân tích, tổng hợp, hệ thống,…
6. Đóng góp của Luận văn
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa, bổ sung, xử lý nguồn tư liệu một cách
khoa học, Luận văn có những đóng góp sau:
- Sự ra đời của MTDTGPMNVN đã khẳng định sự phát triển và sức mạnh
tổ chức của phong trào yêu nước và cách mạng miền Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
- Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Trung ương Cục miền Nam, MTDTGPMNVN đã đoàn kết các tầng

lớp nhân dân miền Nam Việt Nam, được sự chi viện sức người sức của của nhân
dân miền Bắc đã bền bỉ và kiên cường đấu tranh, lần lượt đánh bại các chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến
tranh” của đế quốc Mỹ và tay sai, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc.

- Với phương thức tổ chức và hoạt động đúng đắn mà cốt lõi là đoàn kết
toàn dân phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Mặt trận
coi trọng cả hoạt động đối nội và đối ngoại. Về đối nội, trước khi
11


CPCMLTCHMNVN được thành lập (06/6/1969), Ủy ban Trung ương Mặt trận
và Ủy ban Mặt trận các cấp cùng Ủy ban nhân dân cách mạng cùng cấp là người
tổ chức, quản lí mọi mặt đời sống nhân dân ở vùng giải phóng, thực hiện chức
năng của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, Mặt trận nêu cao sự nghiệp đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân
dân, các dân tộc, các lực lượng hòa bình tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

- Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về vai trò của Mặt trận, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm cho việc phát huy vai trò của Mặt trận trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm hai chương và những tiết cụ thể.
Chương 1: Quá trình hình thành Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam (1954 - 1960)
Chương 2: Hoạt động và đóng góp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1960 - 1975

12



NỘI DUNG
Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM (1954 - 1960)
1.1. Từ đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 đến Đồng khởi 1960
1.1.1. Quá trình áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô - thành trì của cách mạng thế
giới ngày càng vững mạnh, hệ thống XHCN thế giới được hình thành. Đặc biệt,
sau khi cách mạng Trung Quốc giành thắng lợi, tuyên bố đi lên CNXH, làm cho
so sánh lực lượng đã ngả hẳn về phía cách mạng. Hệ thống XHCN lớn mạnh đã
trở thành đồng minh và hậu phương quốc tế vững chắc của Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Các nước XHCN, nhất là Liên Xô đã đạt được những
thành tựu to lớn về khoa học, công nghệ, vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là năng lượng hạt nhân và chinh phục vũ trụ. So sánh
lực lượng giữa hai phe có sự thay đổi lớn. Uy tín và ảnh hưởng của Liên Xô, của
phe XHCN tăng lên rất nhanh và có mặt áp đảo phe TBCN trong những năm
cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60. Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải
phóng đi lên CNXH, trở thành một thành viên trong đại gia đình các nước
XHCN. Sức mạnh của hệ thống XHCN được tạo bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu
tố quan trọng nhất là chính sách chung, mà chung nhất là các nước XHCN đều
mạnh mẽ chống chủ nghĩa đế quốc, chống Mỹ, bảo vệ hòa bình, chống chiến
tranh thế giới, ủng hộ phong trào giải phóng, ủng hộ phong trào đấu tranh của
nhân dân lao động các nước vì hòa bình, dân sinh, dân chủ.
Cùng với chiến thắng của Việt Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp, phong trào giải phóng dân tộc có bước phát triển vượt bậc, đẩy
nhanh quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Chỉ trong vòng 5 năm từ năm
1956 đến năm 1960 đã có 26 nước giành được độc độc lập. Riêng trong năm
1960 có 19 nước được giải phóng, trong đó có 18 nước châu Phi, cho nên năm

1960 được gọi là “Năm châu Phi” [47; tr. 21].
13


Khi cuộc chiến tranh Việt Nam nổ ra, thì cũng là thời điểm đỉnh cao của
chiến tranh Lạnh giữa hai hệ thống xã hội TBCN và XHCN, biểu hiện thông qua
sự gia tăng nhanh chóng về chi phí quân sự và thành lập liên tiếp các khối, liên
minh quân sự trên nhiều khu vực thế giới.
Ngày 4/4/1949, Mỹ đứng ra thành lập khối quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO) đến ngày 8/9/1954 lại lôi kéo đồng minh thành lập tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á (SEATO). Bước sang năm 1955, Mỹ - Anh thành lập khối Bátđa ở
Trung Đông (CENTO), cũng trong năm này, Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu thành lập khối quân sự Vácsava.
Nhìn chung, tuy trong nội bộ khối XHCN đã xuất hiện những mâu thuẫn
nội tại và những hạn chế nhất định, nhưng “ba dòng thác cách mạng” trên thế
giới (phong trào XHCN, phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ ở các nước
TBCN, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới) đang ở thế tiến công mạnh
mẽ vào CNTB. Trong khi tình thế đối đầu giữa hai phe XHCN và TBCN diễn ra
gay gắt, phong trào giải phóng dân tộc ở các châu lục ngày càng sôi nổi, xu
hướng chống Mỹ phát triển mạnh, thì xu thế trung lập và không liên kết được
nhiều nước dân tộc chủ nghĩa hưởng ứng.
Ở khu vực châu Á, có ba xu thế chính trị khác nhau.
Trước hết là xu thế XHCN của các nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Cộng
hòa Nhân dân Mông Cổ.
Các nước còn nằm trong quỹ đạo của Mỹ, chủ trương chống cộng triệt để,
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và các thuộc địa cũ của Mỹ, Anh, Pháp (như
Philippines, Pakistan, Mã Lai, Singapore,...).
Từ năm 1955, xuất hiện một khuynh hướng chính trị mới: các nước mới
giành được độc lập không muốn bị lôi kéo vào cuộc “chiến tranh lạnh” giữa hai

khối Liên Xô và Mỹ, tự tìm con đường trung lập, không liên kết về mặt quân sự
với bất cứ khối nào, dẫn đến sự ra đời của “Phong trào không liên kết”. Phong
trào này quy tụ được đông đảo các quốc gia mới giành được độc lập, do đó cùng
14


có tiếng nói chung với Việt Nam trong cuộc đấu tranh đòi hòa bình, độc lập, dân
chủ và bình đẳng về quyền lợi kinh tế.
Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, trọng điểm chiến lược quân sự của Mỹ ở
châu Á - Thái Bình Dương đang được chuyển dần từ Đông Bắc Á xuống Đông
Nam Á với tiêu điểm là khu vực Đông Dương. Đồng thời với sự chuyển hướng
chiến trường này, Mỹ đã bắt đầu dính líu sâu hơn vào Việt Nam nói riêng và
Đông Nam Á nói chung. Nghị quyết của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (NSC 124/2, ngày 25/6/1952) đã nhấn mạnh rằng Đông Nam Á là một khu vực có tầm
quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và Mỹ phải bảo vệ khu vực này
bằng cách ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản từ Đông Dương.
Tại Đông Nam Á lúc này, ảnh hưởng của CNXH trở nên rất mạnh. Đây là
địa bàn có đầy đủ điều kiện chủ quan và khách quan để nổ ra bão táp cách mạng,
mà trước tiên là ở Việt Nam và sau đó sẽ nổ ra theo “tính dây chuyền” như các
nhà chiến lược Mỹ đã tính toán trong “Học thuyết Domino”. Người Mỹ cho
rằng: “Nam Việt Nam giống như một quãng đê xung yếu, nếu quãng đê này bị
vỡ, thì sẽ làm cho làn sóng ảnh hưởng của cộng sản cuồn cuộn tràn vào các khu
vực lân cận” [15; tr. 118]. Chính Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng nói: “Đứng
về chiến lược mà xét, nếu Nam Việt Nam bị Cộng sản chiếm, điều đó sẽ đưa
Cộng sản đến chỗ họ phát triển quyền lực của họ hàng trăm dặm xa hơn nữa vào
vùng của thế giới tự do... Việc mất Việt Nam sẽ khởi động một quá trình sụp đổ,
mà nếu cứ tiến triển, sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho Mỹ và nền tự do”. Chính
vì vậy mà Mỹ coi khu vực Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là
mảnh đất thực nghiệm của “chiến tranh chống nổi dậy”, để từ đó rút kinh
nghiệm đi đàn áp các cuộc nổi dậy tại các khu vực khác trên thế giới.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ Vương quốc Campuchia - do Hoàng

thân Sihanouk đứng đầu - đi theo con đường trung lập, không tham gia bất cứ
liên minh quân sự hay chính trị nào, tiếp nhận viện trợ từ mọi nước miễn là
không có điều kiện ràng buộc. Mỹ, Thái Lan, chính quyền Sài Gòn giúp các lực
lượng thân Mỹ (như Sơn Ngọc Thành, Sam Xari, Đáp Chuôn,...) tìm cách lật đổ
Chính phủ Sihanouk, nhưng mọi âm mưu đó đều bị đập tan.
15


Tình hình ở Lào sau năm 1954 có nhiều diễn biến phức tạp. Cuộc đấu
tranh của nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào và Mặt trận
Lào yêu nước - dẫn tới sự thành lập của hai chính phủ liên hiệp (lần thứ nhất vào
tháng 8/1956, lần thứ hai vào tháng 6/1962) có sự tham gia của Hoàng thân
Suphanuvong, đại diện Mặt trận Lào yêu nước, nhưng do Mỹ và các lực lượng
thân Mỹ phá hoại, cả hai chính phủ liên hiệp đều tồn tại không lâu.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi vang dội kết thúc 9 năm kháng chiến
đầy gian khổ, hi sinh của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, buộc thực dân Pháp phải
ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận hòa bình, độc lập của dân tộc Việt Nam và hai
năm sau sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Với chiến thắng Điện
Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ 1954, Việt Nam có vị trí xứng đáng trong
phong trào giải phóng dân tộc thế giới và góp phần quan trọng cổ vũ phong trào,
nhất là với các xứ thuộc địa của Pháp.
Nhiệm vụ giải phóng miền Nam bằng phương thức đấu tranh chính trị đòi
đối phương thi hành nghiêm chỉnh những thỏa thuận được ghi trong Hiệp định
Giơnevơ diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã mở đầu cho quá trình sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chế độ thực dân cũ của Pháp
chấm dứt trên toàn Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại thay
Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, uy hiếp
Campuchia và khống chế Lào. Chủ nghĩa thực dân mới là một chính sách cơ
bản, một nội dung chủ yếu của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc

Mỹ. Một trong những đặc điểm nổi bật và có tính quy luật của chủ nghĩa thực
dân mới là “nó được thực hiện không phải bằng hệ thống cai trị trực tiếp của
bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu cho quyền lợi của
giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo dân tộc, dân chủ, giả hiệu”
[17; tr. 18].

Sau hai Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên (tháng 7/1953) và ở Đông
Dương (tháng 7/1954), Mỹ xúc tiến mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành
chốt chặn làn sóng cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc đang lớn mạnh ở
16


châu Á. Ngày 24/6/1954, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles nói với các nhà
lãnh đạo Quốc hội Mỹ: “Điều cơ bản là phải lập ra một phòng tuyến mà cộng
sản không thể vượt qua, rồi sau đó giữ vững vùng này và chiến đấu lật đổ (các
chính thể cộng sản) trong khu vực này với tất cả sức mạnh mà chúng ta (Mỹ) có
thông qua viện trợ kinh tế và xây dựng một lực lượng quân sự hùng mạnh - Mỹ
phải đi đầu trong việc hình thành một tập đoàn phòng thủ khu vực đủ mạnh để
duy trì tự do tại Đông Nam Á” [41; tr. 41].
Ngày 8/9/1954, Mỹ lập ra Tổ chức Liên minh phòng thủ Đông Nam Á
(SEATO) với mục đích ngăn chặn làn sóng XHCN tràn qua vĩ tuyến 17 xuống
Đông Nam Á, đặt miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia dưới cái ô bảo hộ của
tổ chức này, đồng thời dùng mọi thủ đoạn cố tạo ra “hai Việt Nam”. Ngày
23/10/1954 Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao đã nói trắng ra rằng Mỹ: “quyết xây
dựng Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng biệt” [62; tr. 2]. Với âm mưu chia
cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân
sự ở Đông Nam Á, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, lập ra chính
quyền tay sai của Mỹ.
Mục đích của xây dựng chính quyền tay sai thể hiện ngay trong văn kiện
năm 1956 của “Hội đồng an ninh quốc gia” Mỹ đề ra một số mục tiêu của chính

sách Mỹ đối với miền Nam Việt Nam, trong đó cũng nhấn mạnh: “Giúp đỡ nước
Việt Nam tự do phát triển một chính phủ mạnh, ổn định và hợp hiến để tạo điều
kiện cho nước Việt Nam tự do xác lập một tư thế đối địch ngày càng hấp dẫn đối
với những điều kiện ở vùng cộng sản hiện tại” [62; tr. 2].
Tháng 11/1954 tướng Mỹ Côlin (L.Collins) được cử sang Sài Gòn làm đại
sứ. Côlin đề ra kế hoạch 6 điểm để củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm
độc chiếm miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới gồm những vấn đề sau:
- Bảo trợ chính quyền Diệm. Viện trợ thẳng cho Chính phủ Sài Gòn.
- Xây dựng quân đội Nam Việt Nam gồm 15 vạn người do Mỹ trang bị,
huấn luyện.
- Bầu cử quốc hội ở miền Nam, hợp pháp hóa chính quyền Sài Gòn.
17


- Định cư cho số người công giáo miền Bắc di cư vào Nam và vạch kế
hoạch cải cách điền địa.
- Thay đổi chế độ thuế khóa, dành ưu tiên cho hàng hóa Mỹ ở miền Nam.
Đào tạo cán bộ hành chính [40; tr. 156].
Để thực hiện được những mục tiêu mà kế hoạch Côlin đề ra, đế quốc Mỹ
đã thực hiện hàng loạt các chính sách thâm độc về chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, giáo dục,…
Về chính trị
Mỹ đã ép Pháp trao quyền cai trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Từng
bước một, Diệm loại lực lượng thân Pháp khỏi bộ máy hành chính. Tháng
3/1956, Mỹ-Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội ở miền Nam, lập chế độ “Việt Nam
Cộng hòa” do Diệm làm Tổng thống. Sự kiện Mỹ - Diệm lập “quốc gia độc lập”,
“dân chủ” ở miền Nam là cột mốc đánh dấu Mỹ đã áp đặt xong thể chế chính trị
hoàn toàn phụ thuộc Mỹ ở miền Nam.
Đến ngày 26/10/1956, Ngô Đình Diệm đã tổ chức bầu cử lên làm Tổng
thống “nước Việt Nam Cộng hòa”. Để tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền Sài

Gòn, Ngô Đình Diệm ban hành một bản Hiến pháp do Quốc hội lập hiến biên
soạn dưới sự cố vấn của hai chuyên gia về luật hiến pháp - Giáo sư tiến sĩ
J.A.C.Grant (người Mỹ) và luật gia Juan C. Orendain (người Philippines).
Về cơ sở xã hội, Diệm lập ra Đảng Cần lao nhân vị do Ngô Đình Nhu làm
lãnh tụ, lập ra Phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ
liên đới, một số tổ chức chính trị như Đảng dân chủ - Xã hội, Tập đoàn Công
dân, Phong trào tranh thủ tự do,…
Dựa vào sự ủng hộ của Washington, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến
hành liên tục các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, trong thời gian 5 năm (từ 1955
đến 1960) và đã tàn sát dã man hàng chục ngàn cán bộ nhân dân miền Nam. Chỉ
tính riêng từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, số đảng viên, cán bộ cách mạng bị
Mỹ-Diệm bắt bớ lên tới hơn 800.000 người, trong đó số người bị giết chết là
93.362 người [42; tr. 35]. Các nhà tù, trại giam, trại tập trung chật ních những
người vô tội, họ bị hành hạ đánh đập, bị xâu dây thép qua tay rồi đem phơi nắng,
18


hoặc bị buộc đá vào cổ ném xuống sông... Đỉnh cao của chính sách khủng bố đối
với những người yêu nước của tập đoàn Mỹ - Diệm là ban hành Luật 10/59 ngày
6/5/1959 và thành lập các “Tòa án quân sự đặc biệt”, tội xử chỉ có hai mức: tử
hình và khổ sai chung thân. Các vụ thảm sát tập thể ở Chợ Được, Vĩnh Trinh,
Duy Xuyên, Hướng Điền, Mỏ Cày, vụ đầu độc hàng nghìn tù chính trị ở Phú Lợi
v.v..., là những tội ác tày trời bị cả thế giới lên án.
Để gây dựng và duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới, Mỹ đã tăng cường
viện trợ mọi mặt cho Diệm về quân sự, kinh tế và bằng hệ thống cố vấn. Kế
hoạch Côlin ra đời cuối năm 1954 cũng nhấn mạnh đến việc viện trợ trực tiếp
cho Diệm. Cái quốc gia tự xưng “độc lập” ở miền Nam thường xuyên được Mỹ
cung cấp trên 80% “ngân sách quốc gia”. Từ năm 1955, Giôn Đa-lét đã khẳng
định: chính quyền Diệm tồn tại được “là nhờ có Mỹ ủng hộ”…Từ năm 1955 đến
năm 1960, ngụy quyền ngửa tay nhận 1,6 tỷ đô la viện trợ Mỹ” [3; tr. 4].

Về quân sự
Trọng tâm của Mỹ-Diệm là xây dựng quân đội, vì như F.Dulles đã tuyên
bố: “Một quân đội mạnh có thể làm ổn định chính phủ Nam Việt Nam hơn bất
kỳ một yếu tố nào khác” [41; tr. 52]. Lực lượng cột trụ để bảo vệ “Việt Nam
Cộng hòa” là quân đội Sài Gòn do Mỹ huấn luyện, chỉ huy. Theo Han
Morgenthau “Chính sách viện trợ (Mỹ) là một trong những đường lối ngoại
giao, giống như đường lối quân sự hay tuyên truyền. Nó chỉ là một trong những
khí giới nằm trong những vũ khí của quốc gia Hoa Kỳ” [32; tr. 49]. Từ tài khóa
năm 1955 đến 1967, “viện trợ” quân sự Mỹ cho ngụy quyền Sài Gòn chiếm 39%
trong tổng số “viện trợ” quân sự của Mỹ cho Đông Nam Á [32; tr. 43]. Cho tới
tháng 6-1955, Mỹ đã xây dựng cho chính quyền Sài Gòn một đội quân dưới
quyền điều khiển trực tiếp của Mỹ gồm 10 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo
binh, 5 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp và 54.000 quân địa phương. Số cố vấn Mỹ từ
35 người (năm 1950), tăng lên 699 người (năm 1956) [40; tr. 157].
Theo báo cáo của Bai-an Gien-kin (một nhà nghiên cứu chiến lược người
Mỹ) gửi Giôn-mơ-rây, tư lệnh cơ quan tùy viên quân sự Mỹ, thì lực lượng vũ
trang của Nam Việt Nam lớn nhất Đông Nam Á, lớn thứ hai ở châu Á, lớn thứ
19


×