Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Khoa học gỗThông tin về một số loài cây gỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM
KHOA LÂM NGHIỆP


ĐỒ ÁN KHOA HỌC GỖ

GVHD: TH.S NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT
Sinh viên thực hiện:
Đặng Hữu Tài

14115230

Nguyễn Thị Thanh Duyên

14115019

TP Hồ Chí Minh, Tháng 6 - 2016


PHẦN MỞ ĐẦU
ôn học Khoa học gỗ là một trong những môn học cơ sở của sinh viên Chế Biến
Lâm Sản. Môn học này có nhiệm vụ trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ
bản về phương pháp phân loại và định danh gỗ, cách nhận biết các đặc tính gỗ, giá trị
kinh tế - xã hội của các loại gỗ mọc trong các kiểu rừng khác nhau. Ngày nay, loài
người đã biết rất nhiều các loại thực vật và giá trị sử dụng của chúng về nhiều mặt: cây
cho gỗ. cây cho tinh dầu, cây cho nhựa…Vì thế, việc tìm hiểu và sử dụng nguồn tài
nguyên phong phú hay những kiến thức về Khoa học gỗ là rất cần thiết.

M

Vì vậy chúng tôi trình bày đồ án này nhằm nêu lên một vài đặc điểm một số loài cây


gỗ thông dụng. Nội dung của đồ án được tham khảo qua các tư liệu có chọn lọc, nếu có
gì sai xót mong quý thầy (cô) cùng các bạn thông cảm.

*Cây gỗ
Gồm những cây thân gỗ, có thân thẳng và chiều cao dưới cành lớn, chúng được chia
làm 3 loại:
-Cây gỗ lớn:

H > 20m

D > 45cm

-Cây gỗ nhỡ (trung bình):

H từ 10 – 20m

D từ 20 – 45cm

-Cây gỗ nhỏ:

H < 10m

D < 20cm

1


MỤC LỤC
XOAN ĐÀO ............................................................................................................................. 3
CHÒ CHỈ ............................................................................................................................... 11

CẨM LAI BÀ RỊA ................................................................................................................ 19
CĂM XE ................................................................................................................................. 26
GÕ ĐỎ.................................................................................................................................... 32
SAO ĐEN ............................................................................................................................... 39
MUỒNG ĐEN ....................................................................................................................... 43
XÀ CỪ .................................................................................................................................... 49
PƠMU..................................................................................................................................... 54
BẠCH ĐÀN TRẮNG ............................................................................................................ 61
BẢNG PHÂN LOẠI ĐẶC TÍNH CÁC LOẠI GỖ ............................................................ 66

2


XOAN ĐÀO
Tên Latin:

Pygeum arboreum Endl. et . kurz

Họ:

Hoa hồng Rosaceae

Lớp (nhóm):

Cây gỗ lớn

Tên khác:

Cáng lò, mạy thoong (theo dân tộc Tày)


1. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ lớn cao 20-25m, thân thẳng tròn,đường kính 40-50cm. Vỏ nhẵn màu tro
bạc, cành non phủ đầy lông mịn màu rỉ sắt, có nhiều bì khổng tròn, màu nâu nhạt. Toàn
thân có mùi hôi bọ xít.
Lá đơn nguyên, phiến lá dày, hơi nhọn. Hoa chùm mọc ở nách lá, màu trắng
vàng, đài hình chuông chia làm nhiều thùy. Cánh hóa nhỏ, phủ nhiều lông.
Xoan đào ra hoa tháng 3-4 quả chín tháng 8-9, khi chín chuyển từ màu xanh sang
màu nâu nhạt. Quả hạch, hình thận, đường kính 2cm, chứa 5 hạt. Hạt có màu nâu nhạt,
có nhiều dầu thơm.
2. Đặc tính sinh thái
Phân bố rải rác trong rừng nguyên sinh và thứ sinh, có mặt hầu hết ở các tỉnh
miền Bắc từ độ cao tuyệt đối 500-600 m trở xuống.
Là cây ưa sáng, sinh trưởng tương đối nhanh, chu kỳ kinh doanh không quá dài
(25 – 35 năm) dễ gây trồng, có thể trồng hỗn giao với nhiều loài cây khác. Cây tái sinh
mạnh trong các loại rừng thứ sinh, có độ tàn che từ 0,3 - 0,5.
Cây Xoan đào có biên độ sinh thái rộng nên có thể gây trồng ở các tỉnh miền Bắc
những nơi có lượng mưa bình quân 1500 - 2500 mm/năm, nhiệt độ bình quân 20-270C.
Có thể trồng các loại đất còn tính chất đất rừng, nhưng thích hợp nhất là đất
feralit sâu dày, ẩm mát, thoát nước.
3


3. Giống và tạo cây con
Chọn cây lấy giống là những cây 14-16 tuổi, sinh trưởng tốt, thân thẳng, tán rộng,
không bị sâu bệnh và đã có từ hai vụ quả trở lên.
Thu hái tốt nhất vào cuối tháng 12 đầu tháng 1. Dùng sào có buộc ngoắc ở đầu để
ngoắc từng chùm khi quả chuyển màu hoặc nhặt hạt khi quả chín rụng xuống. Khi thu
hái về cần loại bỏ tạp chất, quả nhỏ ủ vào cát từ 3- 5 ngày cho vỏ hạt lũa ra đem đãi
sạch sau đó gieo ươm ngay hoặc bảo quả. Hạt giống phải đảm bảo có đường kính hạt
0,5-0,6 cm, 1kg hạt có từ 2100-2300 hạt, tỷ lệ nảy mầm 60-70%.

Bảo quản hạt trong cát: Trộn đều hạt trong cát 5-6% với tỷ lệ 1 hạt/2 cát (tính theo thể
tích) sau đó vun thành luống cao 15-20 cm trên mặt cần rải thêm 1 lớp cát mỏng khoảng
1-2 cm để phủ kín hạt, khoảng 5-7 ngày đảo một lần. Thời gian bảo quản khoảng 20 -30
ngày.
Tuỳ theo số tháng nuôi cây con trong vườn ươm để chọn đường kính bầu. Vỏ bầu làm
bằng polyetylen. Nếu nuôi cây dưới 6 tháng chọn cỡ bầu 9 x13cm, nếu nuôi cây trên 9
tháng trở lên thì cỡ bầu 12 x15cm.
Thành phần ruột bầu gồm đất mặt thịt nhẹ + 10% phân chuồng hoai và 1% phân
NPK(5:10:3). Bầu đóng xong được xếp thành luống rộng 1m, mặt bầu phẳng, lấp đất
xung quanh 2/3 bầu và các kẽ hở của bầu để cho chặt luống bầu. Các luống bầu cách
nhau 50-60 cm để chăm sóc cây con được thuận tiện.
Có hai cách gieo hạt:
- Gieo hạt trên luống cát ẩm hoặc luống đất đến khi hạt nảy mầm được 2 lá thì nhổ
cấy vào bầu.
- Ủ hạt trong cát ẩm đến khi hạt nứt nanh thì gieo trực tiếp vào bầu, lưu ý khi cấy hạt
để hạt nằm ngang hoặc phần mầm rễ nhú ra xuống dưới và lấp đất dày từ 1-2 cm. Cần
tưới ẩm bầu trước khi cấy hạt.
Phương pháp cấy hạt trực tiếp vào bầu là tốt nhất.
4


Khi gieo ươm cần làm giàn che vì thời gian đầu cây ưa bóng. Trong thời gian gieo hạt
hoặc cấy cây mầm che bóng 100% khoảng 20-30 ngày, sau đó giảm dần dàn che xuống
75% khi cây ra được 3-4 lá cần bỏ dần dàn che xuống 40%. Trước khi xuất vườn phải bỏ
hoàn toàn dàn che nhưng phải chọn ngày dâm mát và phải bỏ từ từ tránh cây bị nắng đột
ngột. Vật liệu dùng làm dàn che tốt nhất là đan phên bằng nứa hoặc tre có thể dùng tế
guột cắm để che bóng.
Trong thời gian đầu cần tưới nước thường xuyên nhưng chỉ vừa đủ ẩm không để hạt bị
thối do úng nước, sau khi cây được 2 tháng tuổi lượng nước tưới giảm dần tuỳ theo thời
tiết và độ ẩm của bầu.

Sau 1 tháng tiến hành nhổ cỏ phá váng mặt bầu lần 1, thời gian nhổ cỏ phá váng lần 2
tuỳ theo lượng cỏ và độ cứng của mặt bầu.
Khi cây cao được 10cm có thể bón thêm phân NPK(5:10:3) hoặc phân hữu cơ vi sinh
bằng cách pha 0,2 kg vào 10 lít nước, tưới đều trên mặt luống khoảng 4m2; 10-15 ngày
tước 1 lần tuỳ theo mức độ sinh trưởng tốt, xấu của cây để quyết định số lần tưới phân,
dừng tưới phân trước khi cây xuất vườn 1-2 tháng.
Khi phát hiện thấy có sâu quấn lá thì dùng thuốc sâu Pastac hoặc Baxa phun trên mặt
luống. Nếu bị nấm thì dùng benlát nồng độ 1% để phun đều trên mặt luống, cách 7-10
ngày phun 1 lần đến khi hết thì ngừng phun.
Sau khi cây mầm đã lên được 2-3 lá thì cần dồn lại bầu, loại bỏ bầu không có cây để
dặm và tập trung chăm sóc cây con. Trước khi trồng từ 1-1,5 tháng cần tiến hành đảo
bầu, cắt lá, hãm cây để khi trồng không bị chột cây. Nếu thời gian nuôi cây trong vườn
ươm lâu thì khoảng 4 tháng phải đảo lần 1. Khi đảo bầu phải chọn thời tiết dâm mát, và
tưới nhiều nước cho ẩm bầu tránh làm vỡ bầu.
Cây con đủ tiêu chuẩn xuất vườn có tuổi trên 4 tháng, cao trên 30cm, đường kính gốc
trên 0,5cm, sinh trưởng tốt, phát triển cân đối, không sâu bệnh hoặc cụt ngọn.

5


4. Trồng và chăm sóc rừng
Chọn nơi đất sâu dày, ẩm mát nhưng thoát nước, tốt nhất là đất còn tính chất đất rừng
để trồng rừng thuàn loài hoặc hỗn loài.
Trồng thuần loài:
Thực bì được phát dọn sạch trước thời vụ trồng 2 tháng, dọn sạch thực bì có thể đốt
hoặc băm nhỏ cành nhánh.
Cuốc hố kích thước 40x40x40cm, sau 15-20 ngày lấp hố, bón lót bằng phân chuồng
hoai (3-5 kg/hố) hoặc Phân NPK(5:10:3), lượng bón 0,1-0,15 kg/hố đảo đều phân và đất
để khoảng 15 ngày.
Khi thời tiết thuận lợi thì trồng cây, chú ý lấp đất xuống hố phải lấy lớp đất mặt đập

nhỏ, lượng đất lấp phải đầy hố giữa tâm hố cao hơn miệng hố từ 3-4cm.
Mật độ thích hợp là 1100 cây/ha cự ly 3x3m. Ngoài ra có thể trồng mật độ 1650cây/ha
cự ly 3x2m hoặc 2000 cây/ha cự ly 2,5x2m.
Trồng thuần loài có thể tận dụng trồng xen cây nông nghiệp 2 năm đầu bằng các biện
pháp nông lâm kết hợp hoặc trồng cây cốt khí phù trợ nhằm cải tạo đất.
Trồng bằng cây con có bầu trên 4 tháng tuổi, khi trồng cần rạch bỏ vỏ bầu, lấp đất đến
cổ rễ và lèn chặt đất, chú ý cây phải đạt thẳng đứng ở giữa hố.
Trồng vào vụ Xuân tháng 2-4, vụ Thu tháng 8-9. Khi trồng nên chọn thời tiết dâm
mát.
Rừng trồng cần chăm sóc 3- 4 năm đầu.
Năm thứ nhất, nếu trồng vụ Xuân thì chăm sóc 2 lần, lần 1 vào tháng 5-6 gồm luỗng
phát cỏ dại, cây bụi, dây leo toàn diện; lần 2 vào tháng 9-10 gồm luỗng phát cỏ dại dây
leo, xới đất quanh gốc cây rộng 1m. Nếu trồng vụ thu chăm sóc 1 lần vào tháng 10-11
gồm luỗng phát cỏ dại, cây bụi, dây leo toàn diện, không xới gốc.

6


Năm thứ hai chăm sóc 3 lần, gồm 2 lần phát luỗng và xới xung quanh gốc vào tháng
2-3, 7-8 và 1 lần phát luỗng vào tháng 11. Kỹ thuật chăm sóc như năm thứ nhất.
Năm thứ ba, thứ tư mỗi năm chăm sóc 2 lần, gồm 1 lần phát luỗng và xới xung quanh
gốc vào tháng 2-4 và 1 lần phát luỗng vào tháng 8-9. Kỹ thuật chăm sóc áp dụng như
năm thứ nhất.
Trồng rừng hỗn giao:
Cây Xoan đào có thể trồng hỗn giao với các loài cây bản địa (Kháo vàng, Re gừng,
Giẻ cau, Lim xanh, Sồi phảng, Dẻ đỏ) và có thể trồng hỗn giao theo hàng, dải với keo.
Mật độ trồng thích hợp là 1100 cây/ha hoặc có thể trồng 1600 cây/ha tuỳ phương
thức hỗn giao để chia số cây trồng từng loài theo mật độ.
Cây Xoan đào trồng hỗn giao được với 1 hoặc nhiều loài cây bản địa khác theo 3
phương thức:

Trồng hỗn giao theo cây (cây nọ – cây kia hoặc 3 cây nọ – 3 cây kia);
Trồng theo hàng (hàng nọ – hàng cây kia);
Trồng theo dải (trồng mỗi loài từ 3-5 hàng).
Kỹ thuật trồng chăm sóc rừng thực hiện như trồng thuần loài.
Trồng theo rạch:
Thường áp dụng để làm giàu rừng tự nhiên nghèo kiệt hoặc cải tạo rừng phòng hộ
kém hiệu quả.
Phát băng rạch 6-8 m, băng chừa 4 m, trong băng phát dọn sạch hết thực bì thiết kế hố
giữa rạch, cự ly 2,5-3m, cuốc hố 40×40 x40cm (có thể trồng theo đám tuỳ theo khoảng
trống lớn nhỏ để thiết kế trồng).
Kỹ thuật cuốc hố, trồng chăm sóc áp dụng như trồng thuần loài, cần lưu ý khi phát
chăm sóc cần phát luỗng cả băng chừa những cành nhánh của cây rừng cũ mở độ chiếu
sáng cho cây trồng và luỗng phát băng chừa tạo điều kiện xúc tiến tái sinh tự nhiên.
7


5. Khai thác, sử dụng
Gỗ bền, có tỷ trọng 0,62, xếp nhóm VI, dùng trong xây dựng, đóng đồ, công cụ nông
nghiệp. Hạt ép dầu ăn hoặc để đốt, tỷ lệ dầu trong hạt 40-45%. Hạt giã nhỏ sao với rượu
đắp vào chỗ gãy xương làm vết thương chóng lành.
Thời gian tỉa thưa lần đầu có thể tiến hành sau năm thứ 5 khi cây đã giao tán, tuỳ
thuộc vào mật độ trồng và phương thức trồng để xác định thời gian tỉa và số lần tỉa. Đối
với rừng trồng tập trung lần tỉa đầu tiến hành vào năm thứ 6, mật độ để lại 900-1200
cây/ha. Lần hai vào năm thứ 10 mật độ để lại khoảng 600- 800 cây/ha. Lần ba vào năm
thứ 14-15, mật độ còn lại (mật độ cuối cùng) là 400- 550 cây/ha.
6.Ứng dụng gỗ
Gỗ xoan đào được dùng làm ván lạng, ván bóc và các đồ nội thất gia đình như cửa gỗ,
bàn ghế, tủ bếp…Lá non và vỏ cây xoan đào có thể được dùng để chiết tinh dầu, nguyên
liệu sản xuất thuốc trừ sâu sinh học.
7.Ưu điểm gỗ

-Rắn chắc và cứng, thớ gỗ mịn, vân gỗ đẹp, màu hồng đào.
-Chịu nhiệt, chịu nén, chịu nước, chịu lực tốt.
-Chịu được thời tiết khắc nghiệt nhất như: nắng, mưa, gió, nước, lạnh.
-Không hoặc ít bị cong vênh, nứt nẻ theo thời gian.
-Chống được mối mọt, bền đẹp theo thời gian.
-Dễ dàng phun sơn trang trí.
8.Giá gỗ xoan đào
Gỗ xoan đào rất được ưa chuộng trên thị trường, có giá tương đối cao:
+Loại sấy có giá dao động từ 9 – 15 triệu đồng/m3 (loại A,B,C).
+Loại xẻ có giá tầm 8,5 triệu đồng/m3.

8


MỘT SỐ HÌNH ẢNH GỖ XOAN ĐÀO

9


Tủ bếp, bàn ghế từ gỗ xoan đào
10


CHÒ CHỈ
Tên Latin:

Parashorea chinensis Wang Hsie

Họ:


Dầu Dipterocarpaceae

Bộ:

Bông Malvales

Lớp (nhóm):

Cây gỗ lớn

Tên khác:

Mạy kho, Rào

1.Đặc điểm hình thái
Chò chỉ là thân cây gỗ, cao khoảng 40-50m, thân cây tròn, mọc thẳng. Đường kính
thân từ 0,8-0.9m, chiều cao dưới cành đến hơn 30m. Thân cây màu nâu bạc, có bạnh vè,
vỏ dày nứt dọc. Cây thường chiếm tầng trên của rừng, phân cành cao. Cành non chò chỉ
có phủ lông.

11


Lá đơn, hình trái xoan, cây non lá to, dài 13-15cm, rộng 6-7cm, có lá kèm màu lục
nhạt. Cây lớn lá nhỏ hơn, có 15-18 đôi gân thứ cấp gần như song song. Mặt trên và mặt
dưới có phủ lông hình sao, gốc mỗi lá có 2 lá kèm.
Mùa hoa từ tháng 4-5, hoa mọc đầu cành, hoa nhỏ, cánh hoa màu vàng, có mùi thơm
nhẹ dễ chịu. Quả non màu hồng nhạt, khi to màu xanh xám, quả khô chuyển sang màu
nâu sẫm, có đường kính 4-6mm, dài 13-16mm, có 5 cánh không đều. Mùa quả chín là
tháng 7-8.

2. Đặc tính sinh thái
Chò chỉ phân bố tự nhiên ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình, Sơn
La, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang. Thường gặp chúng trong
rừng tự nhiên, có độ cao từ 100m đến 700m so với mực nước biển, nơi có lượng mưa
bình quân từ 1600-2300mm, nhiệt độ bình quân 20-240C. Chò chỉ gặp trên nhiều loại đất
như feralit đỏ vàng, nâu vàng trên đá vôi, tầng trung bình đến dày, hơi ẩm.
Trong rừng nguyên sinh, Chò chỉ hỗn giao với các loài gỗ lớn như Trường, Sấu, Re
xanh, Trám, Sâng. Ở rừng thứ sinh, Chò chỉ hỗn giao với các loài như Dẻ, Kháo vàng,
Vàng anh, Máu chó, Côm. Trong tự nhiên Chò chỉ không tồn tại ở những nơi đất trống
đồi trọc, hoặc đất bạc màu thoái hoá.
Ở rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh nghèo kiệt (rừng gỗ pha tre nứa), thảm
tươi dưới tán rừng Chò chỉ thường dày đặc, gồm các loại ẩm sinh như Khoai mài, Sẹ, Lá
dong, Quyển bá, Dương xỉ cây bụi có các loài như Bọt ếch, Cơm nguội, Xương gà, Chẩn,
Trọng đũa.
Chò chỉ tái sinh tự nhiên ở những nơi có cây mẹ gieo giống, nơi tán rừng không quá
rậm. Chò chỉ thường mọc ở những nơi ven khe suối, chân hoặc sườn núi, ẩm, ở độ cao
700 m so với mực nước biển và thích hợp với các loại đất như Feralit đỏ nâu hoặc vàng
đỏ phát triển trên các loại đá mẹ Phiến thạch sét, Granit, Phiến thạch mica, có tầng dày,
tơi xốp, thành phần chủ yếu là sét pha thịt. Càng lên cao thì màu vàng ở tầng B càng
chiếm ưu thế. Hàm lượng mùn tương đối khá ở tầng đất mặt và càng lên cao thì hàm
12


lượng mùn càng tăng (từ 3-7 %). Đất có phản ứng chua và độ bão hoà Bazơ thấp
(pHH2Otừ 4-5). Hàm lượng các chất dinh dưỡng P2O5 và K2O dễ tiêu đều nghèo.

3. Giống và tạo cây con
Hạt giống:
Cây trồng 10-12 năm bắt đầu ra quả, nhưng thu hái ở các lâm phần từ 15 tuổi trở lên
mới có chất lượng hạt tốt. Chu kỳ sai quả 4-6 năm, ở những năm này tỷ lệ cây ra quả đạt

70-80%. Mùa ra hoa tháng 4-5, mùa quả chín tháng 7-8. Chò chỉ thường ra hoa không
đều, có khi 3-4 năm ra hoa một lần, khả năng đậu quả không cao. Quả dễ bị sâu phá hại.
Mỗi quả có 3-4 hạt.
Thu hái quả vào tháng 8-9 khi quả chín vỏ mầu nâu nhạt. Hạt và cánh hạt mầu nâu,
nhân hạt chắc và có mầu trắng. Thu hái tốt nhất là khi lâm phần có từ 50-60% số cây có
quả rụng. Quả thu hái về phải ủ ngay vào cát, tưới nước đều đặn luôn để đống ủ có độ ẩm
80%. Đống ủ không cao quá 50cm và phải để nơi thông gió. Mỗi ngày đảo 1 lần. Bảo
quản hạt điều kiện thông thường có thể duy trì sức sống được 1 thời gian nhưng tỷ lệ nảy
mầm giảm tương đối nhanh. Sau 1,5 tháng đã mất sức nảy mầm 50-60%. Một kg quả có
300-350 quả, độ thuần > 95%, tỷ lệ nảy mầm <50%.
Gieo ươm:
Dùng vỏ bầu Polyetylen cỡ 8x12cm, không đáy và đục lỗ xung quanh.
Thành phần hỗn hợp ruột bầu gồm: Phân chuồng ủ hoai, supe lân Lâm thao (có hàm
lượng P2O5 dễ tiêu 14%) 2%, đất tầng A dưới tán rừng 88%. Đất rừng tầng A, có hàm
lượng mùn từ 3% và độ pHKCl = 5-6, thành phần cơ giới là thịt nhẹ, pha cát (sét vật lý 2025%).
Đất tập kết tại vườn ươm, được đập nhỏ và sàng có đường kính mắt sàng 4mm, loại
bỏ rễ cây, sỏi đá, đất sét, rồi vun thành đống cao 15-20cm. Sau đó phun ẩm và phủ vải
mưa, giấy bóng ủ 4-5 ngày ngoài nắng.
13


Luống để xếp bầu rộng 1m, dài 10-20m và cao 15-20cm. Rãnh luống rộng 40-50cm.
Xếp bầu theo hàng, cứ 2 hàng để cách 1 hàng. Mật độ bầu trên luống khoảng 260-280
bầu/m2.
Khi rễ cọc phát triển ra ngoài đáy bầu phải tiến hành đảo bầu kết hợp phân loại cây để
tiện chăm sóc. Chỉ tiến hành đảo bầu vào những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ.
Hạt sau khi thu hái cần được cắt bỏ bớt 3/4 cánh. Diệt khuẩn bằng cách ngâm hạt
trong dung dịch thuốc tím KMnO4 nồng độ 0,1% (1gam thuốc tím pha với 1 lít nước) với
thời gian 30 phút. Sau đó ủ hạt trong cát ẩm.
Hàng ngày tiến hành tưới nước cho đến khi hạt nứt nanh thì đem gieo, tránh để nanh

quá dài khi gieo có thể bị gẫy mầm.
Có thể gieo hạt thẳng vào bầu. Tạo 1 lỗ sâu 1,5cm giữa bầu và gieo 1 hạt đã nứt nanh,
sau đó phủ lớp đất mỏng 3-5mm. Dùng rơm rạ phủ trên mặt luống giữ độ ẩm, tránh nắng.
Khi cây mầm được 5-7 ngày tuổi, dài 1-1,5cm thì bứng cầy vào bầu. Cấy cây vào
ngày râm mát hoặc mưa nhẹ, tránh những ngày nắng gắt, gió mùa Đông Bắc. Trước hôm
cấy cần tưới nước cho đất ướt đều với lượng 4-6 lít/m2. Sau khi nhổ cần nhúng cây vào
bát nước để tránh khô rễ mầm. Cấy đến đâu nhổ đến đấy. Loại bỏ những cây xấu. Dùng
que nhọn chọc 1 lỗ sâu 2-3 cm ở giữa bầu, hướng cây mầm sao cho cổ rễ ngang mặt bầu
và dùng que ép chặt đất với rễ mầm.
Sau khi cấy xong tiến hành cắm ràng ràng che mặt luống và tưới nước cho cây. Dùng
lưới che sáng 50% che cho luống cây.
Tưới nước giữ độ ẩm đất sau khi gieo hoặc cấy cây nếu trời không mưa. Không được
để khô luống. Khi hạt mọc, dỡ bỏ rơm rạ phủ mặt luống và cắm ràng ràng che bóng. Từ
thời gian hạt chưa bỏ mũ thường xuyên tưới mỗi ngày ít nhất 1 lần vào buổi sáng sớm
hoặc buổi chiều. Lượng nước tưới 2-4 lít/m2. Tưới liên tục trong 20 ngày đầu, sau đó chỉ
tưới khi đất khô. Ở giai đoạn sau, tuỳ theo tình hình thời tiết mà điều tiết lịch tưới cho
phù hợp.
14


Trước khi xuất vườn 1-2 tháng tuyệt đối không được bón thúc, hạn chế tưới nước để
hãm cây.
Sau khi cấy cây 5-10 ngày, cây nào chết cần tiến hành cấy dặm ngay.
Thời gian đầu cứ sau 10-15 ngày cần làm cỏ, kết hợp phá váng 1 lần. Dùng que vót nhọn
xới nhẹ phá lớp váng tạo trên mặt bầu, tránh không làm hư tổn đến bộ rễ.
Giai đoạn đầu cần có độ che bóng 50%, sau đó dỡ bỏ dần giàn che. Trước khi xuất
vườn 1-2 tháng cần dỡ bỏ hoàn toàn. Có thể bón thúc để thúc đẩy sinh trưởng của cây con
trường hợp cây sinh trưởng kém ở các thời điểm cây 120 ngày, 180 ngày, 240 ngày. Sau
15- 20 ngày thúc 1 lần. Dùng loại phân hỗn hợp Đạm Amôn – Supe lân và Cloruakali
tưới thúc với tỷ lệ 3N:6P:1K. Hoặc dùng phân Supe lân Lâm Thao khi cây có biểu hiện

tím lá. 2 kg bón cho 1000 bầu chia làm 6 lần (Mỗi lần bón 0,340kg/1000bầu). Hoà phân
với nồng độ 0,5% (1kg phân/200 lít nước). Tưới dung dịch nước phân bằng bình hương
sen. Sau khi tưới phân phải tưới rửa lá bằng nước lã.
Không tưới phân thúc vào những ngày nắng gắt, vào lúc buổi trưa nắng. Tốt nhất nên
tưới vào những ngày râm mát hoặc mưa phùn.
Chò chỉ bị Sâu đục nõn và sâu ăn lá cả ở vườn ươm và ngoài rừng trồng. Cách phòng
trừ là thường xuyên kiểm tra và bắt sâu vào buổi sáng.
Tiêu chuẩn cây con:
Cây ươm đạt 12-15 tháng tuổi, đường kính cổ rễ 0,5-0,6cm, cao 60-80cm, thân hoá gỗ
hoàn toàn, không bị nhiễm sâu bệnh hại, không bị cụt ngọn, không nhiều thân là đủ tiêu
chuẩn đem trồng. Không trồng cây khi đã có lá non.
4. Trồng và chăm sóc rừng
Trồng thuần loài hoặc hỗn giao ở nơi còn tính chất đất rừng, có cây bụi, cây gỗ mọc
rải rác. Ở nơi đất trống trọc cần trồng cây phù trợ như Cốt khí, Đậu tràm trong giai đoạn
đầu.

15


Trồng hỗn giao giữa Chò chỉ với các loài cây tái sinh mục đích sẵn có trong lâm phần.
Trồng theo rạch song song với đường đồng mức. Trong rạch trồng cây phát rộng 2m, dọn
sạch cây bụi, cỏ dại, cây tái sinh không mục đích và để lại những cây mục đích khoẻ
mạnh có tương lai. Băng chừa để lại rộng 3m. Xử lí thực bì phải được tiến hành trước khi
trồng rừng 1 tháng.
Trồng hỗn giao với các loài cây lá rộng bản địa khác như Sấu, Re. Cứ trồng 1 rạch
Chò chỉ lại xen tiếp theo 1 rạch loài cây lá rộng thứ hai. Trong rạch trồng cây, phát dọn
dây leo, cây bụi, cây tái sinh phi mục đích, chỉ để lại cây mục đích có tương lai.
Trồng thuần loài với mật độ 540 cây/ha, cự li 3,5 x 5 m.
Trồng hỗn giao tỷ lệ 1:1 với các loài Sấu, Re, mật độ 540 cây/ha, cự li 3,5 x 5m.
Trong đó có 270 cây Chò chỉ và 270 cây Sấu, Re, 1 hàng Chò chỉ xen 1 hàng Sấu / Re.

Thời vụ trồng: Vụ chính là vụ Xuân từ 10/2 đến 30/3, vụ Hè Thu từ tháng 6 đến tháng
8.
Cuốc hố trồng với kích thước 40 x 40 x 40cm. Các hố bố trí giữa hàng và so le giữa
các hàng theo hình nanh sấu. Khi cuốc hố tách riêng phần đất tốt, đất xấu. Vun hố hình
mui rùa. Hoàn thành cuốc hố trước lúc trồng rừng 30 ngày.
Bón lót 200g đạm sunfat + 100g supe lân + 100g clrua kali cho mỗi hố khi lấp hố và
bón thúc 200g NPK(5:10:3) vào lần chăm sóc thứ nhất.
Trồng cây vào những ngày có mưa nhỏ hoặc râm mát. Tránh trồng vào những lúc trưa
nóng hoặc có gió mùa Đông Bắc. Dùng dao lam hay kéo sắc rạch bầu, tránh làm tổn
thưởng cây. Dùng cuốc hoặc xẻng bới 1 lỗ giữa hố sâu bằng chiều cao của bầu cây trồng.
Đặt cây sao cho cổ rễ ngang mặt hố, rồi vun đất xung quanh cho kín. Có thể dùng tay
hoặc chân dẫm chặt xung quanh gốc cây, tránh dẵm vào bầu làm vỡ bầu.
Sau khi trồng rừng, cần được chăm sóc và bảo vệ liên tục cho đến khi rừng khép tán,
đặc biệt trong 3 năm đầu.

16


Năm thứ nhất chăm sóc 2 lần với cây trồng vụ xuân và 1 lần với cây trồng vụ thu. Lần
1 vào tháng 5-6, lần 2 vào tháng 11-12. Trồng dặm những cây đã chết. Phát dọn toàn bộ
dây leo, cây bụi cỏ dại và cây phi mục đích trong rạch trồng cây với chiều rộng 2m. Xới
đất xung quanh hố với đường kính rộng 40 – 50cm. Tiến hành bón thúc sau đó vun đất
xung quanh gốc. Bảo vệ không cho gia súc phá cây.
Năm thứ hai chăm sóc 2 lần, lần 1 vào tháng 5-6, lần 2 vào tháng 11-12. Phát dọn toàn
bộ dây leo, cỏ dại, cây bụi và cây phi mục đích trong rạch trồng cây với chiều rộng 2m.
Xới đất xung quanh gốc đường kính rộng 50cm, sâu 3 – 4cm, vun gốc. Phát luỗng dây
leo, cây sâu bệnh, sau đó đánh dấu những cây mục đích cần nuôi dưỡng ở băng chừa.
Năm thứ ba chăm sóc 2 lần vào đầu và cuối mùa mưa. Phát dọn dây leo, cỏ dại, cây
bụi trong rạch trồng cây. Nơi nào cây tái sính ở băng chừa lấn át chèn ép cây trồng thì
phải chặt thấp xuống hoặc loại bỏ. Xới đất xung quanh gốc rộng 60cm, sâu 3 – 4cm, vun

gốc.
Năm thứ tư tiến hành phát luỗng dây leo, loại bỏ cây sâu bệnh, cây bụi, cây tái sinh
phi mục đích chèn ép cây trồng và cây mục đích trên toàn bộ lô trồng rừng. Những
khoảng trồng không có cây mục đích, cần giữ lại cây tái sinh, cây bụi thảm tươi để phòng
hộ.
Khi cây rừng đạt chiều cao 3-5m, phải bảo vệ không để cháy rừng. Những nơi có thực
bì rậm rạp, cần phát luỗng thực bì dọn ra khỏi rừng trước mùa hanh khô. Điều chỉnh
không gian dinh dưỡng: Khi cây trồng bị cây bụi hoặc cây tái sinh phi mục đích chèn ép
cần tiến hành phát loại bỏ những cây chèn ép. Tỉa những cành khô, những cành thấp
không có khả năng quang hợp.
Khi cây rừng chuẩn bị khép tán vào năm thứ 4-5, trường hợp mật độ đủ, cần chặt bỏ
những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn, nhiều thân, còi cọc, tán lệch.
Khi cây rừng đạt 8-10 tuổi, tiếp tục loại bỏ những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn,
tán lệch, nhiều thân.

17


5. Tình trạng
Biết không chính xác. Do gỗ chò chỉ tốt nên chò chỉ đang bị săn lùng ráo riết để khai
thác. Mức độ đe doạ: Bậc K.
6. Ứng dụng gỗ: được sử dụng phổ biến để làm khung cửa, tay vịn cầu thang, cửa gỗ, cột
nhà, giường ngủ..

7. Đặc điểm gỗ
- Màu vàng nhạt hoặc hơi hồng.
- Giác màu vàng, lõi màu nâu sẫm.
- Tia gỗ trung bình, mật độ thưa, chịu nước, chịu chôn vùi tốt.
- Lõi gỗ màu nâu sẫm.
- Gỗ có mùi nhẹ, hương thơm tự nhiên.

- Gỗ ít bị cong vênh biến dạng theo thời gian.
- Thân gỗ thẳng, tròng, có vỏ màu nâu sám, có nhiều bì.
- Gỗ bị nứt dăm dọc.
- Gỗ dễ gia công chế biến.
8. Ưu điểm gỗ
-Cứng, bền và có độ ổn định cao.
-Cửa gỗ ít bị cong vênh, biếng dạng theo thời gian.
-Gỗ có mùi thơm tự nhiên rất dễ chịu.
-Giá thành phải chăng.
-Dễ gia công, chế biến.
Tuy nhiên nhược điểm: dễ bị mối mọt tấn công, ngày càng trở nên quý hiếm.

18


MỘT SỐ HÌNH ẢNH GỖ CHÒ CHỈ

Vân gỗ chò chỉ

19


Cửa, đũa ăn và xích đu từ gỗ chò chỉ

20


CẨM LAI BÀ RỊA
Tên Latin:


Dalbergia bariensis Pierre

Họ:

Đậu Fabaceae

Bộ:

Đậu Fabales

Lớp (nhóm):

Cây gỗ lớn

Tên khác:

Cẩm lai, cẩm lai bông, trắc lai

1. Đặc điểm hình thái

Là loại thân gỗ nhỏ, tán hình ô, thường xanh, cao 20-25m, chiều cao dưới cành 5-10m
đường kính thân cây 50-70cm. Tán xòe rộng, phân cành thấp, cành non màu xám. Vỏ
màu xám tro, nhiều sợi dai, điểm đốm trắng hay vàng, không nứt nẻ, vết vỏ dày,nhẵn, vỏ
có mùi sắn dây.

Thân cây và hoa

21



Lá kép lông chim 1 lần, dài 15-18cm, có 11-13 lá chét, hình mác thuôn, tù ở 2 đầu,
nhẵn, dài 3-5cm, rộng 1,5-2,5cm. Mặt trên lá màu lục, mặt dưới hơi bạc, phiến lá nhẵn,

cuống lá chét có 5 răng nhỏ.
Cụm hoa chùy ở nách lá và đầu cành, không lông, tràng 5 cánh màu trắng phớt tím.
Hoa lưỡng tính, không đều, nhỏ, màu lam nhạt, mùa hoa tháng 12-1, quả đậu dẹt, dài
12cm hay hơn, rộng 2,5cm, hơi thắt eo chỗ có hạt, hạt 1 ít khi 2, hình thận, dẹt, dài 9mm,
rộng 6mm, màu đen nhạt, khi chín không tự nứt.
2.Đặc điểm sinh thái
Mùa hoa tháng 12 - 1, mùa quả chín tháng 2 - 4. Cây sinh trưởng rất chậm đến trung
bình. Tái sinh rải rác do hạt, khó nảy mầm.
Cây ưa sáng, lúc nhỏ chịu bóng, mọc rải rác hoặc thành từng đám 5 - 10 cây trong
rừng rậm nhiệt đới thường xanh hay rừng nửa rụng lá mưa mùa với các loài cây như
Bằng lăng (Lagerstroenia sp.) chiếm ưu thế ở độ cao dưới 800 - 900 m. Thường mọc chỗ
ẩm, ven sông, suối đất bằng hoặc có độ dốc nhỏ, cùng với các loài cây họ
Dầu Dipterocapaceae như
cochinchinensis), Chiêu

Sao
liêu

đen

(Hopea

(Terminalia sp.),

odorata), Vên
Dầu


vên

đồng

(Anisoptera
(Dipterccapus

tuberculatus), Chò sót (Schima superba)…
Cây ưa đất feralit nâu đỏ hay nâu vàng phát triển trên đá bazan và feralit xám trên cát
kết hay phù sa cổ có tầng dày, thoát nước.

22


3.Phân bố
Loài đặc hữu của Đông Dương. Việt Nam: Gặp ở nhiều tỉnh phía Nam như: Kon Tum
(Sa Thầy), Gia Lai, Đắc Lắc (Ea Súp, Đắc Min, Gia Nghĩa, Lắc), Khánh Hòa (Ninh Hòa),
Lâm Đồng (Bảo Lộc), Ninh Thuận (Ninh Sơn), Bà Rỵa - Vũng Tàu (Xuyên Mộc), Đồng
Nai (Thống Nhất: Trảng Bom; Tân Phú; Vĩnh An: Vĩnh Cửu), Sông Bé (Phước Long,
Đức Phong), Tây Ninh (Tân Biên)…
4.Tình trạng
Sẽ nguy cấp. Do gỗ quí, ngoại hạng, nên cẩm lai bà rịa đang bị săn lùng ráo riết và
môi trường sống cũng bị thu hẹp nhanh chóng. Ngày nay, ngay ở các vùng trước đây có
nhiều như Đồng Nai, Đắc Lắc.. cũng khó tìm được cây có đường kính trên 30 cm. Nhiều
vùng như Sa Thầy, Gia Nghĩa, Lắc gần như vắng hẳn bóng loài cây quí này.
5.Giá trị
Gỗ được dùng để đóng đồ đạc cao cấp như giường, tủ, bàn ghế, làm đồ mỹ nghệ, trang
trí và đồ tiện khảm. gỗ có giá trị xuất khẩu cao…
Gỗ rất quý, cứng nặng, thớ mịn, khá dòn, dễ gia công, mặt cắt nhẵn, ăn vecni dễ đánh
bóng nhưng hay biến dạng. Giác màu vàng nhạt, lõi đỏ sẫm có vân màu tím đen.

Hiện nay gỗ Cẩm Lai có giá rất cao trên thị trường, thường khoảng 80-90
triệu/1m3. Chính vì thế mà gỗ Cẩm Lai Hiện đang bị khai thác gần như cạn kiệt.
Có giá 45.000.000 triệu/m3

23


MỘT SỐ HÌNH ẢNH GỖ CẨM LAI

Vân gỗ Cẩm lai
24


×