Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Luận án Tiến sĩ Triết học Xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH CÔNG SƠN

XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06

HÀ NỘI - 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH CÔNG SƠN

XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Những số liệu được sử dụng trong luận án có nguồn
gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết luận rút ra trong luận án là
kết quả tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tác giả
luận án.

Tác giả luận án

Đinh Công Sơn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.

Những nghiên cứu lý luận về đạo đức kinh doanh

1.2.

Những nghiên cứu về thực trạng đạo đức kinh doanh và xây
dựng đạo đức

1
5


5

15

kinh doanh ở nước ta hiện nay
1.3.

Những nghiên cứu về giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh ở
nước ta

20

hiện nay
CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Đạo đức kinh doanh
2.1.1. Khái niệm “kinh doanh”, “chủ thể kinh doanh”, “đạo đức kinh
doanh” và “xây dựng đạo đức kinh doanh”

29
29
29

2.1.2. Những chuẩn mực căn bản của đạo đức kinh doanh

39

2.2. Sự cần thiết xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay

53


2.2.1. Vai trò động lực của đạo đức kinh doanh

53

2.2.2. Xây dựng đạo đức kinh doanh – quy luật tồn tại và phát triển của
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH
DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

59
74

3.1. Những thành tựu trong xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta

73

3.1.1. Truyền thống xây dựng đạo đức kinh doanh trong lịch sử

73

3.1.2. Những kết quả bước đầu trong xây dựng đạo đức kinh doanh thời
gian qua
3.2. Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức kinh

77
90


doanh ở nước ta hiện nay

3.2.1. Những hạn chế trong xây dựng đạo đức kinh doanh hiện nay

90

3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức doanh hiện nay

104

CHƯƠNG 4: NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO

114

ĐỨC KINH DOANH
4.1. Những yêu cầu cơ bản trong xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước
ta hiện nay
4.1.1. Xây dựng đội ngũ những người kinh doanh có đạo đức và năng
lực
4.1.2. Gắn việc xây dựng đạo đức kinh doanh với việc xây dựng môi
trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh
4.2.

Một số giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta

114
114
117
118

hiện nay

4.2.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với tính
cách là cơ sở của đạo đức kinh doanh
4.2.2. Tăng cường vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo đức kinh
doanh

118
128

4.2.3. Tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh cho đội ngũ doanh
nhân, sinh viên các trường kinh tế và người lao động trong doanh

137

nghiệp
4.2.4. Nâng cao vai trò người tiêu dùng và dư luận xã hội đối với việc
xây dựng đạo đức kinh doanh
TÀI LIỆU THAM KHẢO

142
151


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH
BNN
CN
CNH, HĐH
CNTB
CNXH

CT
GS
KHXH
KHXHVN
KTQD
KTTT
Nxb
PGĐ
PGS
QG
TNLĐ
TNXH
TPHCM
TS
TW
VS
XHCN

Ban chấp hành
Bệnh nghề nghiệp
Cử nhân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa xã hội
Chính trị
Giáo sư
Khoa học xã hội
Khoa học xã hội Việt Nam
Kinh tế quốc dân
Kinh tế thị trường

Nhà xuất bản
Phó giám đốc
Phó giáo sư
Quốc gia
Tai nạn lao động
Trách nhiệm xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh
Tiến sĩ
Trung ương
Viện sĩ
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là vấn đề luôn lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị. Các công trình nghiên cứu của họ đã góp
phần làm rõ và hoàn thiện những phạm trù, những phẩm chất, nguyên tắc đạo đức
cơ bản và khẳng định vai trò của nó đối với đời sống xã hội.
Ở nước ta, đạo đức cũng là vấn đề thường xuyên được quan tâm nghiên cứu cả
trong lý luận lẫn thực tiễn. Đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc,
đạo đức trở thành nền tảng tinh thần truyền thống để tổ tiên vượt qua nhiều thử
thách và chiến thắng kẻ thù. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đạo đức cũng đóng
vai trò là nội lực để giúp chúng ta có thêm sức mạnh đương đầu với đế quốc, thực
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới – đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Người coi đạo đức là gốc, là nền tảng của
người cách mạng, là sức mạnh của mỗi con người. Chính nhờ sức mạnh ấy, người
cách mạng mới vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tôi luyện, trưởng thành để cống
hiến nhiều hơn cho tổ quốc, cho nhân dân.

Khi cả nước hòa bình, độc lập đi lên CNXH, đã có nhiều công trình nghiên cứu
vấn đề đạo đức mới, đạo đức cách mạng, nhằm mục tiêu xây dựng con người mới –
nguồn lực chủ yếu để đảm bảo xây dựng thành công CNXH - đủ đức và tài. Sự quan
tâm càng được chú ý hơn khi chúng ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Phải nói rằng, kinh tế thị trường đã hình thành từ lâu trong sự phát triển của xã
hội loài người, nhưng nói đến “nền kinh tế thị trường điển hình” là nói đến sự gắn
bó của nó đối với nền sản xuất TBCN – một nền sản xuất chạy theo lợi nhuận tối đa.
Kinh tế thị trường có những nguyên tắc vận hành, phát triển riêng, ảnh hưởng sâu
sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội, tới hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức, tới
thói quen suy nghĩ của từng người, trong đó có những tích cực đồng thời không
tránh khỏi mặt tiêu cực.
1


Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo tiến hành gần 30 năm qua
đã đạt được nhiều thành tựu, nền kinh tế dần dần phục hồi và tăng trưởng, đời sống
nhân dân được cải thiện. Rõ ràng, các chính sách kinh tế xã hội cùng với cơ chế mới
đã tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát huy mọi năng lực của mình vào quá
trình sản xuất trao đổi hàng hoá. Nhờ vậy, vị thế kinh tế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao. Những thắng lợi đó đã khẳng định sự nghiệp đổi mới là cần
thiết và đúng hướng.
Tuy nhiên, việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những
biến đổi trong đời sống xã hội, xuất hiện càng nhiều hiện tượng phản đạo đức, phi
nhân tính. Cụ thể là trong lĩnh vực kinh doanh xảy ra những hành vi trái đạo đức
như làm hàng giả, gian lận, trốn thuế, bóc lột quá mức sức lao động của người làm
công, khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, xem thường
trách nhiệm xã hội, v.v. gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, cản trở tiến trình
đổi mới, xây dựng đất nước, đang trở thành mối quan ngại của cả cộng đồng.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự biến đổi cũng như xây dựng đạo

đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Tất cả các công trình đó đã đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức, đồng
thời cảnh báo nguy cơ đạo đức bị xói mòn dưới tác động của đồng tiền. Qua đó, ít
nhiều đề xuất các biện pháp nhằm bảo vệ, duy trì các chuẩn mực đạo đức truyền
thống. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đi sâu vào đạo
đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trước tình hình đó, việc thực
hiện đề tài “Xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay” không những có ý
nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, cấp bách, nhằm góp phần khẳng
định và hoàn thiện một nền kinh tế thị trường có điều tiết và có định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích luận án
Làm rõ thực chất, những chuẩn mực cơ bản và vai trò của đạo đức kinh doanh;
phân tích thực trạng xây dựng đạo đức kinh doanh, qua đó đề xuất một số giải pháp

2


nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh ở nước
ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Thứ nhất: Làm rõ thực chất của đạo đức kinh doanh, xây dựng đạo đức kinh
doanh, những chuẩn mực cơ bản, và sự cần thiết xây dựng đạo đức kinh doanh trong
điều kiện kinh tế thị trường.
- Thứ hai: Phân tích thực trạng xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng
và phát triển đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng của luận án là những vấn đề bản chất của xây dựng đạo đức kinh

doanh ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là đạo đức kinh doanh và xây dựng đạo đức
kinh doanh ở Việt Nam từ khi chuyển sang kinh tế thị trường.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức kinh doanh.
- Luận án sử dụng các phương pháp: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, đối
chiếu - so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa…
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm đạo đức kinh doanh, xây dựng đạo đức
kinh doanh, những chuẩn mực cơ bản của nó và sự cần thiết xây dựng đạo đức kinh
doanh ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong xây dựng đạo đức kinh doanh
ở nước ta hiện nay.
3


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng và phát
triển đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần nghiên cứu đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập chuyên đề đạo đức kinh doanh.
- Luận án còn có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác xây dựng và hoàn thiện
đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án được chia làm 4 chương, 9 tiết.

4



CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu lý luận về đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh không phải là một vấn đề mới xuất hiện trong thế giới
đương đại, mà những tư tưởng của nó đã có từ rất lâu trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người. Khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, phân công lao động chưa phát
triển, trao đổi sản phẩm mới chỉ là bột phát do nhu cầu sinh tồn của các thành viên
trong thị tộc, bộ lạc và nguyên tắc cùng làm cùng hưởng vẫn được mọi người thực
hiện một cách tự nhiên thì đạo đức kinh doanh chưa xuất hiện.
Khoảng 4000 năm trước công nguyên, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn
tới phân công lao động phát triển tạo ra ba nghề trong xã hội: chăn nuôi, thủ công,
buôn bán thương mại. Trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu, sản phẩm do lao động
làm ra trở thành hàng hóa, kinh doanh xuất hiện và đạo đức kinh doanh cũng ra đời.
Đây cũng là thời kỳ mới của nhân loại, có mâu thuẫn đối kháng giai cấp, có bộ máy
nhà nước, con người không sống “ngây thơ thuần phác” nữa, quan hệ giữa con
người với con người tự nhiên dẫn tới yêu cầu đạo đức: không được trộm cắp, phải
sòng phẳng trong giao thiệp “tiền trao cháo múc”, phải có chữ tín, biết tôn trọng các
cam kết, thỏa thuận…
Như vậy, đạo đức kinh doanh không phải xuất phát từ sự “tiên nghiệm” từ
“chân lý tuyệt đối” vĩnh cửu. Đạo đức kinh doanh ra đời cùng hoạt động kinh
doanh, phát triển theo từng hình thái kinh tế - xã hội, thay đổi theo từng vùng dân
cư, lãnh thổ, nhất là đặc điểm phương Tây và phương Đông.
Các tư tưởng triết lý đạo đức ở phương Đông
Các triết lý đạo đức ở phương Đông hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa.
Ngay từ thời cổ đại, nhiều triết gia Trung Hoa đã có những tư tưởng chi phối sự phát
triển xã hội trong một thời gian dài. Nhiều nội dung trong những tư tưởng đó trở
thành những triết lý quản lý quan trọng ở mọi phạm vi hoạt động của con người mà

đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong sự hình thành hệ thống các khái niệm
và chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Điển hình và nổi bật nhất là trường phái tư tưởng
của Khổng Tử và Hàn Phi Tử.
Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) với Tư tưởng đức trị của mình
5


đã đưa ra triết lý tư tưởng sâu sắc dựa trên văn hóa tinh thần. Chữ Nhân là nhân tố
cơ bản trong tư tưởng của ông. Nhân thể hiện biết yêu thương, giúp đỡ người khác
và lấy đó làm phương hướng rèn luyện của bản thân.
Nhân được Nho giáo coi là yếu tố quan trọng nhất, có tác dụng chi phối trong
“ngũ thường” – nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nghĩa thể hiện phương châm của Nhân, thấy việc gì đáng làm thì làm không
mưu lợi cá nhân. Theo ông, người quân tử phải thấy điều hợp lý thì làm, và phải cố
gắng hết mình, “không thành công thì cũng thành nhân”.
Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm cho mình
thì không nên làm cho người khác”. Thiếu yếu tố Nhân, Lễ chỉ là hình thức, giả dối.
Trí là có trí tuệ, kiến thức, biết mình biết người.
Tín mang nghĩa chân thành, chân thực, là sự thống nhất giữa lời nói và việc
làm, giữa nhận thức và hành động.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử chủ trương cải tổ để tạo nội lực nhằm cải
thiện vị thế bằng thuật và pháp. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử nhấn mạnh vào
mặt “ác” và coi hình phạt chính là cách thức hữu hiệu để ngăn chặn. Điều này khác
hẳn với tư tưởng đức trị của Khổng tử chú trọng đến bản tính “thiện” trong con
người. Hàn Phi Tử cho rằng bản chất mâu thuẫn chính là sự tranh giành quyền lợi.
Ông đưa ra ba khái niệm cơ bản trong thuyết cai trị của mình là: Thế, Pháp và
Thuật. Tức là sử dụng quyền lực, công cụ luật pháp và cách thức sử dụng. Theo
thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, Thế - Pháp - Thuật là ba “trụ cột” của việc trị quốc,
trị dân; mỗi nhân tố đều có tác động giúp củng cố và phát huy hiệu lực.
Khác với đạo Nho của Khổng Tử, Hàn Phi Tử đặt vị trí của Thế cao hơn Trí và

Đức, coi trọng quyền thế và đòi hỏi sự phục tùng của quyền lực. Ông cho rằng
quyền lực phải được tập trung, thưởng và phạt là công cụ để cai trị.
Pháp là Pháp luật, được lấy làm căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái.
Pháp luật phải công bằng, công khai và phổ biến.
Thuật là nghệ thuật cai trị. Trong khi Khổng tử coi trọng việc “tự cai trị” và cai
trị bằng chữ tâm và đức, thì Hàn Phi Tử lại nhấn mạnh đến nghệ thuật cai trị gồm
hai khía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là phương pháp, cách thức tuyển
dụng, đánh giá và quản lý; trong khi tâm thuật là các mưu mẹo, thủ thuật khống chế,
điều khiển hành vi.[116. 29].

6


Đến thời Đông Chu, Phạm Lãi đã đúc kết cho bản thân và cho Thiên hạ 16
nguyên tắc kinh doanh, trong đó thể hiện các yêu cầu về chữ tín, về trung thực, tận
tâm, về việc đảm bảo chất lượng hàng hóa, 16 nguyên tắc đó là:
- 5 lời răn cho bản thân người kinh doanh: 1, Sinh ý yếu cầu khẩn; 2, Dụng đồ
yếu tiết kiệm; 3, Dụng nhân yếu phương chính; 4, Lâm sự yếu trách nhiệm; 5, Thủ
tâm yếu an ninh.
- 5 yêu cầu khi tiếp xúc với khách hàng: 1, Tiếp nạp yếu khiêm hòa; 2, Dự
khiếm yếu thức nhân; 3, Mãi mại yếu tùy thời; 4, Nghị quá yếu đinh ninh; 5, Kỳ hạn
yếu ước định.
- 3 yêu cầu đối với chất lượng hàng hóa: 1, Hóa sắc yếu diện nghiêm; 2, Ưu
biệt yếu phân biệt; 3, Hóa vật yếu tu chỉnh.
- 3 yêu cầu đối với quản lý tiền bạc: 1, Xuất nhập yếu cẩn thận; 2, Tiền tài yếu
minh phân; 3, Trương mục yếu kiết tra.
Các phường hội thủ công thời phong kiến cũng rất quan tâm đến việc nâng cao
uy tín đạo đức trong sản xuất và mua bán hàng hóa. Trong quan hệ với đối tác,
người ta sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi hơn là để mất uy tín của phường hội.
Sau hơn 2000 năm, những tư tưởng đạo đức trên vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới

đời sống, xã hội và đến các lý thuyết quản lý và đạo đức hiện đại ngày nay, trong đó
có đạo đức kinh doanh.
Sự phát triển của tư tưởng đạo đức kinh doanh ở phương Tây
Tư tưởng đạo đức học nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng ở phương
Tây thường xuất phát từ những tín điều tôn giáo. Luật Tiên Tri (Law of Moses) của
Tây phương có từ lâu đời đã đưa ra những lời khuyên cho con người như: Tới mùa
thu hoạch ngoài đồng ruộng, không nên gặt hái hết mà chừa một tí hoa mầu ở bên
đường cho người nghèo khó; tới ngày nghỉ lễ hàng tuần thì cả chủ và thợ cũng được
nghỉ; sau 50 năm thì mọi món nợ sẽ được hủy bỏ.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle cũng có những quan điểm mà cho đến
nay được coi là nền móng cho đạo đức kinh doanh thời hiện đại. Ông đã nêu ra ý
tưởng rằng, nhiệm vụ chính của người thủ lĩnh không phải là gia tăng quyền lực của
mình trước cấp dưới mà là tạo ra những điều kiện để mọi người dưới quyền mình
có thể thể hiện được mọi năng lực ở mức cao nhất. Nhiều câu hỏi mà Aristotle đã
lập ra và ngày nay có thể đang khiến các nhà quản lý hiện đại phải đau đầu đi tìm
câu trả lời: “Tôi muốn người ta đối xử với tôi như thế nào khi tôi là thành viên của
7


cơ quan?”, “Những tiền đề tiềm năng nào có được để phát triển các tài năng và cả
tiềm năng của các thành viên trong cơ quan?”, “Tôi có nhận nhiều hơn công sức
đóng góp của mình vào quỹ chung hay không?”, “Liệu hệ thống phân chia lợi nhuận
đang có, ảnh hưởng như thế nào tới không khí đạo đức chung của cơ quan?”, “Các
nhân viên sẽ được nhận tiền thưởng chiếm bao nhiêu phần trăm số lợi nhuận thu
được nhờ áp dụng các sáng kiến và ý tưởng của họ?...”
Trong thời Trung Cổ, giáo hội La Mã có luật “Canon Law” đề ra tiêu chuẩn
đạo đức trong một số hoạt động kinh doanh như nguyên tắc “Just wages and just
prices” (không nên trả lương cho thợ thấp dưới mức có thể sống được).
Theo thời gian, đạo đức kinh doanh càng trở thành một vấn đề nhận được nhiều
sự quan tâm của các nhà quản lý cũng như các luật gia. Tuy nhiên, trước thời kỳ Đại

Công nghiệp, công việc sản xuất, kinh doanh chủ yếu là hoạt động thủ công, giản
đơn có quy mô nhỏ. Mối quan hệ giữa con người với nhau trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh chủ yếu được xây đắp trên cơ sở những quy tắc đạo đức xã hội. Hành vi
đạo đức kinh doanh đồng nhất với hành vi đạo đức xã hội, hay nói cách khác, đạo
đức xã hội chính là đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chỉ bắt đầu được
nghiên cứu nghiêm túc và trở thành một môn khoa học kể từ nửa sau của thế kỷ XX
ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây. Quá trình phát triển đạo đức kinh
doanh trong thời hiện đại tại Mỹ - đại gia công nghiệp của thế giới - là nơi tập trung
nhiều nghiên cứu khoa học nhất thế giới, có thể chia làm 5 giai đoạn:
Trước năm 1960 – Kinh doanh cần đến đạo đức
Vào những năm 1920, tại nước Mỹ xuất hiện các phong trào tiến bộ đấu tranh
đòi đảm bảo cho người lao động một mức tiền công tối thiểu, mức thu nhập đủ để
đảm bảo cho việc tái sản xuất sức lao động. Bên cạnh đó vào những năm 1930, làn
sóng phê phán các công ty trong việc gây ra những hậu quả bất lợi về kinh tế và xã
hội dâng cao, các công ty được yêu cầu phải hợp tác chặt chẽ với chính phủ để cải
thiện thu nhập và phúc lợi cho dân chúng. Tới những năm 1950, trách nhiệm về môi
trường đã được nêu lên thông qua các cải cách mới và trở thành vấn đề đạo đức đối
với các doanh nghiệp. Cho đến trước những năm 1960, các vấn đề đạo đức kinh
doanh thường được thảo luận chủ yếu về mặt lý thuyết. Thông qua các tổ chức và
các hoạt động tôn giáo, các vấn đề đạo đức của cá nhân trong kinh doanh được đưa
ra bàn luận rộng rãi. Các câu hỏi được nêu ra về những vấn đề như mức tiền công
xứng đáng, điều kiện lao động hợp lý. Những người tiên phong đã biên soạn những
8


bài giảng về đạo đức cho các chương trình đào tạo về tôn giáo và nhấn mạnh các
vấn đề đạo đức trong hoạt động kinh doanh, khích lệ mọi người tiết kiệm, chăm chỉ
và nỗ lực. Những truyền thống tôn giáo như vậy đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển
tương lai của bộ môn đạo đức kinh doanh ở phương Tây.
Những năm 1960 và 1970 – Đạo đức kinh doanh trở thành một lĩnh vực khoa học

Những năm 60 của thế kỉ XX xã hội Mỹ chứng kiến tình trạng tàn phá cảnh
quan ở các khu đô thị và sự gia tăng các vấn đề sinh thái, như ô nhiễm không khí và
xả chất thải độc hại và phóng xạ ra môi trường sống. Năm 1962 tổng thống Mỹ đưa
ra Tuyên bố về Quyền của người tiêu dùng nêu rõ bốn quyền lợi mà người tiêu dùng
được bảo vệ là quyền được hưởng sự an toàn, quyền được biết, quyền được lựa
chọn, và quyền được lắng nghe. Phong trào người tiêu dùng nở rộ với việc một loạt
điều luật bảo vệ người tiêu dùng được thông qua như “Đạo luật về thực phẩm tươi
sống an toàn” (1967), “Đạo luật về kiểm soát phóng xạ an toàn” (1968), “Đạo luật
về nước sạch” (1972) và “Đạo luật về chất thải rắn độc hại” (1976).
Tới những năm 1970, đạo đức kinh doanh thực sự bắt đầu trở thành một lĩnh
vực khoa học mới. Các học giả và các nhà tư tưởng tôn giáo đều đề nghị cần áp
dụng một số nguyên tắc giáo lý nhất định đối với các hoạt động kinh doanh. Từ đó,
các trường đại học bắt đầu viết sách và giảng dạy những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khi một loạt các vấn đề đạo đức kinh doanh như
hối lộ, quảng cáo lừa gạt, thông đồng về giá hay ô nhiễm môi trường nảy sinh thì
đạo đức kinh doanh thật sự trở thành một từ ngữ phổ biến.
Những năm 1980 – Thống nhất quan điểm về đạo đức kinh doanh
Trong thời gian này các nhà nghiên cứu và thực hành đạo đức kinh doanh nhận
thấy đây thực sự là một lĩnh vực khoa học đầy triển vọng. Ngày càng có nhiều đối
tượng khác nhau quan tâm đến lĩnh vực đạo đức kinh doanh. Môn học này được đưa
vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học. Đạo đức kinh doanh cũng trở
thành chủ đề được quan tâm thường xuyên ở nhiều công ty lớn, như GE, GM,
Caterpillar,... Năm 1986, mười tám chủ thầu trong lĩnh vực quốc phòng đã cùng
nhau biên soạn “Sáng kiến về hành vi và đạo đức kinh doanh của ngành công nghiệp
quốc phòng”. Sáng kiến này có vai trò quan trọng trong việc hình thành những
chuẩn mực đạo đức và phổ biến chúng rộng rãi cho các doanh nghiệp, đồng thời đây
cũng chính là nền tảng cho những hướng dẫn soạn thảo luật đối với doanh nghiệp
của Ủy ban Lập pháp Mỹ.
9



Những năm 1990 – Thể chế hóa đạo đức kinh doanh
Chính phủ Mỹ thời kì này ủng hộ quan điểm tự kiểm soát và tự do hóa thương
mại. Chủ yếu được chú trọng là những vấn đề xã hội liên quan đến sức khỏe về các
sản phẩm thuốc lá. Bản “Hướng dẫn Lập pháp liên bang đối với công ty” được quốc
hội Mỹ thông qua năm 1991 trở thành một bước ngoặt quan trọng; lần đầu tiên đưa
ra những hình thức khuyến khích pháp lý hay đưa ra những điều khoản áp dụng hình
phạt nhất định đối với những công ty, tổ chức tìm cách tránh né trách nhiệm đối với
các hành vi sai trái, thiết lập những tiêu chuẩn đạo đức và pháp lý chặt chẽ. Cách
tiếp cận cứng nhắc bằng các quy định pháp lý có tác dụng không đủ mạnh để buộc
các doanh nghiệp từ bỏ những lợi ích trước mắt ngay cả khi hình phạt là rất nặng khi
bị phát hiện.
Từ năm 2000 cho tới nay – Sự nở rộ của đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh ngày nay càng được nhiều người quan tâm. Những vấn đề
đạo đức trong kinh doanh được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau như pháp lý,
triết học, lý luận về khoa học xã hội, khoa học quản lý,... Việc nghiên cứu về đạo
đức kinh doanh không hàm nghĩa thuần túy áp dụng hay áp đặt các quy tắc về điều
gì nên/được phép hay không nên/không được phép làm trong những hoàn cành cụ
thể, mà liên hệ một cách có hệ thống những khái niệm về trách nhiệm đạo đức với
việc ra quyết định trong một tổ chức.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa
về đạo đức kinh doanh. Theo Phillip V. Lewis, Đại học Abilene Christian, Hoa Kỳ,
trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến 1985 trên các sách giáo khoa và tạp chí có
khoảng 185 định nghĩa về đạo đức kinh doanh. Sau khi tổng hợp các điểm chung
của 185 định nghĩa, Phillip V. Lewis xác định đạo đức kinh doanh như là những quy
tắc, tiêu chí, chuẩn mực để đánh giá hành vi của chủ thể kinh doanh. Ông viết: “Đạo
đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ
để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ
chức) trong những trường hợp nhất định”. Còn Ferrels và John Fraedrich lại chú ý
đến phương diện điều chỉnh hành vi đạo đức kinh doanh đối với hành vi của chủ thể

kinh doanh. Các ông cho rằng, “Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ
bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc
đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không sẽ
được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng, các nhóm có quyền lợi liên
10


quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng” [72. 108]
Đối với Việt Nam, từ khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường, vấn đề đạo đức kinh doanh được quan tâm chú ý nhiều hơn. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức kinh doanh được thực hiện, một số giáo
trình đạo đức kinh doanh được xuất bản và đưa vào giảng dạy ở một vài trường kinh
tế. Những công trình đó đã đề cập và giải quyết nhiều khía cạnh của đạo đức kinh
doanh.
Như trình bày ở trên, đạo đức kinh doanh với tính cách là môn khoa học thì
còn mới mẻ đối với loài người. Điều này lại càng đúng với đặc điểm Việt Nam. Vì
vậy, khi bàn về khái niệm đạo đức kinh doanh, những phẩm chất, chuẩn mực của nó
hoặc sự cần thiết của đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, v.v. các
nhà nghiên cứu ở nước ta đưa ra khá nhiều quan điểm khác nhau.
Trong hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh” do Viện kinh tế đối ngoại - Bộ
thương mại (nay là Bộ Công thương) phối hợp với The ST James Ethies Centre –
Australia tổ chức năm 1995, phần nhiều các bài tham luận đều bàn tới sự tác động
của kinh tế thị trường tới đạo đức và vai trò của đạo đức trong kinh doanh hay sự
cần thiết của việc kinh doanh có đạo đức. Tham luận “Một số ý kiến về giáo dục
trong kinh doanh tại Việt Nam”, PGS. TS. Tô Xuân Dân, giảng viên đại học Kinh tế
quốc dân – Hà Nội khẳng định: “Đạo đức kinh doanh hiểu một cách đơn giản, là
những qui tắc đạo đức được vận dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh, là
những chuẩn mực chi phối hành vi của các nhà doanh nghiệp, là những giá trị mà
người kinh doanh thừa nhận và noi theo”[70. 28]. Và “ Mục đích của nhà kinh
doanh nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, không phải chỉ cho từng cá nhân mà

cho cả xã hội. Mà hạnh phúc ở đây chính là bao gồm những giá trị đạo đức, những
giá trị văn hóa của xã hội được thừa nhận và được tôn trọng”[70. 29]. Còn tham luận
“Một số ý kiến về đạo đức kinh doanh” của GS. Phạm Xuân Nam, PGĐ Trung tâm
KHXH và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện HLKHXH Việt Nam), lại chỉ ra tiêu
chuẩn hàng đầu về đạo đức của nhà doanh nghiệp là tính trung thực, theo GS: “triết
lý kinh doanh của những người có lý tưởng, có đạo đức đều mang nội dung nhân
bản sâu sắc, vì nó dựa trên một quan niệm đúng đắn về hạnh phúc cá nhân không
thể tách rời mà gắn bó mật thiết với hạnh phúc của cộng đồng. Phải chăng đó là sự
kết tinh những giá trị đạo đức trong kinh doanh”[70. 46]. Đây là những quan điểm
rất có giá trị, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đạo đức kinh doanh.
11


Gần đây các bài báo và các công trình nghiên cứu về đạo đức kinh doanh xuất
hiện ngày càng nhiều trên các báo hoặc tạp chí ở Việt Nam. Đã có nhiều giáo trình
về đạo đức kinh doanh được giảng dạy trong các trường đại học. Điều này cho thấy
đạo đức kinh doanh đang có được sự quan tâm của các doanh nghiệp và xã hội. Đa
số các bài viết hoặc các công trình nghiên cứu này được thực hiện bởi các nhà kinh
tế hoặc các nhà quản trị doanh nghiệp. Trong đó, có thể kể đến giáo trình “ Đạo đức
kinh doanh và văn hóa công ty” của PGS. TS. Nguyễn Mạnh Quân, Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2007; giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa
doanh nghiệp” của luật gia Phạm Quốc Toản, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, năm
2007; luận văn thạc sĩ triết học “Đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường”
của Lê Văn Dũng, Viện triết học, năm 1999,… Các công trình này đã có những câu
trả lời cho câu hỏi đạo đức kinh doanh là gì? đồng thời cho thấy sự phát triển của
đạo đức kinh doanh trong lịch sử và chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của đạo đức
kinh doanh. Các tác giả đã góp phần làm rõ vai trò của đạo đức kinh doanh đối với
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và nội dung đạo đức trong từng vấn đề cụ
thể của kinh doanh, như: đạo đức trong thành lập doanh nghiệp, đạo đức trong hoạt
động doanh nghiệp, đạo đức trong chấm dứt doanh nghiệp, đạo đức bán hàng, đạo

đức trong giao tiếp kinh doanh,… Với câu hỏi đạo đức kinh doanh là gì? PGS. TS.
Nguyễn Mạnh Quân có câu trả lời trong giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa
công ty” của mình như sau: “Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn
mực có tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được
những người hữu quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lí, người lao
động, đại diện cơ quan Pháp lí, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ,…) sử dụng để
phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức”[116.
18]. Như vậy, ở định nghĩa này, đạo đức kinh doanh được hiểu: là những quy tắc,
nguyên tắc hoặc các chuẩn mực được đưa ra nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên
tắc đạo đức trong quá trình kinh doanh.
Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” của GS. TS. Bùi
Xuân Phong, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2009, lại đưa ra định nghĩa:
“Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều
chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đạo
đức kinh doanh chính là đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động kinh
doanh”[106. 40]
12


Trong giáo trình “Văn hóa kinh doanh” của tác giả Dương Thị Liễu (Chủ biên),
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2009, khái niệm đạo đức kinh doanh
được khẳng định: “… là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều
chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh
doanh”[82.25].
Ngoài viêc đưa ra định nghĩa đạo đức kinh doanh, các giáo trình trên còn đề
xuất nhiều nội dung nhằm xây dựng và hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức kinh
doanh. Điển hình, giáo trình “Văn hóa kinh doanh” của tác giả Dương Thị Liễu, các
nguyên tắc chuẩn mực đạo đức kinh doanh là: tính trung thực; tôn trọng con người;
gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội; coi trọng hiệu
quả gắn với tinh thần trách nhiệm xã hội; bí mật và trung thành với các trách nhiệm

đặc biệt. Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” của tác giả
Phạm Quốc Toản, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, năm 2007, lại đặt yêu cầu
chuẩn mực trong kinh tế xã hội và đức tính cá nhân. Có bốn chuẩn mực trong kinh
tế xã hội: Chủ nghĩa tập thể; Lao động tự giác, sáng tạo; Lòng yêu nước kết hợp với
tinh thần quốc tế; Chủ nghĩa nhân đạo. Bốn đức tính cá nhân: Tính trung thực; Tính
nguyên tắc; Tính khiêm tốn; Lòng dũng cảm. Giáo trình “Môi trường kinh doanh và
đạo đức kinh doanh” do GS.TS. Ngô Đình Giao (Chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục,
năm 1997, ngoài việc khẳng định: “… chữ tín là chuẩn mực cao nhất của đạo đức
kinh doanh, mọi nhà kinh doanh Việt Nam và nước ngoài tại Việt Nam phải xây
dựng chữ tín đối với khách hàng trong nước và nước ngoài”[38. 29]; các tác giả còn
cho rằng, ở Việt Nam, với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì tiêu
chuẩn cơ bản nhất về đạo đức kinh doanh là đạo đức kinh doanh XHCN, xây dựng
đạo đức kinh doanh XHCN; từ đó, các tác giả yêu cầu: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư là đạo đức kinh doanh của người Việt Nam”[38. 29].
Tháng 12 năm 2012,Viện Triết học - Viện KHXH Việt Nam (nay là Viện
HLKHXH Việt Nam) phối hợp với Viện Triết học - Viện Khoa học Xã hội Trung
Quốc đã tổ chức hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh” có sự tham gia của các nhà
nghiên cứu đầu ngành của Trung Quốc và Việt Nam. Trong hội thảo, nhiều bài tham
luận bàn về sự tác động của kinh tế thị trường tới đạo đức, vai trò của đạo đức trong
kinh doanh và sự cần thiết của việc kinh doanh có đạo đức, đồng thời chỉ rõ thực
trạng đạo đức kinh doanh ở Trung Quốc và Việt Nam, qua đó đưa ra những giải
pháp mang tính trao đổi kinh nghiệm giữa hai nước. Với tham luận “Vấn đề chữ tín
13


trong đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay”, TS. Nguyễn Tài Đông cho rằng:
“Trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức kinh doanh, như tính trung thực, tính
sáng tạo, sự tôn trọng con người,… thì tính trung thực hay “chữ tín” đóng một vai
trò hết sức quan trọng.”[72. 102]. Theo tác giả, chữ tín của doanh nghiệp được thể
hiện dưới bốn góc độ khác nhau: một là, tạo được niềm tin đối với chính phủ, tức là

tuân thủ các chính sách, pháp quy và tiêu chuẩn có liên quan của Nhà nước; hai là,
tạo được niềm tin với khách hàng, cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao; ba
là, tạo được niềm tin với xã hội, trên cơ sở pháp luật, đưa ra một cách trung thực
những thông tin chính xác, quan tâm đến các việc công ích cũng như sự nghiệp
chung của xã hội; bốn là, tạo được niềm tin đối với người lao động, bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Còn tham luận “Đạo
đức và lợi nhuận trong kinh doanh” của PGS. TS. Nguyễn Văn Phúc lại khẳng
định: “Uy tín đạo đức của doanh nghiệp được nâng lên và trở thành một lợi thế thật
sự trong cạnh tranh, cụ thể là trong việc gọi vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, mở
rộng thị phần”[72. 193].
Thời gian qua, còn một số công trình nghiên cứu với các cách tiếp cận khác
nhau nhưng cùng chung mục đích khẳng định và xây dựng những chuẩn mực đạo
đức cho cộng đồng doanh nhân Việt Nam hiện nay. Có thể kể tới cuốn “Doanh nhân
Việt Nam – Nụ cười và nước mắt” gồm nhiều tập do Phó tổng biên tập báo Công An
Nhân Dân, Đại tá Lưu Vinh (Chủ biên), Nhà xuất bản Giao thông vận tải ấn hành,
bắt đầu từ năm 2007, trong đó các tác giả tập trung viết rất nhiều về doanh nhân
Việt Nam, những người nặng lòng với đất nước, đã đổ quá nhiều mồ hôi, công sức
và nước mắt trong cuộc đời. Qua những bài viết này, với những con người cụ thể,
các tác giả cho thấy, chìa khóa thành công đối với mỗi doanh nhân trên thương
trường chính là tính trung thực, tôn trọng chữ tín, yêu thương người lao động –
người giúp doanh nhân thực hiện được mục đích kinh doanh của mình. Bên cạnh đó,
họ cũng luôn thể hiện là những con người cần, kiệm, liêm, chính; năng động sáng
tạo; dám nghĩ dám làm; dám chịu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Có
thể nói rằng đó là những con người vừa tài vừa đức.
Cuốn “Văn hóa doanh nhân – lý luận và thực tiễn”, do Lê Lựu (Chủ biên), Nhà
xuất bản Hội nhà văn, năm 2008, là cuốn sách tập hợp rất nhiều bài viết về doanh
nhân, khái niệm doanh nhân và các doanh nhân Việt Nam trong lịch sử. Các tác giả
thể hiện sự đề cao những đóng góp to lớn của doanh nhân Việt Nam đối với sự phát
14



triển của đất nước và vai trò của họ trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay. Qua bài viết của mình, các tác giả ít nhiều cho thấy, kinh doanh có đạo
đức như là bí quyết thành công trong sự nghiệp làm giàu của mỗi doanh nhân.
Ngoài ra còn có cuốn “Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” của GS.
TS. Nguyễn Thị Doan và TS. Đỗ Minh Cương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
năm 1999. Trong cuốn này, các tác giả đã tập trung phân tích và nhấn mạnh vai trò
không thể thiếu của triết lý kinh doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp. Theo
các tác giả, dựa trên những triết lý kinh doanh cụ thể, các chủ thể kinh doanh sẽ lựa
chọn những cách thức kinh doanh phù hợp. Triết lý kinh doanh không tách rời đạo
đức kinh doanh mà trái lại nó bao hàm, gắn bó chặt chẽ với đạo đức kinh doanh. Vì
thế, kinh doanh có đạo đức như là một bí quyết để nhà kinh doanh có thể tồn tại và
phát triển một cách bền vững.
Những công trình kể trên, với cách tiếp cận và giải quyết những khía cạnh khác
nhau của đạo đức kinh doanh, nhưng tất cả đều đi đến khẳng định tính tất yếu của sự
tồn tại đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay trên cơ sở làm rõ vai trò của nó đối
với hoạt động sản xuất, kinh doanh và đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Giáo
trình “Văn hóa kinh doanh” của tác giả Dương Thị Liễu (Chủ biên) là một điển
hình. Trong đó các tác giả khẳng định vai trò rất quan trọng của đạo đức kinh doanh,
thể hiện qua mấy nội dung: đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các
chủ thể kinh doanh; đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp;
đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên; đạo đức
kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng; đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra
lợi nhuận cho doanh nghiệp; đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của
nền kinh tế quốc gia.
Rõ ràng, việc xây dựng đạo đức kinh doanh phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội nước ta hiện nay đang là một nhu cầu cấp thiết để hoạt động sản xuất, kinh
doanh không chỉ thuần túy là hành vi kinh tế (hành vi thị trường) mà còn là hành vi
đạo đức.
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng đạo đức kinh doanh và xây dựng

đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay
Ở nước ta, thời gian qua, có tương đối nhiều công trình nghiên cứu sự biến đổi
của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường theo những cách tiếp cận khác nhau.
Nhìn ở góc độ đạo đức nói chung, các công trình này đề cập tới nhiều vấn đề, như
15


sự tác động của nền kinh tế thị trường với đạo đức, mối quan hệ giữa đạo đức với
kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường, vấn đề xây dựng đạo đức mới trong nền
kinh tế thị trường,… Tuy nhiên, đạo đức kinh doanh cũng chỉ là đạo đức nói chung
đó được vận dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh, bởi vậy những vấn đề vừa nêu
cũng là vấn đề gắn liền hoặc ít nhiều liên quan với đạo đức trong kinh doanh.
Trong các công trình đó, các tác giả của nó thực sự lo lắng cho sự “xuống cấp”
của đạo đức trong nền kinh tế thị trường. Có thể thấy điều này qua các bài: “Cơ chế
thị trường và những điều cần báo động”, Tạp chí Cộng sản số 10-1990 của tác giả
Vũ Hiền; “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá trị khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học số 1-1995 của tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn; “Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta chuyển sang nền kinh
tế thị trường”, Tạp chí Triết học số 1-1995 của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Bàn về
sự định hướng giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết
học số 1-1995 của Lê Đức Phúc; “Tệ nạn xã hội – nỗi lo không của riêng ai”, Tạp
chí Cộng sản số 2-1996 của Nguyễn Thị Hằng,… Ở những bài viết này, các tác giả
đã chỉ ra sự biến động phức tạp trong đời sống xã hội Việt Nam khi bước vào nền
kinh tế thị trường. Cụ thể là: các giá trị truyền thống đang có biến đổi đa dạng,
những giá trị mới xuất hiện và ngày càng có ảnh hưởng rõ rệt trong đời sống xã hội
cùng với những phản giá trị đang có chiều hướng gia tăng; những suy nghĩ về các
chuẩn mực, các giá trị và cả “những điều cần báo động” đang đặt ra, đòi hỏi phải có
sự nhìn nhận thấu đáo, sự đánh giá nghiêm túc…
Công trình “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội” của tác giả Trường Lưu (Chủ
biên) do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998, các tác giả lại tập trung

bàn về nhiều vấn đề, như: Mấy yếu tố nền tảng của văn hóa đạo đức; Mấy vấn đề cơ
bản về văn hóa đạo đức hiện nay; Văn hóa đạo đức qua một số lĩnh vực hoạt động…
Qua đó, các tác giả đã thể hiện được cách nhìn nhận về vai trò của văn hóa đạo đức
trong sự tiến bộ xã hội và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ở nước ta sau những
năm thực hiện công cuộc đổi mới.
GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn với bài viết “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, đăng
trong Tạp chí Triết học số 9-2001, cho rằng, tất cả những biến động trong lĩnh vực
đạo đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong nền kinh tế xã hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
16


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Những biến động đó tuy là khó tránh khỏi nhưng
chúng sẽ giảm tác hại đi rất nhiều nếu Đảng và Nhà nước kịp thời có những đối sách
thích hợp.
Một số công trình nghiên cứu như: “Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế và đạo
đức trong việc định hướng giá trị đạo đức hiện nay” của GS. TS. Nguyễn Ngọc
Long, đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 2-1995; “Mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của
PGS. TS. Phạm Văn Đức, đăng trong Tạp chí Triết học, số 1-2002; “Vấn đề xây
dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” của TS. Đỗ Lan Hiền,
đăng trong Tạp chí Triết học, số 4-2002;… với các góc độ khác nhau, đã góp phần
quan trọng luận giải mối quan hệ và những tác động qua lại giữa đạo đức và kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, nền kinh tế thị trường
được coi là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những biến đổi quan
trọng về mặt đạo đức. Ngược lại, đạo đức cũng thể hiện tác động to lớn của nó đối
với sự phát triển xã hội, trong đó có đời sống kinh tế.
Công trình “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” của tập thể tác giả do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng

chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2003, đã phân tích những biến
động trong lĩnh vực đạo đức do sự tác động của nền kinh tế thị trường (cả tích cực
lẫn tiêu cực). Công trình cũng đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực
tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề xuất và phân tích những giải
pháp nhằm xây dựng đạo đức vừa như là mục tiêu, vừa như là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.
Công trình của Viện Khoa học xã hội Việt Nam “Đạo đức xã hội ở nước ta
hiện nay – Vấn đề và giải pháp” do GS. VS. Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm (với sự
tham gia của các nhà khoa học có uy tín lớn như: GS. Nguyễn Đức Bình, GS. Vũ
Khiêu, GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, GS. TS. Hoàng Chí Bảo,…) là công trình tiêu
biểu về nghiên cứu đạo đức sau 20 năm đổi mới. Trên cơ sở phân tích, mổ xẻ hiện
thực cuộc sống trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công
trình nghiên cứu đã phác họa một cách trung thực và khá toàn diện toàn cảnh bộ mặt
đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực với
những số liệu điều tra xã hội phong phú, thuyết phục, làm hiện rõ thực trạng đạo đức
17


cán bộ, đảng viên, công chức, thanh niên, đạo đức trong lao động, giao tiếp và đạo
đức trong gia đình. Từ đó, các nhà khoa học chỉ ra nguyên nhân suy thoái đạo đức
trong xã hội: “Ngoài những nguyên nhân khách quan, sâu xa, trực tiếp cần phải
nhận diện những nguyên nhân chủ quan thuộc về chúng ta, từ lãnh đạo, quản lý,
giáo dục và tổ chức đời sống xã hội. Nhóm nguyên nhân này đã và đang trực tiếp
dẫn tới sự suy thoái đạo đức xã hội”[141. 264].
Công trình nghiên cứu “Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải
pháp” của hai tác giả Lê Quý Đức và Hoàng Chí Bảo do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Viện văn hóa ấn hành năm 2007, lại đề cập tới nhiều vấn đề về văn hóa
đạo đức như là những vấn đề thời sự cần được xem xét giải quyết một cách khoa
học nhằm xây dựng một môi trường xã hội thực sự văn minh đóng vai trò cơ sở cho
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về đạo đức, công trình này đưa ra những
vấn đề chung, phân tích một cách toàn diện và sâu sắc những tác động của nền kinh

tế thị trường, từ đó chỉ rõ nguyên nhân của những tiêu cực thể hiện sự “trượt dốc”
trong lĩnh vực đạo đức. Biểu hiện của sự “trượt dốc” của đạo đức trong kinh doanh
là những vụ việc các doanh nghiệp vi phạm về pháp luật, như làm hàng giả, hàng
kém chất lượng, trốn thuế, buôn lậu, lừa dối khách hàng, lừa dối người lao động, xả
thải độc hại không xử lí ra môi trường,… Đây cũng chính là thực trạng văn hóa đạo
đức của nước ta hiện nay.
Tại hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh”, tháng 12 năm 2012, do Viện Triết học
Việt Nam và Viện Triết học Trung Quốc phối hợp tổ chức, GS. TS. Nguyễn Trọng
Chuẩn với tham luận “Lợi ích và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay”, đã phân tích và cảnh báo một cách nghiêm túc về thực trạng trong
kinh doanh thời gian vừa qua. Tác giả nhận định, một số người chỉ vì lợi ích trước
mắt, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm tạo thành các đường dây móc ngoặc chằng chịt
với nhau đang tác động rất tiêu cực đến sự phát triển, nhất là phát triển bên vững,
của đất nước; môi trường tự nhiên bị tàn phá hết sức nặng nề; một số cá nhân, một
số nhóm lợi ích giàu lên nhanh chóng một cách bất minh, phi pháp và vô đạo đức.
Tác giả cho rằng: “Sự giàu có đó của họ được đánh đổi bằng sự thiệt thòi, sự mất
nguồn sống và cả kế sinh nhai của không ít nông dân bị mất ruộng đất; bằng việc ép
buộc người dân phải di dời khỏi quê cha đất tổ đi nơi khác (nhất là đồng bào các dân
tộc thiểu số và vùng sâu vùng xa) để cho các công ty, tập đoàn công nghiệp xây
dựng thủy điện, xây dựng nhà máy, trồng cây công nghiệp, v.v. mà người dân không
18


được bồi thường tương xứng như luật pháp đã quy định và như người dân đáng
được hưởng, trong khi môi trường tự nhiên bị phá hoại hết sức nghiêm trọng”[72.
89]. Trong tham luận “Đạo đức kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
Việt Nam”, PGS. TS. Phạm Văn Đức khẳng định: “... vấn đề nổi cộm nhất của đạo
đức kinh doanh trong xã hội Việt Nam là vấn đề thiếu chữ tín” [72. 114]
Trong các công trình trên, những biến động về giá trị và chuẩn mực đạo đức
được khảo sát trong quan hệ với kinh tế thị thường. Theo đó, những giá trị, những

chuẩn mực đạo đức truyền thống như: Chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, đức tính
cần cù, tiết kiệm,… đã và đang có sự đổi mới, mở rộng nội dung để đáp ứng yêu cầu
của kinh tế thị trường. Một số giá trị và chuẩn mực mới xuất hiện và phát huy tác
dụng; có thể kể đến, tính thực tế, tính hiệu quả trong lao động, khát vọng làm giàu,
tinh thần cạnh tranh,… Đồng thời, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền,
sự sùng ngoại và xem thường các giá trị truyền thống,… Những biến động đó cho
thấy tính hai mặt trong tác động của kinh tế thị trường. Vì thế, trong công tác xây
dựng đạo đức hiện nay, cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, việc giải
quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc
và quốc tế, giữa xây và chống là rất quan trọng.
Nhiều tác giả lại đề cập tới đạo đức kinh doanh qua phương diện văn hóa kinh
doanh. Có thể kể tới cuốn “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh” của TS. Đỗ
Minh Cương do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2001; “Tinh thần
doanh nghiệp – giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh Việt Nam”, tác giả Trần
Quốc Dân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2003; Luận án tiến sĩ kinh tế (năm
2004) “Vai trò của văn hóa kinh doanh quốc tế và vấn đề được xây dựng văn hóa
kinh doanh ở Việt Nam” của Nguyễn Hoàng Ánh; “Văn hóa kinh doanh trong các
doanh nghiệp ở Hà Nội” đề tài nghiên cứu khoa học – Bộ giáo dục và đào tạo, năm
2004, do PGS. TS. Dương Thị Liễu làm chủ biên,… Những công trình này cho thấy,
đạo đức kinh doanh là một trong những yếu tố cấu thành của văn bản kinh doanh.
Các tác giả đã góp phần làm rõ những kiến thức chung về đạo đức kinh doanh; mối
quan hệ của đạo đức kinh doanh với kinh tế thị trường; vai trò của đạo đức kinh
doanh trong sự phát triển của hoạt động kinh doanh và sự phát triển của xã hội;…
qua việc phân tích làm rõ những vấn đề lý luận văn hóa kinh doanh.
Có thể thấy rằng, trong tất cả các công trình trên, tác động của kinh tế thị
trường đối với đạo đức được phân tích cả trên bình diện xã hội và cả trên bình diện
19



×