Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.04 KB, 36 trang )

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài 1:
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời
9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm
thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng
viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm
thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân
yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
1. Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi
nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết
sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi"
cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi
rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến - một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại
vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La - biên giới Việt Lào
trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng
sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về,
bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường Lát... những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu
chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù,
lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng
gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi"
giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị
"lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất
hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu
thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người


lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách:
"Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc
khuỷu", "thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút".
Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can
trường như chặn bước tiến của đoàn quân:


"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng
như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc,
những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày:
"áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một
hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của
người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người
chiến sĩ Tây Tiến được "đo" bằng: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống".
Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù
sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến binh
dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện.
Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh
thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về
xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy?
Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu",

trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã
"không bước nữa", vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn
bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể
hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành
quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù
Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa",
"gục lên"..., "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót xa, thương tiếc. Sự
thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói
đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương, mà trái lại,
trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết
bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt
"gục lên súng mũ..." như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có
mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự
ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối
chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp
trêu người". Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông
đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn
dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì


"gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các chiến binh
Tây Tiến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của
tình quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em
thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp
xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của
"mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía

và ngọt ngào:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
2. Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những
chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ
tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những
chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là
đại từ để trỏ từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng,
sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái
phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính
trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn
"man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương "xây hồn thơ". Có dáng điệu
duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa rừng" đang múa xòe, đang
múa lăm-vông:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ
những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn
ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca
Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con
thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng
người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng
nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người
lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ
mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn
thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ,
chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ



Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong
gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan và yêu
đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự
cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời
lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
3. Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về
đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồn rừng đi trong biển sương mù, trong những
cồn mây, trong màn mưa, vượt qua bao nhiều núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo
vải chân không đi lùng giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến
tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống
lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để
khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ
tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm
đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai
hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh
Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ Lão), "Tỳ hổ ba quân Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ
vuốt nanh" (Nguyễn Trãi),... Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh
bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm

liệt vô song: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Trải qua những năm dài chiến
đấu ác liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng
đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một
cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như
vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh
viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa
trắng nợ anh hùng..." ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".


Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt
trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung
hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những
người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa,
mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của
người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu,
thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về
giếng nước gốc đa... Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của
Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
... "Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ,
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"...
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân,
hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều

biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ
qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong
phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân
tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu
của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ
quốc hay là chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng
lay động lòng người:
"Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với "áo
bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ
thời xưa, các anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng Mẹ - Tổ
quốc thân yêu. Các anh đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất"


rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội
lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt
sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một
lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một
không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ "rải rác biên
cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang,
càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu
vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin
mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên
đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với
những đồng đội dã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên

cương Việt - Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang
chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình
sông núi", với quyết tâm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp
con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vừng sơn hà xã tắc. Họ
đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã
sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả "đời xanh" hiến
dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự
hào!
Sau này trong bài thơ "Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của
những đứa con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:
... "Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ
Gặp nghìn nấm mộ
Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!
Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng
Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ
Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.
Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê-kông
Nén hương thơm lẫn với hương rừng
Những cô gái Lào đến thăm phần mộ
Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm-vông...".


Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam,
trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả
cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí
Minh!
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng
rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh),
đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất
khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất
sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó
"Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng
hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm
điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay
không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo Cả" của Hữu
Loan, là "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng chí" của Chính Hữu, "Tây Tiến" của
Quang Dũng, và...
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng
bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người
hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long - Hà Nội, của dân tộc Việt Nam
anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng
mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang
trong đoàn binh Tây Tiến.


Bài 2:
Tôi đã được nghe nhiều về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nhưng gần đây
mới được thưởng thức trọn vẹn cả bài thơ. Và tự như một thỏi nam châm bằng
chất nhạc kỳ diệu, bằng hòa khí cách mạng sôi nổi…Tây Tiến đã cuốn hút tôi
một cách khác thường.
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính
với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của

Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí
lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của
dân tộc.
Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đốt xuất mà vẫn là sự tiếp tục
của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và
rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc
nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện
theo cách riêng đặc đắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ
đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm
tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm
hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.
Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh
mông.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ
ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi
nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn
sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữ, nỗi nhớ
như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới
xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm
giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.
Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ,
khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên
với bao kỷ niệm chống chất, ào ạt xô tới:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ
chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cải mệt



mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất
thơ, dường như huyền thoại:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là
đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy
hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn
quân dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ
hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như
hồn người, khác với:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân
đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi
trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại
là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu
toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.
Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là vần bằng,
chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.
Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc
được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng
đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét,
màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la,
hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi” k không thể nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu

hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng
đúng như vậy.
Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là
một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ
tinh tế củ tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau
núi phất phơ đơn sơ bất chợt, rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong
ta một nỗi niềm bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp:


Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nên
thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự
đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian
khổ không gì khuất phục nổi.
Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần
ngại nói đến cái chết:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng
rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng
cũng rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa
quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương
gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót
thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm
nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở
câu trên. “Cọp trêu người” – có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính.

Trong trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng cũng có những câu
nói về gian truân, nguy hiểm mà người lính phải gánh chịu:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.
Nhưng không mạnh mẽ bằng Tây Tiến.
Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm nên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé
trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương


thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em – cô
gái Mai Châu.
Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy,
mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh
mwois mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.
Tác giả chuyển mạch cảm xúc rất tự nhiên, nói những kỷ niệm đẹp trong cuộc
sống với cảnh, người, tình quân dân đầm ấm, khó quên:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
“Hội đuốc hoa”, “xiêm áo” gợi cái gì về đếm cưới ngày xưa và có vẻ “e ấp” của
“nàng” làm cho câu thơ thêm gợi cảm. Câu thơ lâng lâng, dìu dặt như tiếng
khèn đưa người về một nơi rất xa.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Câu thơ có tính chất hư ảo, hình ảnh hoa lau gợi nhớ đến bài thơ Lau mùa thu
của Chế Lan Viên:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
Quang Dũng không chỉ là một người tài hoa mà còn rất hào hoa khi ông viết:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Câu thơ: “Có nhớ dáng người trên độc mộc” rất giàu chất tạo hình. Nhà thơ yêu
đất nước, yêu đến từng dòng suối, dáng người, cánh hoa. Nếu không có chất thơ
ấy cuộc đời sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, có chất thơ ấy gian khổ sẽ trở thành hào
hùng.
Khổ thứ tư, tác giả trở lại với những gian khổ hy sinh của người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Đọc những câu thơ này tưởng như ứa nuwocs mắt vì thương cảm. Những người
lính bị sốt rét rụng hết cả tóc, người “xanh tàu lá”. Và những nguwoif lính dũng
mãnh ấy, tâm hồn cũng thật dịu hiền và lãng mạn:


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Nhà thơ dùng từ rất tài hoa “kiều thơm” để chỉ những cô gái đẹp của Hà Nội.
Giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt, nếu người lính không biết mơ
mộng, thi vị hóa cuộc sống về mục đích cao xa hơn thì sẽ gục ngã trong hiện
thực đầy khắc nghiệt ấy. Chất men lãng mạn, vượt lên trên hoàn cảnh. Do vậy,
dù miêu tả rất đậm sự gian khổ, khốc liệt của chiến trường, của người lính chinh
chiến mà bài thơ không đượm chút sắc bi quan, u ám nào khiến con người run
sợ, nản lòng.
Hơn một lần trong bài thơ tác giả nói về cái chết:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Với lòng yêu nước nồng nàn, cả một thế hệ người con ưu tú của dân tộc đã ra đi
bảo vệ Tổ quốc. Không phải họ không biết đến những hy sinh, mất mát nhưng
vẫn vui vẻ ra đi, không tính toán hơn thiệt mặc dù mắt vẫn nhìn thấy những
nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương”. Lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã
truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất ngang tàng anh hùng và cả chất men
say lãng mạn đáng yêu nữa, ngay cả khi đối mặt với cái chết cũng phảng phất
nét nghệ sỹ tài tử, anh hùng hảo hán thời xưa, coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”,
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái chết của người lính là cái chết bi
tráng chứ không bi lụy, mềm yếu. Đã có một thời nguwoif ta tránh nói về cái
chết, về những mất mát. Nhưng có chiến thắng nào mà không trả giá bằng máu
và nước mắt. Và “không có gì cao cả hơn một nỗi đau buồn lớn (An-phrêt-đơ
Muyt-xê).
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chữ đánh và có
ba lần miêu tả cái chết, nhưng Quang Dũng nói một cách rất giản dị: “bỏ quên
đời”, “về đất”, “hồn về” để bình thường hóa cái chết. Chúng ta có nhiều bài thơ
nói về cái chết của người lính như Nấm mồ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu:
Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chắn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười.
…Hùng nằm trong nôi của đất rộng còn nhiều nữa nhưng chưa bài nào sánh nổi
Tây Tiến. Quang Dũng chỉ bằng vài dòng thơ đã khắc họa thật sâu và xúc động
về cái chết vừa bi thiết vừa hùng tráng, mà xiết bao cao cả của người chiến sỹ.
Để tiễn đưa người lính vô danh ra đi tác giả không cần một lời ngợi ca, cũng
không cần một giọt nước mắt xót thương. Ông chỉ để cho trời đất chứng giám
và thu nhận thể xác linh hồn người lính vào lòng. Nhưng những người lính ấy

không hề chết, mà còn sống mãi trong lòng chúng ta:


Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Những người lính hiểu rằng cuộc chiến đấu còn dài có thể họ sẽ ngã xuống vì
Tổ quốc “đi không hẹn ước”. Con đường trở về không biết đến bao giờ nhưng
người lính không buồn nản. Điều đó biểu hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Họ ra đi mang theo cả nỗi nhớ của người ở lại.
Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá
của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về
“những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là
“một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng
cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra
đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách
thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.
(Bài của Vũ Thị Thu Hương – Học sinh trường THPT Công Nghiệp A – Hà
Tây)
•Nhận xét:
Có năng lực cảm thụ thơ rất tốt nên đã phân tích được một cách sâu sắc tình
cảm và những cảm hứng thẩm mỹ của Quang Dũng đối với những người lính
Tây Tiến.
Biết tập trung vào những hình ảnh đặc sắc, những ý thơ độc đáo, những ngôn từ
thơ xuất thần để làm nổi bật chủ đề, không dàn trải, tham lam. Giọng điệu bài
văn thích hợp với chất (phong cách) thơ Quang Dũng: Sôi nổi, lắng đọng, xúc
động, hào hứng.
BÀI LÀM 2:
“Có một bài ca không bao giờ quên…”

Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không
phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là
những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc bước vào cuộc
kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực, niềm say mê. Chúng ta vừa qua nạn
đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn
đói năm 45 vẫn còn, rất đậm, trong mỗi người Việt Nam. Tự do hay trở về cuộc
đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những
người nông dân, công nhân, học sinh, những người mẹ, người chị tham gia
kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.


Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại
trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với
hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sỹ cụ Hồ. Bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng cũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn
vị. Nhưng những ngày tháng sống và chiến đấu ở đoàn quân Tây Tiến là những
kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả.
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ
niệm những đêm liên hoan, về cái âm u hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là
nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội. Quang Dũng cũng
như đồng đội tác giả trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã
xa mà lại gần, để khi trở lại, tác giả phải bật lên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng với âm hưởng của vần ơi, tạo nên
xúc cảm lớn. Hành ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng dến đoàn
quân Tây Tiến? Không! Đó là tiếng long của tác giả “Xa rồi Tây Tiến ơi”
nhưng tấm lòng thì vẫn thiết tha lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho
tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Người đọc

rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi!” Hình như trong ca dao ta cũng
bắt gặp:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt đã diễn tả bằng
lời. Nỗi nhớ ấy bao la, bát ngát lại có chiều sâu. Nói muốn tràn ra khỏi không
gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ
ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với
tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý. Cũng sử
dụng vần “ơi!” câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi
vơi” của tác giả.
Thông thương thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những
kỷ niệm đẹp để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về
rừng núi.
Nhớ về rừng núi…


Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu.
Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nối buồn của người chiến sỹ. Hơn
ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian
khổ mà mình đã từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải điều nhà thơ chú trọng phác họa nhưng
trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng

có những câu thơ:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.
Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế. Quang
Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh
đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy
đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông” rừng núi
như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân
Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng
chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh rừng núi càng xa lạ, đáng sợ
hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong
cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc
hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng
sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng
xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân
Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại
vút lên bởi một câu vần bằng:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi. hơi.
Câu thơ ấy đã xóa đi cái mệt mỏi của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp
bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:


Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.

Câu thơ với “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn
quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo
tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy. “Súng ngửi
trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi lên một không khí vắng vẻ, hoang sơ
của rừng núi, súng ngửi trời cộng thêm vào cái vẻ đơn độc của người lính giữa
đèo cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi câu thơ vần bằng
tiếp sau:
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.
Cứ như thế, những câu thơ vần bằng xen giữa những câu thơ vần trắc, âm
hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng
với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà
hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi, của thiên nhiên hoang sơ.
Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống như
thế nào nhỉ?
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịc cọp trêu người.
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân
Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan
mà chỉ để ngợi ca người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính bằng
ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã
nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Nhưng anh hùng làm sao, những con người ngã xuống ấy! Người lính không
chịu nỗi khổ hy sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người
chiến sỹ:
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi
người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắc là hình ảnh “gục lên súng
mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:


Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng
chiến chống Mỹ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ
không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của
những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và
cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Những khó khăn lại đến:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Hình như ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa
danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên
rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân,
thiên nhiên là chủ thì khó khăn cũng như tăng lên gấp bội. Nhưng nét lạc quan,
vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Quang Dũng lại nhớ về những kỷ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu
thơ như có gì náo nức, rộn rã:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Nguwoif đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau
những kỷ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm vui tươi của
những chàng trai thanh niên Hà Nội xúng xính giả làm con gái cùng tiếng nhạc
và vẻ e ấp giả vờ, câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa
mang nụ cười thoải mái của người chiến sỹ. Những kỷ niệm vui đó hẳn sẽ
không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang
Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng
mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên
độc mộc vào một buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước
lũ…tất cả đi vào nhẹ nhàng ch cho cả đoạn thơ.


Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây
Tiến vẫn còn nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng đọng
nhất vẫn là nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh
của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt của tác giả:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi
“Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc
phải. sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa, đến nỗi da
xanh xao “màu lá”.
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính, khi Quang Dũng nói về điều
này, tác giả muốn nói cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ
sống và chiến đấu với cả gian khổ, cả bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn

người lính vẫn:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Nét dữ tợn của người chiến sỹ Tây Tiến ở đây không làm nhạt tí nào hình ảnh
người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sỹ
yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của
“đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá” giúp cho câu thơ trên
tiếp tục:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và
cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với
hình ảnh quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa
mang nét lãng mạn của người chiến sỹ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính
“trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ
quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi
người. Nhưng người lính không đánh mất đi nét đẹp tâm hồn: sự mộng mơ. Hai
câu thơ trên có thời đã bị đem ra chỉ trích cùng với bài thơ đó là buồn rớt, bi
quan, là tiểu tư sản. Đành rằng câu thơ có thoáng nét buồn cũng như bài thơ có
thoảng những nét buồn: nhưng buồn ở đây đâu có làm mất đi quyết tâm của
người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hòa


mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sỹ một cách sâu sắc. (Đây là
điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã
quên đi hay cố tình quên đi). Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích
của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người
lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã
tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sỹ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì
thế lãng mạn mà rất hào hùng!
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao

người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm, bệnh
tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Câu thơ đọc lên mà sao thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua
lại, chẳng bao giờ trở về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã
xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái
lạnh khi những người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh
lẽo của rừng núi, gợi lên sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm
xuống, xoáy vào lòng ta một nỗi buồn không thể thốt lên lời, ta tưởng chừng
như câu thơ sau không thể cất lên nổi, nhưng ngược lại:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ nhẹ nhàng như không hề mang chút gì bi thảm của những nấm mồ viễn
xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi” câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không
khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tang, chút thanh thản của người lính
Tây Tiến “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên trí thức Hà
Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lý tưởng chiến đấu, người lính biết rằng
họ còn trẻ, họ chiến đấu có thể bị hy sinh. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ.
Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn tuổi trẻ họ còn có tự
do, quê hương. Con người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng của họ. Đó là lý
tưởng tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ
nhàng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi
nhưng anh ra đi là do lẽ sống của mình mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ
nhàng như “về đất” ngoài ý nghĩa làm giảm sự đau thương? Quang Dũng không
muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người
lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính
là lý do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây
Tiến. Quang Dũng muốn nói rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê

hương thì sự ra đi của họ cũng nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như


người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sỹ ngự trong vòng
tay mẹ. Như vậy anh hy sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ.
Câu thơ vì thế mất đi sự bi thảm vốn có. Anh chiến sỹ chết đi, quê hương ôm
anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Không hề có tiếng khóc, giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ
chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hòa vào sông, hòa vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong
tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng
Quang Dũng và mỗi chúng ta:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu
trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những
tác phẩm đã gặp nhiều lần mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt
gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến!
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sang với cả hào khí dân tộc.

Bài 3:
Quang Dũng ( 1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng , hồn
hậu , lãng mạn và tài hoa . “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể
hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng . Có thể nói , tinh hoa của bài thơ
được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên . Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ , mĩ lệ của núi rừng miền Tây , nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây
Tiến đã từng hoạt động , chiến đấu .

Thật dữ dằn và thật thi vị, thật dễ sợ cũng thật dễ quyến, đanh sắc đến gay gắt
lại dịu dàng đến "mềm lòng". Đó là hai cực cảm giác khi đọc "Tây Tiến". Đối
chọi mà không xung khắc, nó là hai hiện thực của cuộc "vạn lý trường chinh"
Tây Tiến đựơc cảm nhận bởi một hồn thơ mạnh mẽ và tài hoa. Nó song hành
trong bài thơ tựa như hai "bè" không tách nhau được, như hai mặt trong cốt
cách người Tây Tiến: Hào hùng và Hào hoa.
Qui mô không lớn, nhưng tính chất đúng là như vậy.


Quả là cảm nhận "Tây Tiến" chẳng nên tách rời thời đại của những "Tống biệt
hành", "Can trường hành" (Thâm Tâm), của những "Ngày về" (Chính Hữu). Ra
đời không cùng năm cùng tháng, nhưng hoài thai cùng lúc, cùng tạng – Cái tạng
của chí "trai thời loạn" của "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", và cái
quan niệm "gian nan là nợ anh hùng phải vay" (nó không hoàn toàn là cái "yêng
hùng rớt" từng bị coi thường một thời). Nếu "Tống biệt hành" là chuyện vượt
lên những cản trở, vướng bận gia đình, thì "Tây Tiến" là chí anh hùng đương
đầu với những gian nan trong hành binh trận mạc.
Một cuộc hành binh dài ngày vào nơi rừng rú núi non hiểm trở để lại trong
Quang Dũng biết bao ấn tượng. Hiện lên trước tiên khi Nhớ Tây Tiến là hình
ảnh rừng núi chơi vơi, ẩn hiện sau sương dày, rừng rậm núi cao là một đoàn
quân mỏi, nhưng tâm hồn vẫn tươi, vẫn tình tứ. Khổ thơ đầu có thể coi là cái
nhìn toàn cảnh, là ấn tượng bao trùm, ít nhiều có màu sắc điện ảnh trong các
hình ảnh thơ.
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Rồi biết bao những gian nan thử thách đang đón chờ binh đoàn Tây Tiến bất cứ
lúc nào cũng có thể làm họ nản chí. Đó là cái hiểm trở của lộ trình – "Dốc lên
khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Đó là oai linh của rừng thiêng nước độc – "Chiều

chiều oai linh thác gầm théc". Đó là sự rình mò của thú dữ – "Đêm đêm Mường
Hịch cọp trêu người.".Đó là sự dãi dầu thân xác – "Anh bạn dãi dầu không bước
nữa." Đó là bệnh tật, bệnh nơi lam sơn chướng khí – "Tây Tiến đoàn binh
không mọc tóc" (Vì ngã nước, sốt rét rừng). Đó là cái chết – "Rải rác biên
cương mồ viễn xứ". Đó là sự đánh đổi quãng đời xuân trẻ không bao giờ có lại.
– "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"..v..v.. Nếu không có một chí anh hùng
đủ mạnh, đoàn quân này sẽ dễ dàng tan ra, con người sẽ ngã lòng, sẽ bỏ cuộc.
Chiến sĩ Tây Tiến đương đầu, đối mặt với mọi thử thách và coi thường tất cả.
Thực tế ấy, chí khí ấy tạo nên tính bi tráng rất chân thực của "Tây Tiến":
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quyết tâm sắt đá không bị lay chuyển, người Tây Tiến chỉ một con đường một
hướng đi tới, ai nấy toàn tâm, toàn ý, đặt cả tâm hồn vào nhiệm vụ – "Ai lên
Tây Tiến mùa xuân ấy – Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai "bè" ấy phối nhau ăn ý, khăng khít, nhuần nhị suốt dọc bài thơ. Thật mệt
mỏi (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi), cũng thật nhẹ nhõm (Mường Lát hoa
về trong đêm hơi). Núi non hùng vĩ chất ngất (Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm


thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời – Ngàn thước lên cao, ngàn thước
xuống). Tầm nhìn mở rộng muôn xa (Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi). Dữ dằn
(Chiều chiều oai linh thác gầm théc…) lại cũng tình tứ (Mai Châu mùa em
thơm nếp xôi). Bên cạnh những ngày hành quân cực nhọc, **** khổ là những
đêm văn nghệ vui nhộn, lãng mạn. Có những hoạt động đó là bởi các chàng trai
Tây Tiến là sự gặp gỡ, dung hợp giữa hai “chất” ấy: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” thật dễ sợ, và cứ “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật đa tình, đa cảm.
Nét hào hoa nghệ sĩ của quân Tây Tiến còn ở sự hiện diện của hoa. Trên hành
trình gian nan, bao giờ học cũng dành tâm trí cho hoa: "Hoa về trong đêm hơi",

"hội đuốc hoa", "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". (Đây cũng là đặc điểm của
rất nhiều bài thơ Quang Dũng)
Trên cấp độ từ ngữ hình ảnh cũng thấy hai "bè" phối nhau như vậy: dữ dằn hào
hùng và lãng mạn hào hoa. Song song với những "đoàn quân mỏi", "khúc
khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", "gầm thét", "cọp trêu", "không mọc tóc", "dữ
oai hùm", "mồ viễn xứ", "gầm lên khúc độc hành"… là những "đêm hơi", "mưa
xa khơi", "cơm lên khói", "thơm nếp xôi", "hồn lau nẻo bến bờ", nhất là những
em: "Mùa em thơm nếp xôi", "em xiêm áo", "nàng e ấp", "dáng kiều thơm"…
Kết tụ thật tuyệt vời cho hai "bè" ấy trong bài thơ này phải kể đến một đoạn thơ
tả núi:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
và đoạn tả sông suối:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Người đọc có cái thú vị là giữa những ngày nặng nề, khổ ải ấy con người Tây
Tiến lại đang an nhiên trong hồn trí mà thưởng thức những bức tranh sơn thuỷ.
Trong một bài khác – bài "Pha đin", khi tả cn dốc hùng vĩ ấy với cảnh đá "như
từng đợt sóng bủa lên trời", "bên dốc chon von ngàn thước vực", y như cảnh trí
"Tây Tiến", chính Quang Dũng đã thốt lên: "Đẹp như sơn thuỷ tranh đời Tống".
Một trong những nét "ma quái" đầy hấp dẫn của "Tây Tiến" là nhạc thường là
sự chuyển hoá khi thì bất ngờ, đột ngột, khi thì mềm mại, uyển chuyển giữa một
thứ nhạc đậm đặc âm trắc, những cách bẻ đôi câu thơ, sang một nét nhạc thật
nhẹ nhàng, chơi vơi, lâng lâng. Theo nhạc thơ, người đọc vừa từ chỗ ngợp thở,



tức thở, từ cảm giác bị bưng bít sang một hơi thở phào nhẹ nhõm, mở ra một
tầm nhìn toàn cảnh, khoáng hoạt xa khơi.
Bài 4:
Mở bài:
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh
của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó
đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người
con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt
trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của
Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính
cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống
trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
“Sông Mã xa rồi TâyTiến ơi!
*****
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thân bài:
Nhắc đến nhà thơ, ko ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1
thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống
Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu
hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước
ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng cuả binh đoàn Tây
Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị
khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu
Chanh_ 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc
đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến”
vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi
nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong

lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã
làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong
kí ức cuả nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn
người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá,
câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã
từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình
ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với
bao nỗi vui_buồn, được_mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà
nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một


nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ
nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy
ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn
đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ
trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông…- địa bàn hoạt động cuả binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm
hưởng của rừng núi hoang vu và mang dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà
dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng
nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong
đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh
thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức
Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài
tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt cuả
núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế
Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận
với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà
ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến
mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ
“chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề
sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế
nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”,
“heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội
cuả núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng
rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của
người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh
người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng
nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh
quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao,

họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi


xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh
thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới
lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ
tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong
thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá
rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên
lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng
bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn
núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả
núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những
câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong
“Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội
Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở
thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người
lính Tây Tiến nói riêng và cuả những người lính nói chung.
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên
ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ.
Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn

binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn
thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc.
Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu
sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là
những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại
với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của
người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa
trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng
ngục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị
không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng
không còn sức. Câu thơ: “ngục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn
thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy
sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều
nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theocách ở trên bởi nó phù
hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang


×