Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế GIẢI QUYẾT VIỆC làm TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở TỈNH KIÊN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.41 KB, 89 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp bách của đề tài
Nguồn nhân lực là một trong hai nhân tố cơ bản của quá trình sản
xuất của cải vật chất của mọi xã hội, nếu nguồn nhân lực được quan tâm
phát triển đúng mức sẽ là nguồn tài nguyên vô giá, song nếu nguồn nhân
lực đó khơng được sử dụng tốt, việc làm không được giải quyết, nạn thất
nghiệp gia tăng, trở thành một gánh nặng, một sức ép về kinh tế, nảy sinh
tiêu cực xã hội, thậm chí gây chấn động đất nước.
Chính vì vậy mà các nhà kinh tế tư sản điển hình như John
Maynard Keynes, đưa ra "lý thuyết về việc làm" và coi việc làm là một vấn
đề trung tâm của xã hội tư sản hiện đại.
Ngày nay, việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội có
tính chất tồn cầu, là mối quan tâm của mọi quốc gia, liên quan đến đời
sống hàng tỷ người trên hành tinh chúng ta. Theo sự đánh giá của tổ chức
lao động quốc tế (ILO), thế giới đang diễn ra cuộc khủng hoảng toàn cầu về
việc làm (Global Employment Crisis) [13,22], kể cả ở các nước phát triển
cũng như các nước đang phát triển, ở nông thôn cũng như thành thị, trong
khu vực Nhà nước cũng như khu vực tư nhân. Tình hình việc làm ở nước ta
cũng gay gắt, trở thành vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng, địi hỏi Đảng và
Nhà nước cần có những chủ trương đúng đắn, biện pháp hiệu quả để giải
quyết việc làm cho người lao động trong tình hình mới.
Hơn 10 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính
sách kinh tế phù hợp, nhờ đó đất nước ta đã thốt khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội và đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng, trở thành một
nước có nền kinh tế năng động và phát triển tương đối nhanh trong khu
vực.

1



Song, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, những vấn đề xã hội
cũng nổi lên gay gắt do hậu quả của chiến tranh và chế độ thực dân mới, do
mặt trái của kinh tế thị trường gây ra như nạn thất nghiệp, phân hóa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội... Trong các vấn đề ấy thì vấn đề lao động, việc làm,
giải quyết nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề vừa có tính cấp bách
trước mắt, vừa có tính cơ bản lâu dài ở nước ta.
Giải quyết việc làm cần được hiểu theo nội dung mới là không chỉ
đơn thuần trong phạm vi chính sách xã hội và cũng khơng chỉ đơn thuần là
thanh tốn nạn thất nghiệp. Giải quyết việc làm bao gồm cả một hệ thống
vấn đề: tạo điều kiện cho công dân được giáo dục đào tạo và chuẩn bị tốt
hơn để bước vào lập thân, lập nghiệp, được hưởng quyền lợi làm việc, tự
do lao động, sáng tạo và hưởng thụ thành quả chính đáng, được bảo vệ về
quyền sở hữu trí tuệ và vật chất do mình làm ra theo đúng pháp luật, nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và cống
hiến cho cộng đồng.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện
nay, hơn lúc nào hết, nguồn nhân lực được đặt vào vị trí xứng đáng - là
nguồn lực cơ bản nhất, quyết định nhất đối với các nguồn lực khác (vốn,
khoa học - cơng nghệ, tài ngun...) Có thể nói, vấn đề khó khăn nhất hiện
nay là muốn thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải áp dụng khoa
học cơng nghệ vào nền sản xuất xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Song, điều đó đang đứng trước thách thức lớn về việc làm. Vì vậy, vấn
đề việc làm cho người lao động được đặt ra không chỉ là một yêu cầu cấp
bách, mà còn là chiến lược an toàn việc làm cho thập niên đầu thế kỷ 21,
khơng chỉ về kinh tế mà cịn là vấn đề chính trị - xã hội, là một vấn đề
trong tổng thể các vấn đề chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta,
như Bác Hồ đã dạy: "Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là mục tiêu,
là động lực của mọi cuộc cách mạng" [32,11]. Trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã nhấn mạnh "Bảo đảm công ăn, việc
2



làm cho dân là mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành
bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm, đồng thời tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm việc
và tự tạo việc làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà nước tổ
chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp" [41,99].
Tỉnh Kiên Giang là miền đất có dân số trẻ, tỷ lệ người trong tuổi lao
động cao - đây là một nguồn nhân lực hết sức quý giá của tỉnh. Song Kiên
Giang đang đứng trước thách thức là: Tốc độ tăng dân số cịn cao (2,4%)
nên bình quân mỗi năm cần giải quyết việc làm trên 30.000 lao động, số
người thất nghiệp còn lớn: 198.965 người, trong đó 88,34% ở nơng thơn,
11,65% ở thành thị, đặc biệt số người thất nghiệp trong độ tuổi từ 15 - 34
chiếm gần 70 %, trong đó lao động ở độ tuổi từ 15 - 24 chiếm 35,35% [42].
Những năm qua, Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội của tỉnh bằng
nhiều biện pháp tích cực nhằm khai thác, phát huy và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giải quyết nguồn lao động quan trọng này, từ đó đã góp phần
thực hiện có kết quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, từng
bước nâng cao đời sống cho người lao động, giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo
trong nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề lao động việc làm của tỉnh vẫn là một
trong những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, khó khăn, địi hỏi phải có sự
nghiên cứu một cách cơng phu, đầu tư thích đáng để tìm ra phương hướng
giải quyết cơ bản, lâu dài, có hiệu quả mới mong khắc phục một phần khó
khăn này.
Đó là lý do tơi chọn đề tài "Giải quyết việc làm trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Kiên Giang" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giải quyết việc làm ln là vấn đề mang tính cấp bách, thời
sự, do vậy, đã có nhiều cơng trình của nhiều tác giả trong nước và ngoài
nước nghiên cứu và cơng bố, đồng thời cũng có rất nhiều cuộc hội thảo về

3


vấn đề này. Chẳng hạn như các cơng trình của Viện khoa học lao động
thuộc Bộ Lao động - Thương binh và xã hội; các cuộc hội thảo về lao động
việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức. ở Kiên
Giang cũng có một số cơng trình như: "Dự án dân số, lao động - việc làm
tỉnh Kiên Giang thời kỳ 1996 - 2010" và đề tài "Đào tạo nghề, tạo việc làm
cho thanh niên giai đoạn 1997 - 2005 của Sở Lao động - thương binh và xã
hội tỉnh thực hiện. Tuy nhiên dưới góc độ kinh tế chính trị thì chưa có đề
tài nào trùng tên với đề tài luận án này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích đặc điểm và thực trạng về việc
làm ở Kiên Giang, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm giải quyết có
hiệu quả về việc làm nhằm ổn định phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận án thực hiện các
nhiệm vụ


Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản xung quanh lao

động, việc làm, thất nghiệp.


Phân tích thực trạng và những vấn đề bức xúc đặt ra đối với

vấn đề giải quyết việc làm ở Kiên Giang.


Trên cơ sở phân tích, đề xuất phương hướng, giải pháp để giải


quyết có hiệu quả vấn đề việc làm của tỉnh.
4. Đối tượng, giới hạn
Luận án nghiên cứu vấn đề việc làm trong một số ngành kinh tế dịch vụ cơ bản, trong độ tuổi lao động của tỉnh Kiên Giang, chủ yếu trong
thời kỳ đổi mới kinh tế đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu

4


Việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp kinh tế chính trị, phương pháp thống kê, sơ đồ, so sánh, khái
quát để phân tích làm rõ nội dung chủ đề định ra; Đồng thời khảo sát thực
tế, sưu tập tư liệu, số liệu, tình hình về lao động việc làm từ các cơ quan
nghiên cứu, quản lý như: UBND, Sở Lao động - thương binh và xã hội,
Cục thống kê, tỉnh Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Cơng an tỉnh... kết hợp tranh
thủ ý kiến của các "chuyên gia" trong lĩnh vực này.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LÀM Ở KIÊN GIANG

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM


Lao động, việc làm, thất nghiệp ngày càng khơng cịn giới hạn của
mỗi nước mà là vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm hiện nay của các nước. Bởi
lẽ một nước mà lao động thiếu việc làm, thất nghiệp không chỉ gây ảnh
hưởng tiêu cực cho nước đó, mà cịn gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều
nước khác. Thế giới cho rằng vấn đề dân số, lao động, việc làm là một
trong những vấn đề kinh tế xã hội phức tạp và gay gắt trên phạm vi tồn thế
giới. Vì nó vừa là nền tảng, và là chủ thể, vừa là lực lượng sản xuất hàng
đầu của xã hội, vừa là người tiêu dùng của cải vật chất do lao động làm ra.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy: dân số, lao động và
việc làm là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng mô hình kinh
tế - xã hội, là nhân tố quan trọng cho sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội,
bản thân nó vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề chính
trị - văn hóa.
Một trong những ngun nhân cơ bản trực tiếp của những hiện
tượng tiêu cực đang lan tràn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay ở các
nước trên thế giới là tình trạng thất nghiệp đang trầm trọng. Những người
thất nghiệp đó họ khơng có nguồn thu nhập chính đáng bằng lao động của
mình nên tự phát tham gia vào quá trình "phân phối lại" số của cải vật chất
của xã hội bằng mọi con đường, dưới mọi hình thức, thậm chí có một bộ
phận bị tha hóa nghiêm trọng, họ rơi vào tận đáy xã hội - đó là số tội phạm,
gái mãi dâm...

6


Chính vì vậy, khơng thể nói đến yếu tố con người là vấn đề quý
nhất của xã hội một cách trừu tượng, siêu thực, mà con người là vốn quý
nhất - xét cả về phương diện sản xuất, chỉ trong sự phù hợp với những nhu
cầu về nó của sự phát triển nền kinh tế. Sự mất cân đối giữa số cung và cầu

về lao động tới một giới hạn nào đó là sự nguy hại cho sự phát triển bình
thường của một quốc gia dân tộc.
Theo đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO), thế giới ngày
nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng thị trường lao động trầm trọng
nhất kể từ những năm 30 đến nay. Năm 1994 trên thế giới có trên 120 triệu
người thất nghiệp. Song trên thực tế hiện nay con số đó có thể cịn cao hơn
nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang
Đức, Italia trong những năm 80 - 90 mắc từ 7 - 12%, ở Nhật khoảng 2%,
những năm gần đây đã lên trên 3%, Thái Lan 6%, Malayxia 3,5% [30].
Ước tính, nếu các nước tư bản chủ nghĩa phát triển hiện nay giảm thời gian
lao động xuống cịn 30 giờ/tuần, trong đó 10% dùng để đào tạo liên tục, thì
có thể đủ việc làm cho mọi người trong độ tuổi lao động. Nhưng một khi
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn giữ địa vị thống trị, sản xuất giá trị
thặng dư cho nhà tư bản vẫn là động lực cơ bản của sản xuất, thì điều đó
khơng thể xảy ra được.
Tại Hội nghị toàn thể lần thứ 81 của ILO tháng 6/1994 đã nêu: giải
quyết việc làm, chống đói nghèo, phát triển nguồn nhân lực là nội dung chủ
yếu của chương trình hành động của ILO trong thập kỷ từ nay đến năm
2000 [30]. Đồng thời, trong Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tại
Copenhagen (Đan Mạch) vào tháng 3/1995 đã nêu 3 vấn đề được tập trung
thảo luận là chống đói nghèo, mở rộng việc làm và hịa nhập xã hội. Hội
nghị đã tun bố:
Chúng tơi cam kết thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu có đủ việc làm
như một ưu tiên cơ bản của chính sách kinh tế và xã hội của mình và làm
cho mọi người nam cũng như nữ có một cuộc sống bảo đảm và bền vững
7


thông qua tự do lựa chọn công ăn việc làm. Hội nghị cũng khẳng định ở
cấp quốc gia của các nước cần phải có các giải pháp vĩ mơ về việc làm

[30].
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lao động việc làm
Vấn đề con người trong đó có việc làm nằm ở vị trí trung tâm của
nhiều hệ thống quan điểm chính trị - xã hội từ trước đến nay. Bởi vì hơn
bao giờ hết, vấn đề nhân tố con người và khai thác tiềm năng của con người
trong q trình phát triển của xã hội có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng như
ngày nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi làm sâu sắc thêm nhận thức của
mình về chủ nghĩa xã hội đều khẳng định vị trí cao nhất và bao trùm của
vấn đề con người; chiến lược con người được khẳng định như chiến lược
của mọi chiến lược. Nhân tố con người được phát huy và khai thác đầy đủ
hơn nhằm tạo ra động lực để tiến hành công cuộc đổi mới xã hội, đồng thời
sự nghiệp giải phóng con người được coi như là mục tiêu cao nhất của chủ
nghĩa xã hội.
Ăngghen đã từng khẳng định: “ xã hội cộng sản là xã hội mỗi thành
viên của nó có thể phát triển hồn toàn tự do và phát huy tiềm năng, sức lực
của mình, đồng thời khơng xâm phạm đến những điều kiện cơ bản của xã
hội" [27,354]. Mác - Ăngghen nhấn mạnh: Thay thế cho xã hội tư bản với
những gai cấp và đối kháng giai cấp sẽ là một liên hiệp mới mà trong đó
"Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
mọi người" [27,260]. Lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, đã
được những thành tựu mới của các nhà khoa học, trong nhiều cơng trình lý
luận xuất hiện những năm gần đây đã làm sáng tỏ ra các khía cạnh chủ yếu
sau đây: con người là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội, nhưng
đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh vật học. Do đó, con
người có nhu cầu vật chất và nhu cầu đó cần được thỏa mãn bên cạnh
những nhu cầu về tinh thần, có lợi ích vật chất cùng với lợi ích tinh thần chi
8



phối lý trí, tình cảm và hành động, một trong những nhu cầu đó chính là lao
động, việc làm.
Lao động là một phạm trù vĩnh viễn, nó ra đời, tồn tại và phát triển
cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của lồi người. Nói đến vai trị
quan trọng của lao động, nhà kinh tế học thuộc phái cổ điển Anh - William
Pelty - đã nói: "Lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải". Theo C. Mác,
lao động, đó là sự kết hợp giữa sức lao động của con người (yếu tố hàng
đầu cơ bản nhất của lực lượng sản xuất) với đối tượng lao động, là hoạt
động có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên. Phát minh vĩ đại
của Mác - Ăngghen đó là: hai ơng đã khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở
cho sự phát triển của xã hội lồi người.
Sản xuất vật chất càng tiến bộ thì càng nâng cao ý nghĩa nhân tố
con người trong hoạt động và phát triển sản xuất. Cách mạng khoa học kỹ
thuật (và ngày nay là cách mạng khoa học - cơng nghệ) khơng những
khơng dẫn đến giảm vai trị của con người, mà còn càng nâng cao chức
năng sáng tạo của con người, đề ra cho lao động những yêu cầu mới cao
hơn.
Nói đến lao động là nói đến sự hoạt động có mục đích, có ý thức
của con người tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải, sản phẩm
hàng hóa. Do đó khơng có lao động chung chung, trừu tượng - lao động thể
hiện ở việc làm. Càng nhiều người lao động khác nhau, có chuyên môn
nghề nghiệp khác nhau càng làm cho cơ cấu lao động cụ thể, việc làm đa
tầng, đa dạng hơn.
Lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của
những thu nhập đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của mọi thành viên và
của toàn xã hội. Khơng có cá nhân nào lại có quyền trút cho người khác cái
nghĩa vụ lao động của mình vốn là điều kiện tự nhiên của sự sống cịn của
lồi người. Nhưng lao động và việc làm gắn chặt với hình thái kinh tế - xã

9



hội, chính hình thái kinh tế - xã hội lại chi phối tính chất, cơ chế sử dụng
lao động và việc làm. Ở các hình thái kinh tế - xã hội trước, như chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, thì người lao động bị bóc
lột dưới hình thức này hoặc hình thức khác, lao động khơng được q trọng
và vì thế trong nhiều trường hợp người ta coi thứ lao động là sự bắt buộc, là
cái tất yếu để kiếm sống. Còn trong chủ nghĩa xã hội phải làm sao cho lao
động trở thành "nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta" [32,12], lao động trở thành sự hứng thú, là phương tiện tự biểu
hiện, tự khẳng định của con người. Lao động, việc làm gắn chặt với nhau
trong bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội như Bác Hồ đã nói "Khơng
có chế độ nào tơn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa"
[31,38] và "Chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu nước mạnh, dân có giàu thì
nước mới mạnh" [31,44]. Đó là vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong
hiện tại và tương lai.
1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm
Ngày nay, nhân dân ta đang bước vào một cuộc chiến đấu mới vì
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vì cơng bằng xã hội. Thời cơ lịch sử của sự
phát triển của đất nước đã đến. Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh
chóng và vững chắc. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đang từng bước định hình và khẳng định
vai trị của nó trong xã hội mới.
Sự phát triển năng động của khu vực Châu Á Thái Bình Dương,
mơi trường hịa bình và ổn định trong khu vực, chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ và đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
đã mở ra khả năng to lớn để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Nhân dân ta giàu lịng u nước, có ý thức tự lực, tự cường, thông


10


minh, sáng tạo, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng tạo nên nguồn lực
to lớn để xây dựng đất nước. Đó là thời cơ lớn.
Nhưng 4 nguy cơ mà Đảng ta nêu lên cho đến nay vẫn là những
thách thức lớn, trong đó nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực là nguy cơ nổi cộm lên rất gay gắt, do điểm xuất phát
của ta quá thấp, kéo theo hậu quả xấu về công ăn việc làm, đời sống và các
vấn đề xã hội khác. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chăm lo
nhiều hơn nữa sự nghiệp văn hóa - xã hội, coi đó là động lực và mục tiêu
của kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển đất nước. Trong đó lao
động, việc làm được coi là một trong những vấn đề xã hội gốc rễ, căn bản
nhất. Giải quyết đủ việc làm có hiệu quả, chính là giải quyết tận gốc những
căn nguyên sâu xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, bảo đảm giữ gìn trật tự
kỷ cương và an toàn xã hội. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và khó
khăn.
Nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển về con
người, là một thứ vốn cùng với vốn tài chính tạo nên dịng chủ đạo của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã xác định
"Nguồn lực đó chính là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo,
có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo và bồi dưỡng, phát huy bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại" [8,11]. Vai
trò quyết định của nguồn lực con người đối với q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã được Đảng ta xác định là nguồn lực "quý báu nhất, có vai
trò quyết định đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn
lực vật chất cịn hạn hẹp". Các nguồn lực khác như vốn, khoa học công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên - dù có nhiều bao nhiêu cũng là hữu hạn, nó

khơng có sức mạnh tự thân và sẽ mất đi trong quá trình khai thác của loài
người. Hơn thế, chúng chỉ phát huy tác dụng và có hiệu quả khi có ý thức
của con người. Cho nên, chỉ có con người với trí tuệ và tài năng là tài

11


ngun vơ tận khơng bao giờ cạn kiệt, có khả năng phục hồi và tự tái sinh
nếu chúng ta biết ni dưỡng, thúc đẩy nó phát triển. Thơng qua q trình
đó, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người được phát
triển. Đó cũng chính là quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin; xem con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi
quá trình biến đổi lịch sử và cũng đúng với quan điểm của Bác Hồ và của
Đảng ta xem con người là "vốn quý nhất". Quan điểm trên được thể hiện
trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Đảng
ta xác định. " Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa năng lực lao động xã hội
là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, một tiêu chuẩn để định
hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ " [9,35]. Gần đây, trong mục
những chủ trương chính sách lớn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban
chấp hành trung ương Đảng có ghi: "Tích cực giải quyết vấn đề lao động
việc làm. Kết hợp chương trình quốc gia giải quyết việc làm với từng
chương trình, dự án lớn phát triển kinh tế để tạo ra nhiều chỗ làm mới, đặc
biệt là dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và đầu tư của nước ngồi. Khuyến
khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống, phát
triển các ngành nghề mới ở nông thôn để giải quyết việc làm tại chỗ, hoàn
thiện cơ chế quản lý và tăng cường quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm" [45,80].
1.2. KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP

1.2.1. Khái niệm về lao động
ở mọi quốc gia đều có sự phân biệt quan niệm về nguồn lao động và

nguồn nhân lực nhằm mục đích để có chính sách và biện pháp hữu hiệu
huy động nguồn nhân lực và nguồn lao động.
Nguồn nhân lực của một quốc gia là một bộ phận dân số trong độ
tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Như vậy, số lượng nguồn
nhân lực vừa phụ thuộc vào khả năng tham gia lao động của từng cá nhân,
vừa phụ thuộc vào quy định độ tuổi lao động ở từng quốc gia.

12


Nguồn lao động bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động
đang tham gia làm việc hoặc đang tích cực tìm việc và những người ngồi
độ tuổi quy định nhưng thực tế đang làm việc hoặc đang tích cực làm việc.
1.2.2. Khái niệm về việc làm
Có nhiều cách diễn đạt khái niệm việc làm, chẳng hạn xét về mặt lý
luận khoa học Giăng Mutê, phó cố vấn kinh tế văn phòng lao động quốc tế
cho rằng: "Việc làm có thể định nghĩa như một thực trạng, trong đó có sự
trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật do có sự tham gia tích cực, có tính chất cá
nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất".
Guy Hântơ, chuyên gia Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn định
nghĩa "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một
xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con
người, kể cả các quan hệ xã hội và tiêu chuẩn hành vi tạo thành khn khổ
của q trình kinh tế".
Trong Bộ Luật lao động nước ta, định nghĩa việc làm được ghi
trong điều 13 "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm đảm
bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách
nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.
Khái niệm việc làm nói trên có 2 ý nghĩa cơ bản. Trước hết nó giải

tỏa quan niệm cũ cho rằng có việc làm trong khu vực Nhà nước mới được
coi là có việc làm, bởi vì lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong
khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, ngồi quốc doanh,
hộ gia đình... Như vậy sẽ mở rộng hiểu biết của khái niệm và đa dạng hóa
thị trường lao động, xây dựng quan hệ mới về giá trị xã hội. Mặt khác khái
niệm nêu trên còn làm nổi rõ một đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền, thể
hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật
không cấm, quy định như vậy là sát thực tế hơn vì trong khi chưa có được
ngay một lúc danh mục tồn bộ, hồn chỉnh những ngành nghề và cơng

13


việc được phép làm, còn danh mục những ngành nghề và cơng việc cấm
làm thì đã có cụ thể và sẽ được bổ sung dần. Ví dụ: mại dâm, mua bán ma
túy, sản xuất và buôn bán pháo nổ... không phải là việc làm vì bị cấm chính
thức theo Nghị quyết 05/CP và 06/CP (năm 1993), nó khơng phải là nghề
mà là một tệ nạn xã hội. Ngược lại việc làm của những người giúp việc gia
đình trước đây chưa được xã hội tơn trọng, thì nay trở thành việc làm đáng
khuyến khích mở rộng và được pháp luật bảo vệ (điều 139 Bộ Luật lao động)
1.2.3. Khái niệm về thất nghiệp
Theo A. Samuelson: Thất nghiệp là những người không có việc làm
nhưng đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực đi xin việc [2, 235].
- Những người có việc làm hoặc khơng có việc làm đều nằm trong
lực lượng lao động.
Những người đang đi học, trông coi nhà cửa, về hưu, quá đau ốm không
đi làm được hoặc thơi đi làm việc nữa, đó là người nằm ngồi lực lượng lao
động.
Từ phân tích trên, A. Samuelson kết luận: Người có việc làm là
người đi làm, người khơng có việc làm là người thất nghiệp. Những người

khơng có việc làm, nhưng khơng tìm được việc làm là những người ngoài
lực lượng lao động.
Cùng với khái niệm thất nghiệp, Samuelson cũng đưa ra các loại
hình thất nghiệp: thất nghiệp tự nguyện, thất nghiệp không tự nguyện, thất
nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp chu kỳ.
Từ khái niệm việc làm, thất nghiệp, các loại thất nghiệp trên có thể
khái quát: Người có việc làm là người đang làm việc trong các lĩnh vực,
ngành nghề, hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu
nhập để ni sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho
xã hội. Cịn người thất nghiệp được hiểu là những người khơng có việc làm
đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.

14


Thiếu việc làm cũng có thể hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc
làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm, nhưng do ngun
nhân khách quan, ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc
không hết thời gian do luật định hoặc làm những cơng việc có thu nhập
thấp, khơng đủ sống, muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Khi phân tích việc làm, thất nghiệp và thiếu việc làm người ta
thường chỉ tính đến đối tượng nằm trong lực lượng lao động và trong độ
tuổi lao động. Song, do đặc điểm của Việt Nam, người có nhu cầu làm việc
ngồi độ tuổi lao động rất lớn. Vì vậy việc hoạch định chính sách về việc
làm nhất thiết phải nghiên cứu đề cập đến đối tượng hưu trí, lao động vị
thành niên, người già, thương bệnh binh, người tàn tật, khuyết tật để đưa họ
hòa nhập cộng đồng, lao động để đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình.
1.2.4. Tác động của thất nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được xem là một trong
những thước đo thành tựu kinh tế ở tầm vĩ mô và là vấn đề trung tâm trong

nền kinh tế được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Khi thất nghiệp cao, về mặt
kinh tế tài nguyên bị lãng phí, thu nhập nhân dân bị giảm sút, tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nó. Mức thất
nghiệp cao làm giảm sản lượng nền kinh tế, một phần sản lượng bị bỏ đi
hoặc không được sản xuất. Về mặt xã hội, thất nghiệp tác động mạnh đến
xã hội và tâm lý, nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội phát triển.
Qua các cơng trình nghiên cứu cho thấy hậu quả của thất nghiệp tác
động đến mọi mặt kinh tế và xã hội:
- Về kinh tế:
Thất nghiệp gây lãng phí về sức lao động không những tư liệu sản
xuất không được kết hợp với sức lao động tạo ra của cải vật chất mà xã hội
còn phải chi một phần ngân sách để phụ cấp. Thất nghiệp làm cho tổng sản
phẩm xã hội giảm. Theo Arthao Okun (quy luật Okun) thì: Khi GDP giảm
2% so với GDP tiềm năng thì mức thất nghiệp tăng 1%. Trong điều kiện
15


nước ta GDP cịn thấp, GDP bình qn đầu người thua xa nhiều nước, thì
đây là một thách thức lớn.
- Về xã hội:
Hậu quả về mặt kinh tế do thất nghiệp gây ra rất to lớn. Song về
mặt xã hội tác động đó cịn lớn hơn nhiều. Những cuộc nghiên cứu gần đây
cho thấy nạn thất nghiệp dẫn đến sự suy sút cả về thể chất và tâm lý, nghiện
rượu, tự tử, các tệ nạn xã hội khác nhiều hơn. Người nghiên cứu hàng đầu
là bác sĩ H. Brenner cho biết hậu quả thất nghiệp ảnh hưởng rất lớn về mặt
xã hội, Ơng đã ước tính rằng nếu tăng 1% tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ 6
năm thì sẽ làm cho 37.000 người chết sớm [40, 160].
Những cơng trình nghiên cứu trên chứng minh rằng: thất nghiệp
gây ra tổn thất nặng nề về kinh tế, về người, xã hội và tâm lý rất lớn.
Ở Kiên Giang, theo báo cáo của công an tỉnh từ năm 1990 đến năm

1998, trên địa bàn đã giải quyết và thụ lý 9.284 vụ án thuộc các tội phạm
hình sự, kinh tế, ma túy, tệ nạn xã hội. Trong đó tội phạm hình sự chiếm 67
% tổng số vụ án, có xu hướng ngày càng tăng và tăng bình quân mỗi năm
5,8 %, thành phần tội phạm có trên 60 % là phạm tội lần đầu, trong đó có
trên 30 % đối tượng khơng có việc làm ổn định [5, 2].
1.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC LÀM Ở KIÊN GIANG

1.3.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tác động
đến lao động việc làm
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh Kiên Giang là một tỉnh lớn nằm ở tận cùng phía Tây Nam Tổ
quốc thuộc vùng đồng bằng Sơng Cửu Long, phía Bắc giáp tỉnh bạn Cam
Pốt Campuchia có đường biên giới dài 56 km, phía Đông và Đông Bắc giáp
hai tỉnh Cần Thơ và An Giang, phía Nam giáp tỉnh Cà Mau Bạc Liêu, phía
Tây là vùng biển giáp Vịnh Thái Lan, có diện tích tự nhiên 6.222km 2 với
16


hơn 200km bờ biển, có 608 km hải đảo (chưa kể các hịn khơ, vùng nội thủy,
thềm lục địa). Địa hình ở Kiên Giang đa dạng và phức tạp, có đủ đồng bằng,
biển đảo và rừng núi (Nhiều người ví Kiên Giang như một Việt Nam thu
nhỏ), phần đất liền tương đối bằng phẳng, với độ cao nhất trung bình 0,8 1,2m và độ thấp nhất trung bình 0,2 - 0,4m, so với mặt biển. Hệ thống sông
rạch chằng chịt rất tốt cho việc xây dựng thủy lợi nội đồng, thâm canh tăng
vụ; tuy nhiên sẽ ảnh hưởng xấu cho việc thoát úng vào mùa mưa, nước mặn
thâm nhập sâu vào mùa khô và bất lợi cho xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nông
thôn.
1.3.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
1.3.1.2.1. Tài ngun đất
Kiên Giang có tổng diện tích đất tự nhiên là 622.230ha (chiếm

15,6% vùng đất đồng bằng sông Cửu Long), trong đó đất nơng nghiệp
350.393 ha chiếm 56,3% đất tự nhiên; riêng đất trồng lúa 267.995ha chiếm
76,5% đất nông nghiệp. Đất lâm nghiệp 108.966ha chiếm 17,51% diện tích
đất tự nhiên. Nhìn chung đất đai ở Kiên Giang rất phù hợp cho việc phát
triển nơng nghiệp, tuy nhiên hiện vẫn cịn gần 117.000ha quỹ đất chưa sử
dụng, trong đó đất có khả năng trồng lúa là 45.000 ha.
1.3.1.2.2. Tài nguyên thủy sản
Kiên Giang là tỉnh có nguồn thủy lợi sản đa dạng, phong phú. Với
200 km bờ biển và 105 hòn đảo lớn nhỏ, vùng biển Kiên Giang có đến 315
lồi động vật biển của 149 giống thuộc 83 họ, bao gồm tôm cá các loại và
các đặc sản quý như: đồi mồi, sò huyết, nghêu lụa, ngọc trai...; Vùng biển
tây nam (bao gồm cả Minh Hải và Kiên Giang) với diện tích 63.290 km2 là
ngư trường khai thác hải sản rất thuận lợi. Trữ lượng tơm cá ước tính
464.660 tấn, khả năng khai thác cho phép bằng 44% trữ lượng (204.450
tấn), ngoài ra tỉnh đang thực hiện dự án đánh bắt xa bờ tại vùng biển Đông

17


Nam Bộ có trữ lượng khoảng 611.154 tấn với sản lượng khai thác cho phép
là 244.462 tấn (bằng 40% trữ lượng).
Nguồn lợi thủy sản nội địa với diện tích ni cá 50.800 ha, cho sản
lượng hàng năm gần 30.000 tấn, trong đó ni kết hợp với mơ hình lúa - cá
khoảng 16.000 ha và nuôi kết hợp rừng tràm 34.000 ha.
1.3.1.2.3. Tài nguyên khoáng sản
Kiên Giang là tỉnh duy nhất ở đồng bằng Sơng Cửu Long có nhiều
nguồn lợi về khống sản và trữ lượng lớn rất có giá trị như: đá vơi, đất sét (làm
xi măng, gạch ngói), đá xây dựng, cát (làm thủy tinh), than bùn. Ngoài ra ở Phú
Quốc cịn có đá huyền, Hà Tiên có thạch anh để làm đồ trang sức mỹ nghệ...
1.3.1.2.4. Tiềm năng du lịch

Bên cạnh tiềm năng tài nguyên, Kiên Giang còn có điều kiện thuận
lợi để phát triển du lịch do có nhiều địa danh thắng cảnh và di tích lịch sử
nổi tiếng như: Hịn Chơng, Hịn Trẹm, Hịn Phụ Tử, Núi Moso, Mũi Nai,
Thạch Động, Lăng Mạc Cửu, Đông Hồ, U Minh, Phú Quốc... với nhiều bãi
tắm hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Đáng lưu ý Kiên Giang
cịn có nền văn hóa óc Eo một thời đã là trung tâm giao lưu với bên ngoài.
Ngoài ra du lịch lễ hội cũng là một thế mạnh, hàng năm lễ hội Nguyễn
Trung Trực vào cuối tháng 8 âm lịch cũng thu hút trên 100.000 lượt người.
1.3.1.2.5. Tiềm năng về nhân lực
Năm 1998 dân số Kiên Giang là 1.476.550 người, trong đó nữ
752.612 người, chiếm 50,9%, gồm 3 dân tộc chủ yếu: dân tộc Kinh chiếm
85,60%; Khơmer 12,19%; dân tộc Hoa chiếm 2,16%; các dân tộc khác chiếm
0,5 %, trong đó dân số nơng thơn chiếm 77,67%, thành thị chiếm 22,33%.
1998, Nguồn lao động (lao động trong độ tuổi) khoảng 851.223
người chiếm 57,6% dân số, trong đó khoảng 84% số lao động đang làm

18


việc trong nền kinh tế quốc dân (711.262); lao động kỹ thuật chiếm 3,5%
trong tổng số nguồn lao động.
Đó là những thuận lợi cơ bản về tiềm năng thiên nhiên và những
thành quả đạt được của nền kinh tế. Kiên Giang cịn có một yếu tố vật chất
vơ cùng đặc biệt quan trọng và phức tạp đã tác động mật thiết với cuộc
sống hiện tại và tương lai, đó là lực lượng lao động, là lực lượng sản xuất
cơ bản đầu tiên quyết định sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm đối với nước ta
Đối với Việt Nam, sự phát triển dân số và lao động là những vấn đề
kinh tế - xã hội gay gắt chẳng những trong giai đoạn hiện nay, mà còn
trong nhiều năm tới. Dân số Việt Nam theo cuộc điều tra dân số 1/4/1989 là

64.411.000 người, năm 1993 là 70.982.000 người và năm 1999 là
76.324.753 người. Như vậy kể từ tổng điều tra dân số 1/4/1989 tới
1/4/1999 mỗi năm dân số tăng tuyệt đối 1,2 triệu người [18].
Dân số và kinh tế - xã hội là những yếu tố vận động theo những quy
luật khác nhau. Trong dân số có lực lượng lao động - yếu tố quyết định của
sản xuất. Đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu dùng chủ yếu mọi của cải
và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này, ngày nay đã được cụ thể hóa
thành quan hệ giữa dân số và phát triển, là một nội dung quan trọng trong
công tác hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội của nhiều nước.
Nguồn lao động nước ta tăng nhanh trong bối cảnh nền kinh tế đang
gặp khơng ít khó khăn gay gắt do cơng nghệ lạc hậu, ảnh hưởng trực tiếp
của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực (1997), thiên tai (hạn và lụt nặng nề
ở miền Trung) đã sinh ra mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn
chế với nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng, tất yếu sẽ dẫn đến tới
tình hình một bộ phận chưa có việc làm. Theo số liệu thống kê, hàng năm
nước ta gồm 2 triệu người không có việc làm [13].

19


Dân số trong độ tuổi lao động nước ta vẫn có xu hướng ngày càng
tăng, năm 2000 chiếm khoảng 55%, dự kiến đến năm 2005 chiếm khoảng
59,1%. Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000, bình
quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95% làm cho sức ép việc làm
trở nên gay gắt. Đặc biệt là thừa nhiều lao động giản đơn chưa qua đào tạo
và thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm
1998 mới chiếm 17,8%, phần lớn là làm việc ở cơ quan trung ương
(94,4%). Riêng nơng thơn chỉ có 10% lao động qua đào tạo, trong đó đào
tạo nghề chỉ có 0,44%. Cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và
công nhân kỹ thuật rất bất hợp lý. Hiện nay là 1/1,6/3,6 (các nước khác là

1/4/10) Đào tạo không gắn với yêu cầu và thị trường lao động dẫn đến hàm
lượng chất xám trong sản phẩm thấp, làm cho sức cạnh tranh các sản phẩm
không cao trên thị trường trong nước và quốc tế [13].
Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp. Tỷ trọng GDP các
ngành Nông nghiệp, Công nghiệp xây dựng, Dịch vụ trong năm 1995
tương ứng là 27,8 - 28,76 - 44,06% đến năm 1998 là 25,7% - 32,59 41,66%. Điều này hạn chế lớn đến giải quyết việc làm trong kinh tế thị
trường và hòa nhập quốc tế trong xu thế tồn cầu hóa [13].
Do tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực
và trên thế giới, dẫn đến phát triển kinh tế nước ta bị chững lại. GDP có xu
hướng suy giảm làm cho tình hình thất nghiệp khu vực thành thị ở nước ta
cịn ở mức cao và đang có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị từ
năm 1994 đến 1996 có xu hướng giảm bình qn mỗi năm 0,4% nhưng
năm 1997 so với năm 1996 lại tăng thêm 0,13%, năm 1998 so với năm
1997 tăng thêm 0,55% (1996 tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 5,88%, 1997:
6,01%, năm 1998: 6,85%, 1999: 7,4%) [13].
Về cơ bản, nông thôn vẫn là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lao
động xã hội (gần 70%). Tuy nhiên, trong nông thôn nạn thiếu việc làm rất

20


nghiêm trọng. Số người thiếu việc làm tập trung nhiều nhất ở lứa tuổi 15 24 (chiếm 32,79%, tiếp đến là nhóm tuổi từ 25 - 34 (29,39%) và nhóm tuổi
35 - 44 (21,29%) [13]. Tình trạng thiếu việc làm ở nơng thơn chủ yếu là do
diện tích đất nơng nghiệp bình qn đầu người rất thấp, chi phí sản xuất lại
tăng, hiệu quả sản xuất giảm, trong khi đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động nông thôn diễn ra chậm chạp. Kinh tế nông thôn vẫn nặng về
nông nghiệp (chiếm 70%), trong nông nghiệp vẫn nghiêng về trồng trọt
(78%), chủ yếu cây lương thực (56%). Hiện nay cả nước có 8,1 triệu ha đất
nơng nghiệp, bình qn 0,68ha/hộ nơng nghiệp, bình qn 1 hộ nơng
nghiệp chỉ có 0,27 ha (đặc biệt vùng đồng bằng sơng Hồng bình qn 1 lao

động nơng nghiệp chỉ 600m2) thì nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông
nghiệp tối đa chỉ 19 triệu người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi
nông nghiệp, sẽ dư thừa tương đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu [13].
Sự phát triển không đều giữa các vùng đặc biệt là giữa nông thôn và
thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Bà Rịa Vũng Tàu, Hải Phịng, Đà Nẵng, Cần Thơ,...) dẫn đến dòng người
di dân tự phát từ nông thôn vào thành phố lớn với quy mô và tốc độ ngày
càng tăng, nhất là thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên có 7 vạn lao động
từ các tỉnh đến tìm việc làm, Hà Nội khoảng 2 vạn... Số này vào thành phố
chủ yếu là tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn nơng thơn (phần lớn là
lao động phổ thông, nặng nhọc), nhưng cũng gây nên những phức tạp rất
lớn về quản lý đô thị, làm quá tải các dịch vụ hạ tầng xã hội (giao thông, y
tế, trường học, cấp nước...). Đặc biệt có một bộ phận sa vào ma túy, mại
dâm hoặc trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm ở Kiên Giang
Những nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của cả nước, cũng là những
nhân tố tác động đến việc làm của Kiên Giang.
1.3.3.1. Nhân tố dân số

21


Dân số, trong đó có nguồn lao động biểu hiện tính chất hai mặt trong q
trình tái sản xuất xã hội. Trước nhất, dân số với ý nghĩa là những chủ thể tiêu
dùng sản phẩm vật chất và dịch vụ phản ánh nhu cầu xã hội.7 Mặt khác, trong
dân số có nguồn lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, là
chủ thể sáng tạo ra sản phẩm hữu hình và dịch vụ, phản ánh lượng cung của xã
hội.
Những năm qua, dân số Kiên Giang không ngừng tăng lên. Năm
1991 với dân số là 1.265.000 người, đến năm 1999 là 1.518.000 người, tức

đã tăng lên một lượng 253 ngàn người, với tốc độ tăng dân số ở mức khá
cao: năm 1991 là 2,43%, năm 1992 là 2,45%, năm 1993 là 2,78%, năm
1994 là 2,70%, năm 1995 là 2,27%, năm 1996 là 2,22%, năm 1997 là
2,17%, năm 1998 là 2,05%, năm 1999 là 1,81%.
Biểu số 1: Dân số Kiên Giang qua các năm
Đơn vị: 1.000 người
1991
Dân số

1992

1993

1994

1.265 1.296 1.332 1.368

1995

1996

1997

1998

1999

1.399 1.430 1.461 1.491

1.518


Tỷ lệ sinh (%)

3,05

2,82

2,73

2,68

2,61

2,51

2,44

2,37

2,28

Tỷ lệ chết (%)

0,66

0,48

0,45

0,48


0,48

0,46

0,46

0,48

0,48

Tỷ lệ tăng tự nhiên (%)

2,39

2,34

2,48

2,20

2,13

2,05

1,98

1,89

1,8


Tốc độ tăng dân số (%)

2,43

2,45

2,78

2,70

2,27

2,22

2,17

2,05

1,81

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang
Dân số tỉnh Kiên Giang tăng nhanh chủ yếu là do tăng dân số tự
nhiên, đây chính là nguyên nhân chủ yếu đưa đến nguồn lao động ở tỉnh
mỗi năm tăng lên.
1.3.3.2. Nhân tố cơ cấu độ tuổi
Cơ cấu độ tuổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nguồn lao
động, có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và từ đó tác động đến số việc
làm hiện nay cũng như số lao động đang dự trữ trong nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời việc phân tích về cơ cấu tuổi tác cho phép ta dự đoán khả năng


22


thu hút lao động và đang xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm và
thất nghiệp.
Biểu số 2: Cơ cấu độ tuổi và giới tính
của dân số tỉnh Kiên Giang[35]
Đơn vị: người
1995

Độ tuổi
Nam

1996

Trong đó
nữ

1997

Trong đó
nữ

Nam

Nam

Trong đó
nữ


0-4

187.490

91.701

190.222

93.304

194.312

95.427

5-9

184.272

89.630

183.356

89.386

180.432

87.690

10 - 14


199.383

98.256

201.950

99.400

197.964

97.200

15 - 59

744.362

401.457

773.043

414.426

805.591

431.526

60 trở lên

83.670


44.847

81.667

44.371

82.691

45.403

Tổng cộng

1.399177

725.891

1.430.238

740.887

1.460.990

757.246

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang
Với số liệu trên cho thấy, dân số ở độ tuổi từ 15 trở xuống chiếm
hơn 1/3 tổng thể dân số (39,2%). Đây là nguyên nhân chủ yếu làm tăng
nhanh nguồn lao động và là gánh nặng đối với công tác giải quyết việc làm
cũng như các nhu cầu khác.

Biểu số 3: Nguồn lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân
và lao động chưa có việc làm (1994 - 1998) [35]
(Theo số liệu thống kê)
1994

1995

1996

1997

1998

A. Lao động

762.855

788.676

841.928

875.317

892.951

1. Số người trong độ tuổi lao động

734.335

755.386


805.680

834.413

851.223

30.401

31.257

32.425

35.522

34.048

Trong đó: - Mất sức lao động

23


- Có khả năng lao động

703.934

724.129

773.255


798.891

817.175

2. Ngồi tuổi có tham gia lao động

28.520

33.290

36.248

40.904

41.728

- Trên tuổi lao động

14.320

16.890

18.298

20.654

21.070

- Dưới tuổi lao động


14.200

16.400

17.950

20.250

20.658

B. Phân phối lao động

732.454

757.419

809.503

839.795

858.903

I. Số lao động đang làm việc

606.018

620.955

669.289


687.432

711.262

1. Nông, lâm nghiệp

449.662

458.725

493.500

510.684

518.817

2. Thủy sản

32.537

33.339

35.710

33.326

48.078

3. Công nghiệp


34.251

35.096

37.592

34.463

34.168

7.557

8.072

5.621

8.249

7.227

53.998

55.329

63.447

59.805

59.030


6. Vận tải thơng tin

7.652

8.082

10.127

12.689

14.226

7. Quản lý nhà nước, ANQP, Đảng,
đồn thể, các tổ chức quốc tế

3.858

4.727

4.743

5.175

5.256

8. Giáo dục và đào tạo

9.291

10.122


10.196

12.549

12.873

9. Y tế và cứu trợ

2.270

2.399

2.928

3.159

3.148

10. Khác

4.942

5.064

5.425

7.333

8.439


II. Học sinh đang đi học

59.481

62.515

65.954

68.922

70.308

III. Nội trợ và chưa có việc làm

66.955

73.949

74.260

83.441

77.333

a. Nội trợ

31.972

39.642


42.561

48.396

42.195

b. Chưa có việc làm

34.938

34.307

31.699

35.045

35.138

4. Xây dựng
5.Thương nghiệp,khách sạn, nhà
hàng

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang
Theo quy định của Bộ Luật lao động, độ tuổi lao động từ 15 - 55
đối với nữ và 15 - 60 đối với nam. Nhưng thực tế nguồn lao động theo số
liệu năm 98 bao gồm: Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động (817.174) và những người trên và dưới độ tuổi vẫn tham gia lao động
là 41.728 người.


24


Đến năm 1998, tổng lao động đang làm việc của Kiên Giang là
858.903 người, so với năm 1994 tăng 126.449 người, chiếm 14,7%, bình
quân hàng năm tăng 3% nguồn lao động.
Như vậy, với số liệu trên cho thấy nguồn lao động trong các năm
1994 - 1998 tăng với tỷ lệ cao. Nguyên nhân chủ yếu là do dân số bước vào
độ tuổi lao động cao, nguyên nhân thứ hai là do tỷ lệ biến động cơ học do
số lao động tỉnh ngoài đến Kiên Giang làm ăn sinh sống (nhất là huyện
đảo), vì vậy dẫn đến nguồn lao động các năm qua tăng nhanh.
Riêng lao động trong độ tuổi có khả năng lao động năm 1995 tăng
20.195 người so với năm 1994; năm 1996 tăng 49.126 người so với năm
1995; năm 1997 tăng 25.636 người so với năm 1996. Nguyên nhân chính
tăng số người có khả năng lao động ở năm 1996 cao là số lao động tỉnh
ngoài đến Kiên Giang làm ăn sinh sống, tính riêng huyện đảo Phú Quốc
theo kết quả điều tra có 9.446 lao động ngồi tỉnh đang ổn định làm ăn.
1.3.3.3. Thời gian nông nhàn
Về cơ cấu việc làm trong nền kinh tế, ngành nông lâm nghiệp là
ngành sử dụng nhiều lao động nhất, chiếm tỷ lệ cao so với tổng số. Từ năm
1994 - 1998 tăng 69.155 lao động, bình quân hàng năm tăng trên 14.000
lao động.
Thế nhưng lao động làm việc trong ngành nông lâm nghiệp lại
chiếm tỷ lệ thời gian thấp hơn so với ngành khác. Theo kết quả điều tra lao
động - việc làm năm 1997 do Sở lao động - thương binh và xã hội và Cục
Thống kê phối kết hợp, được Trung tâm thông tin - Thống kê lao động và
xã hội xử lý số liệu cho thấy:
Biểu số 4: Tỷ lệ thời gian lao động vùng nơng thơn
có hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi và giới tính
Đơn vị: %

Chia theo nhóm tuổi

25


×