Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Thanh Co Bien Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 43 trang )

SỞ KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐỒNG NAI

BÀI DỰ THI

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN
HÓA LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
NĂM 2013


ĐỀ THI:
“TRONG SỐ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP
TỈNH Ở ĐỒNG NAI MÀ ANH CHỊ ĐÃ ĐẾN THAM
QUAN, HÃY TRÌNH BÀY CẢM NGHĨ VỀ GIÁ TRỊ
LỊCH SỬ MÀ BẠN TÂM ĐẮC NHẤT; NÊU Ý KIẾN,
GÓP Ý KIẾN NGHỊ VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ CỦA CÁC DI TÍCH ẤY TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG PHÁT TRIỂN TỈNH ĐỒNG NAI VĂN MINH
GIÀU ĐẸP”.


Họ và tên: Trần Văn Quý
Ngày tháng năm sinh: 08/08/1990
Giới tính: Nam
Nghề nghiệp: Sinh viên
Dân tộc: Kinh
Đoàn viên
Lớp 4B, Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh
Khoa: Lịch Sử
351A, Lạc Long Quân, Phường 5, Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh.
Số ĐT: 0944082595
Email:



Trang 3


ĐỀ TÀI
THÀNH CỔ BIÊN HÒA, DI TÍCH
LỊCH SỬ CẦN ĐƯỢC BẢO TỒN


Đ

Mở Đầu
ồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, và là cửa ngõ phía
Đông của thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích 5866 km2,
phía Bắc giáp với tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, phía Nam

giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phía Đông giáp với tỉnh Bình Thuận, phía Tây
giáp với tỉnh Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời có các tuyến
quốc lộ đi qua như: 1A, 20, 51, 56 nối liền Đồng Nai với các tỉnh khác của vùng
Đông Nam Bộ, ngoài ra còn có tuyến đường sắt Thống Nhất, tuyến đường huyết
mạch của giao thông cả nước chạy qua. Không chỉ vậy với địa hình nghiêng
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, dáng đất bắt gặp ở Đồng Nai là kiểu núi thấp
nhấp nhô, đỉnh cao nhất chỉ có 836m, đã tạo cho Đông Nai có dạng địa hình khá
đa dạng, nên thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, với sự đa dạng
các loại cây trồng. Nằm trong lưu vực của sông Đồng Nai với các nhánh chính
là Đồng Nai, La Ngà, Mã Đà và sông Buông, Đồng Nai có nhiều tiềm năng về
thủy điện, trong đó có thủy điện Trị An, thủy điện lớn của đất nước với công
suất 400 MW, chính những điều kiện thuận lợi như thế, đã giúp cho Đồng Nai,
trở thành tỉnh có một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế trọng điểm
của vùng Đông Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.

Đồng Nai không chỉ phát triển về mặt kinh tế, mà còn phát triển các giá
trị di sản văn hóa nói chung, trong đó có loại hình văn hóa di tích lịch sử, loại
tài sản vô giá được xây dựng, thông qua quá trình mở làng, lập ấp, cũng như quá
trình đấu tranh của nhân dân. Trên mảnh đất Đồng Nai thuộc miền Đông Nam
Bộ của Việt Nam, trải qua các giai đoạn thay đổi của lịch sử và biến đổi lịch sử
đã để lại những di sản quan trọng trong các lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt là
di tích lịch sử. Những di tích của tỉnh Đồng Nai được nhà nước xếp hạng là một
trong những thành quả, kết tinh truyền thống văn hóa, lịch sử, cũng như sự biến
đổi của tự nhiên, cho vùng đất này trong quá trình mở đất và thành lập tỉnh.
Vùng đất Biên Hòa hiện nay có 6 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh.
Trong đó địa danh “Thành Cổ Biên Hòa” nằm ở số 129, Phan Chu Trinh,

Trang 5


phường Quang Vinh, Thành Phố Biên Hòa là di tích lịch sử, kiến trúc khá độc
đáo của tỉnh, được Sở Văn hóa – thể thao – du lich tỉnh Đồng Nai, xếp hạng cấp
tỉnh năm 2008.
Hưởng ứng cuộc tìm hiểu về văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2013 do Sở
Khoa học và Công nghệ Đồng Nai, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai tổ chức,
tôi đã đến tham quan nhiều di tích ở Đồng Nai. Quá trình tham quan và nghiên
cứu tư liệu về di sản, tôi thấy mình cần phải có trách nhiệm tuyên truyền những
giá trị quý giá của hệ thống di tích được xếp hạng của tỉnh Đồng Nai. Trong hệ
thống di sản văn hóa của tỉnh Đồng Nai được xếp hạng di tích cấp tỉnh, tôi tâm
đắc về di tích lịch sử “Thành Cổ Biên Hòa”, nhằm gửi gắm đến mọi người để
góp phần trong công tác bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của Đồng Nai nói
chung, về di sản văn hóa lịch sử nói riêng, trong đó, đề cập chính về di sản
“Thành Cổ Biên Hòa”.
1. Đôi nét về quá trình khai phá và tên gọi đất Biên Hòa - Đồng Nai.
 Qúa trình khai phá đất Biên Hòa – Đồng Nai.


Vùng đất Nam Bộ nói chung và vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng
vào cuối thế kỷ XVI, về cơ bản vẫn là một vùng đất hoang dã. Trong “Chân Lạp
Thổ Phong Ký”, Châu Đạt Quan cho biết: “Gần hết cả vùng là bụi rậm của rừng
thấp, nhưng cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um
tùm của những gốc cây cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê,
khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nữa đường trong sông thấy
cánh đồng hoang không một gốc cây, xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy
rẫy”1. Đến giữa thế kỷ XVIII, khi viết “Phủ biên tạp lục”, Lê Quý Đôn vẫn còn
ghi lại sự hoang dã này như sau: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ các cửa biển
Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cữa Tiểu toàn là rừng hàng trăm dặm”2 .
Theo nhiều nguồn sử sách còn ghi lại, trên cả một vùng đất rộng lớn lúc
bấy giờ chỉ có vài dân tộc ít người sinh sống như Xtiêng, Mạ, Choro, Koho, M’
* Sinh Viên trường ĐHSP Tp. HCM.
1
Dẫn theo Huỳnh Lứa. Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb TP.HCM. 1987. Tr 37
2
Lê Quý Đôn toàn tập. T.1. Phủ biên tạp lục. Nxb KHXH. HN.1977. Tr. 345


Nông. Họ là những dân tộc này đã có mặt trên đất Đồng Nai – Gia Định từ khá
lâu đời. Do sống bằng nghề săn bắt và nương rẫy, nên các dân tộc này thường
sống trên những triền núi cao, kỹ thuật sản xuất thô sơ và trình độ xã hội còn hết
sức thấp kém. Ngoài ra, cũng có một số ít người Khơ – me từ Chân Lạp di cư
sang, họ sống rãi rác trong vài sóc nhỏ nằm heo hút trên những giồng đất cao.
Chính vì thế, vao thời điểm này dân cư ở vùng Đồng Nai – Gia Định vẫn còn
hết sức thưa thớt, vắng lặng đến độ chỉ khi nào thấy có khỏi vương tỏa qua cây
lá ở đâu thì mới hay ở đó có người sinh sống.
Sang thế kỷ XVII, vùng Đồng Nai – Gia Định bắt đầu trở nên sôi động
với sự hiện diện của các nhóm di dân người Việt từ vùng Thuận Quảng vào.

Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài gây bao tổn thất về người và của, làm
cho đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, nhất là dân ở những vùng xảy ra
chiến trận. Do chiến tranh tàn phá cùng với thiên tai, bệnh dịch hoành hành đã
buộc những người dân nghèo phải bỏ làng mạc, ruộng vườn tản đi khắp nơi để
tìm một cuộc sống mới no đủ hơn.
Trong hoàn cảnh ấy, những vùng đất phía Nam vốn là những vùng đất
của vương quốc Chăm – Pa đang suy tàn và xa hơn nữa là vùng đất mà sau này
gọi là Đồng Nai – Gia Định màu mỡ, phì nhiêu nhưng còn hoang vắng đã thu
hút mạnh mẽ các lưu dân Việt đến khai phá. Tiến trình nhập cư của người Việt
vào vùng đất mới Đồng Nai – Gia Định theo Trịnh Hoài Đức đã bắt đầu từ vùng
Mô Xoài (hay Mỗ Xuy tức Bà Rịa ngày nay). Đây là nơi được coi là địa đầu của
vùng đất mới, vì nó nằm trên trục giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào Nam,
lại nằm trên đường biển có vịnh Ô Trạm rất thuận lợi cho tàu thuyền cập bến.
Đó là một vùng đất rộng lớn kéo dài từ Long Hương, Phước Lễ cho đến tận Đất
Đỏ ngày nay. Về thời điểm lưu dân người Việt bắt đầu đặt chân đến Mô Xoài,
theo Trịnh Hoài Đức thì họ đã vào đây từ các đời chúa Nguyễn Hoàng (1558 –
1613), chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), chúa Nguyễn Phúc Lan (1635
– 1648) chứ không phải khi đoàn quân của Nguyễn Phúc Yên vào năm 1648 thì
người Việt mới có mặt ở đây.

Trang 7


Từ Mô Xoài, Bà Rịa các thế hệ di dân tự do người Việt với phương tiện
di chuyển chủ yếu là thuyền, ghe, xuồng theo thủ triều ngược sông Phước Long
(sông Đồng Nai) và cả đi bộ dọc theo sông tiến dần vào vùng đất Đồng Nai. Các
địa danh định cư của họ sớm nhất là Nhơn Trạch, Long Thành, An Hòa, Bến
Gỗ, Bàn Lân, Vĩnh Cửu và thành phố Biên Hòa ngày nay cùng với các cù lao
như: Cù Lao Phố, Cù Lao Rùa, Cù Lao Kinh, Cù Lao Tân Chánh, Cù Lao Tân
Triều3….Trong đó những địa điểm thuận lợi như Cù Lao Phố thì số lương người

Việt đến khẩn hoang lập ấp từ những thập niên đầu thế kỷ XVII trở đi, người
Kinh đến khai hoang, lập ấp chính là tại Cù Lao Phố và vùng lân cận. Cù Lao
Phố lúc ấy đã thành lập 3 xóm của người Việt là: Xóm Chợ Chiếu (về sau là xã
Hưng Phú), xóm Rạch Lò Gốm (về sau là thôn Hòa Đông), xóm Chùa (về sau
gọi là là thôn Bình Tự)4 .
Như vậy, đến giữa thế kỷ XVII, trên cả một khu vực rộng lớn thuộc lưu
vực sông Phước Long đã có người Việt định cư, họ đã cùng với người Khơ –
me và các cư dân bản địa khai khẩn vùng đất hoang rộng lớn. Tuy nhiên, những
điểm định cư và khai phá lúc này mới chỉ rải rác đó đây, gọi nôm na là “móc
lõm”, chủ yếu dọc theo sông rạch nơi thuận lợi cho việc giao thông bằng thuyền
xuống. Đất hoang rừng rậm vẫn còn rất nhiều, vì hầu hết người Việt đến định cư
phần lớn là những người nông dân phiêu bạt thiếu tài lực, vật lực, phương tiện
sản xuất, kỹ thuật… việc khai phá đất hoang trong buổi đầu hoàn toàn diễn ra tự
phát, dựa vào sức mình là chính và chưa có sự giúp đỡ của chính quyền nhà
nước. Quá trình khai hoang trong thời gian này thường được tiến hành tập thể
gồm một vài gia đình có quan hệ họ hàng thân thuộc với nhau hay những người
cùng quê hương xứ sở, bởi vì vùng đất mới đối với họ hoàn toàn xa lạ, ẩn chứa
nhiều mối nguy hiểm khó lường trước.
Trong gần một thế kỷ, với sức lao động cần cù, kiên trì, nhẫn nại khắc
phục mọi khó khan gian khổ, chung lưng đấu cật, giúp đỡ lẫn nhau giữa những
3
4

Nhiều tác giả, Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai. 1998, Tr. 69 - 70
Trần Hiếu Thuận, Cù Lao Phố. Tạp chí Xưa và nay số 36 B. Tháng 2 năm 1997


con người cùng chung số phận, nghèo khổ vươn lên xây dựng một cuộc sống
mới, các lưu dân người Việt cùng các dân tộc anh em khác đã từng bước biến
một vùng hoang vu, sình lầy của nhiều thế kỷ trước thành một vùng đất phì

nhiêu, mầu mỡ đầy sinh khí và hứa hẹn kéo dài từ Mô Xoài cho đến tận Đồng
Nai, tạo cơ sở vững chắc cho việc mở rộng công cuộc khai phá sau này.
Khi đề cập đến quá trình khai phá vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói
riêng và Nam Bộ nói chung, chúng ta không thể đề cập đến vai trò của người
Hoa. Năm 1679, hai viên tướng của nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần
Thượng Xuyên (còn gọi là Trần Thắng Tài) trong phong trào “bài Thanh phục
Minh” đã đem theo binh lính cùng gia quyến tổng cộng trên 3000 người đi trên
50 chiến thuyền đến đậu dọc bờ biển từ cửa Tư Hiền đến Đà Nẵng để xin thần
phục chúa Nguyễn5. Nhưng chúa Nguyễn Phúc Hiền đã không cho họ ở lại Đà
Nẵng vì cho rằng : “địa phương Giản Phố của nước Cao Miên, đất rộng béo tốt
kể đến ngàn dặm, triều đình chưa rảnh kinh lý, chi bằng lợi dụng sức của họ mà
giao cho khai khẩn đất đai để ở”6. Đồng thời chúa Nguyễn còn sợ nhà Thanh trả
thù và cũng để tránh những xáo trộn không khỏi gây ra bởi đội quân ngoại quốc
quan trọng như thế ở gần kinh đô. Do đó, chúa Nguyễn đã giải quyết cho họ
được vào sinh sống ở vùng Giản Phố và phải có nhiệm vụ đóng một thứ thuế
ruộng đất đang hiện hành, xem đó “cũng là một công việc mà được ba điều
lợi”7. Chúa Nguyễn đã “ban đặt yến tiệc đãi họ, an ủi khen ngợi, cho các tướng
lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới khiến vào Đông Phố để mở mang
đất ấy. Họ được các tướng lĩnh Vân Trình, Văn Chiếu hướng dẫn, binh thuyền
tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch tiến về cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại,
cửa Tiểu đến định cư ở Mỹ Tho; binh tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng

Dương Văn Huề, Về các nhóm người Hoa ở Gia Định thế kỷ XVII – XVIII, Tạp chí Nghiên cứu. số 10.2006
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí. Tập trung, sdd, tr. 9
7
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí. Tập trung, sdd, tr. 9.
5
6

Trang 9



Xuyên, Trấn An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở Bàn Lân”8,
xứ Đồng Nai (Biên Hòa ngày nay)”9.
Đồng thời chúa Nguyễn còn viết thư và sai người trao cho vua Chân Lạp,
yêu cầu chia, cấp đất đai cho họ để khai khẩn làm ăn10.Như vậy, trên danh nghĩa
họ Dương, họ Trần đã nhận qua tước và nhiệm vụ của chúa Nguyễn vào đất
Đồng Nai – Gia Định chứ không phải thuần túy là những người bỏxứ sở ra đi tị
nạn. Họ đã thành thần dân của chúa Nguyễn. Việc chúa Nguyễn Phúc Hiền đã
cân nhắc kĩ lưỡng rồi mới quyết định cho những nhóm di dân người Hoa này
vào khai phá Nam Bộ, đã không những chứng tỏ một chính sách hết sức khôn
khéo của chúa Nguyễn muốn sử dụng các thế lực người Hoa để tang cường
thêm nội lực, biến nhân tố ngoại sinh thành những nhân tố ngoại sinh thành
nhân tố nội sinh, đồng thời qua đó để điều hòa các mối quan hệ quốc tế, mà còn
cho thấy các chúa Nguyễn đã rất chú ý đến tiềm năng của vùng đất Nam Bộ nói
chung và vùng Đồng Nai – Gia Định nói riêng.
Tuy nhiên, vai trò lớn nhất của các nhóm di dân người Hoa này đối với
vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung không phải ở
chỗ họ là những người đầu tiên có công khai phá vùng đất này, bởi khi họ đến
thì đã có lưu dân người Việt có mặt trước, và họ cũng không phải là những
người có công lớn trong việc làm khởi sắc nền kinh tế nông nghiệp ở đây, bởi
thực chất số lượng 3000 người cũng chưa phải là nhiều đối với một vùng đất
rộng lớn này, vả lại, đối với họ nông nghiệp không phải là phương thức sản xuất
chủ yếu. Cho nên, mặc dù họ có tham gia vào việc khai phá đất hoang để sản
xuất nông nghiệp, nhưng đó cũng chỉ là phương tiện ban đầu để sau đó chuyển
sang kinh doanh, buôn bán. Vai trò quan trọng nhất của di dân người Hoa ở đây
chính là ở chỗ họ đã có công khai phá, phát triển và làm khởi sắc nền kinh tế
Theo tác giả Sơn Nam tên gọi Bàn Lân là tiếng “bằng lăng” nói trại ra. Bàn Lân là phía chợ Biên Hòa ngày
này ( Sơn Nam – Cù Lao Phố cảng biển đầu tiên ở Nam Bộ, tạp chí Xưa và Nay số 41 B tháng 7. 1997). Theo
“Cù Lao Phố lịch sử văn hóa” của Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) thì địa danh này có lẽ đã bắt nguồn từ tên gọi

một loại cây Blaang của người Mạ ( xem Cù lao Phố lịch sử văn hóa, Nxb Đồng Nai. 1998, Tr.10)
9
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí. Tập trung, sdd, Tr. 9 – 10.
10
Dẫn theo Dương Văn Huề, về các nhóm người Hoa ở Gia Định thế kỷ XVII – XVIII, Tạp chí nghiên cứu lịch
sử. Số 10.2006
8


thương mại ở vùng đất mới khai phá này.Theo những nguồn tư liệu cũ đã cho
thấy, khi đến Bàn Lân lập nghiệp nhóm của tổng binh Trần Thượng Xuyên đã
tiến hành việc đốn chặt cây cối, phá cỏ rậm xung quanh khu vực định cư, khai
thông nguồn nước, mở mang đường ngõ…Đồng thời chiêu mộ, thu hút nhiều
lưu dân Trung Quốc khác đến làm ăn, sinh sống. Trong số các lưu dân Trung
Quốc đến sau này, có thể có nhiều người đã nhập cư từ trước song ở phân tán
nhiều nơi, nhưng phần lớn vẫn là những người mới từ lục địa Trung Hoa không
thần phục nhà Thanh tới và đa số họ đều là những người buôn bán. Từ đó, họ
mới thu hút thương khách đến buôn bán gồm có người Châu Âu, người Nhật,
người Mã Lai…với nòng cốt ban đầu là các lái buôn Trung Quốc 11. Như vậy,
với truyền thống buôn bán của mình, những di dân người Hoa đầu tiên này đã
không những kéo một bộ phận lớn các thương nhân Trung Hoa từ chính quốc
sang mà còn thu hút giới thương nhân của nhiều nước của nhiều nước đến Đồng
Nai – Gia Định buôn bán, thúc đẩy nền thương mại ở đây phát triển mạnh mẽ.
Chính vì thế, khi cho rằng những nhóm di dân người Hoa này chính họ là “tác
giả” của các trung tâm thương mại sầm uất nhất Nam Bộ trong các thế kỷ XVII
– XVIII là Cù lao Phố, Mỹ Tho đại phố và Hà Tiên.
Với sự phát triển bước đầu, vùng đất Đồng Nai – Gia Định ngày càng trở
thành một địa chỉ hấp dẫn đối với các lưu dân người Việt từ những khu vực phía
Bắc tràn vào.Chính vì thế, dân số của khu vực này ngày càng gia tăng. Riêng ở
Cù lao Phố trên cơ sở của 3 xóm cũ đã phát triển thành ba thôn: Nhất Hòa, Nhị

Hòa và Tam Hòa với 12 ấp là: Tâm Mỹ, Hưng Phú, Thành Hưng, Bình Kính,
Bình Tự, Tân Giám, Bình Quảng, Long Quới, Hòa Quới, Bình Hòa, Bình
Xương và Tân Hưng12. Đến năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược thì
dân số ở khu này đã lên tới 40.000 hộ tương đương với khoảng 200.000 người,

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Tập thượng, bản dịch của Tu Trai
Nguyễn Tạo, Nhà văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa – Bộ QGGD Sài Gòn xuất bản năm 1959, Tr.
25 – 26
12
Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb Đồng Nai. 1998, Tr. 82
11

Trang
11


đây chính là nguồn nhân lực đầu tiên làm biến đổi bộ mặt kinh tế Đồng Nai –
Gia Định.
Tóm lại, từ một vùng đất hoang vu, hiểm trở, khó khan ở đầu thế kỷ XVI,
từ mồ hôi, xương máu của các lưu dân người Việt, người Khơ me và cư dân bản
địa, sau một quá trình khai phá, vùng Đồng Nai – Gia Đinh đã trở thành một
vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, đầy sinh khí và hứa hẹn. Với vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên thuận lợi và cùng với sự hiện diện của các di dân Trung Hòa với truyền
thống buôn bán đây không những là vùng đất giàu tiềm năng về nông nghiệp mà
còn là khu vực đầy tiềm lực và thương mại. Đấy chính là một trong những
nguyên nhân đã giải thích tại sao ngay từ rất sớm các chúa Nguyễn đã quan tâm
đến vùng xa xôi, hẻo lánh này. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã viết
thư cho vua Chân Lạp yêu cầu được “mượn” hai thị trấn Prei Nokor và Kas
Krobey để đặt các trạm thu thuế thương chính. Với sự kiện này, chúa Nguyễn
đã bước đầu đặt được ảnh hưởng và quyền lực của mình lên vùng đất Nam Bộ

ngày nay. Đến năm 1679, bằng việc giải quyết cho các nhóm di dân người Hoa
vào sinh sống tại vùng đất Đồng Nai – Gia Định, các chúa Nguyễn lại càng
củng cố hơn ảnh hưởng quyền lực ấy. Đến khi đã có đủ cơ sở xã hội và kinh tế
vững chắc ở vùng đất mới, năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu đã quyết định sai
thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đem quân đi kinh lược Cao Miên, lấy đất Đồng
Nai lập thành phủ Phước Long, đặt trấn Biên doanh (tức Biên Hòa ngày nay),
lấy đất Sài Gòn lập huyện Tân Bình, đặt Phiến trấn doanh, cả hai huyện điều
thuộc phủ Gia Định13. Sự kiện này đánh dấu đất Đồng Nai – Gia Định chính
thức thuộc về quyền cai quản của chính quyền phong kiến Đàng Trong và trở
thành bộ phận thiêng liêng của lãnh thổ Đại Việt.
 Danh xưng Đồng Nai.
Cho đến tận hôm nay, người dân Đồng Nai vẫn chưa hết phân vân về tên
gọi của dòng sông ấy. Cũng đã có nhiều cách suy diễn khác nhau được đưa ra.

13

Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp ký, T.1, Bản Dịch của Hoa Bằng, Nxb KHXH, HN. 1975, Tr. 153


Chúng tôi thấy cần phải bàn bạc để tìm ra cách lý giải thỏa đáng, có sức thuyết
phục.
Xin mạn phép đặt ra vấn đề đầu tiên: Tên sông Đồng Nai có trước hay tên
đất có trước. Người ta lấy song để gọi tên vùng đất nó chảy qua hay lấy tên
vùng đất ấy đặt tên sông? Ngay cả khi sông Đồng Nai có tên chữ là Phước Long
mượn tên dòng sông hay ngược lại?
Các danh xưng Thù Nại, Nông Nai rồi Lộc Dã, Lộc Động là sự chuyển
dịch ngôn ngữ từ Đồng Nai ra hay ngược lại?
Tác giả Bình Nguyên Lộc trước kia và Hoàng Thơ hiện nay cho rằng
danh xưng Đồng Nai là sự chuyển dịch từ ngôn ngữ Mạ: Đah Đong (sông lớn,
sông cái).

Trên cao nguyên Lang Biang, ở độ cao xấp xỉ 2.000 so với mực nước
biển, có 2 dòng sông Đah Nhim và Đah Dung (người Pháp ghi là Rivivere), 2
dòng sông nhỏ hợp lưu và bắt đầu từ điểm hợp lưu ấy người Mạ gọi là Đah
Dong (cũng từ đây người Pháp ghi là fleuve: sông). Trên đường xuôi đổ xuống
bình nguyên, sông còn nhận nước của hàng trăm suối mà 3 phụ lưu chính tên
Đah Wê, Đah Rnga (tức sông La Ngà) và Đah Rlung (tức Sông Bé). Đến bậc
thềm địa chất thứ 9, sông đổ vào bình nguyên châu thổ và xuôi ra Biển Đông.
Ở đôi bờ dòng sông đi qua, từ cuối thế kỷ trước, các nhà khảo cổ Pháp và
nhất là sau giải phóng khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện, khai quật và ghi tọa
độ hàng trăm địa điểm có dấu vết của nền văn minh cổ lưu vực sông Đồng Nai.
Tuy nhiên, bối cảnh xã hội, trình độ văn minh và sự phát triển ngôn ngữ thế nào
chứng minh là người thời đại đồng đã gọi sông Đồng Nai là Đah Đong thì xin
trân trọng.
Dù sao, thì nhiều người nhìn nhận cấu trúc ngôn ngữ danh xưng Đồng
Nai là thuần Việt.
Những địa danh gắn với con vật móng guốc, ăn cỏ này không ít. Xin nêu:
Đồng Nai, Nhà Nai, Hố Nai, Hang Nai, Bàu Nai…

Trang
13


Còn đồng thì vô số: Đồng Tràm, Đồng Lách, Đồng Đế, Đồng Tranh, Đồng
Môn….
Đâu phải suy diễn cao xa. Theo Nguyễn Đình Đầu, danh xưng Đồng Nai
được phiên âm ra tiếng Pháp là Donnai với chữ I tréma và các giáo sĩ Bồ Đào
Nha ghi Dounai trên chữ u có dấu grouppetto đọc là Đồng Nai, từ giữa thế kỉ
17, người Pháp cũng định nghĩa Đồng Nai = champ des cerfs, là đồng có nai.
Chúng ta thử phác họa một bức tranh miêu tả đoàn người tả tơi, đói rách vì cuộc
chiến cốt nhục tương tàn, vì chế độ cai trị hà khắc và cả thiên nhiên tàn phá, họ

dùng thuyền nhỏ hoặc đi ven biển đến Mô Xuy (Mô Xoài) tức vùng Bà Rịa bây
giờ, họ dừng lại ít lâu, rồi ngược dòng sông tiến vào sâu trong đất liền.
Thuở ấy, đất đai hoang rậm nhưng màu mỡ, khí hậu nhu hòa, sản vật phong
phú. Tuyệt nhiên sử sách chưa bao giờ ghi nhận sự xung đột nào giữa lưu dân
Việt với thổ dân bản địa.
Nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Đồng Nai rất cần có tư duy sông nước
(tạm gọi như vậy), vì nếu lấy mốc 3 thế kỷ thì trước đó và cả sau đó phương tiện
duy chuyển chủ yếu là thuyền bè vì đường bộ phải mất vài trăm năm mới gọi là
hoàn chỉnh. Cách nay khoảng nữa thế kỷ, các loại phương tiện vận chuyển vẫn
là xuồng, ghe, bè,thuyền buồm…Ta thử hình dung những con thuyền độc mộc
nương theo thủy triều ngược dòng Đồng Nai với đôi bờ mở rộng, rừng nguyên
sinh giăng kín, thỉnh thoảng một trảng cỏ mênh mông trải xanh mượt hội tụ đủ
quần thể động vật hoang dã đặc trưng rừng nhiệt đới từ loài bò sát, gặm nhấm,
lông mao và lông vũ, ăn cỏ và ăn thịt, to lớn như voi, min, tê giác, nhỏ như sóc,
nhím, chuột….và đông nhất vẫn là họ hàng nhà nai, mểnh, mang…chúng thích
sống thành bầy phơi mình trên các đồng cỏ ven sông, hồ lớn, rừng rậm.
Như đã nói cái thuở “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai”, những
thế hệ lưu dân đầu tiên Nam tiến là những nông dân nghèo, thất học làm sao có
được khái niệm Lộc Dã, Lộc Động. Với cái nhìn trực giác họ gọi vùng đất mới
là Đồng Nai là lẽ dễ hiểu. Mai sau này khi các chúa Nguyễn tổ chức thiên di
quy mô dân Ngũ Quảng vào, với sự hiện diện của các cụ đồ, quan lại, mới có xu


hướng Hán hóa các địa danh xứ Đồng Nai. Người ta gọi Rạch Cát là Sa Hà, núi
Nứa là Trúc Sơn, Nhà Bè là Phù Gia, Bến Nghé là Ngưu Chữ, Sông Bé là Tiểu
Giang…..
Sông Đồng Nai lúc ấy có tên là Phước Long Giang, là Đại Giang. Đại
Giang là sông cái, sông lớn, sông mẹ đồng nghĩa với Đah Đong của ngôn ngữ
Mạ…
Nông Nại, Thù Nại, Chu Nại trong các văn liệu Hán từ có thể thế tất để

kiểm chúng thêm, vì rõ ràng trong âm tiết ngôn ngữ Hoa dù là Quảng Đông,
Triều Châu hay Phước Kiến đều không có âm phụ “Đ”, họ phát âm “Tồng chí,
Tồng Nai” và ghi lại bằng Hán tự ắt sẽ có sai biệt, điều này khả dĩ tin được.
Đồng Nai là vùng văn hóa, và không mãi đến giờ mới là vùng động lực phát
triển của quốc gia. Kể từ khi lưu dân Ngũ Quảng đặt chân khai phá và cũng kể
từ khi vùng đất hoang sơ hóa thân vào lãnh thổ Đại Việt, vùng đất hứa năng
động, giàu tiềm lực và dễ thích ứng cùng với Đồng Nai bao dung, nhân hậu,
chung thủy nhưng rất đỗi can trường đã vì cả nước, cùng cả nước làm nên hào
khí Đồng Nai, vì cả nước cùng cả nước bước vào trang sử hào hùng của lịch sử.
2. Thành Cổ Biên Hòa và dấu ấn một thời lịch sử
 Đôi nét về thành cổ Biên Hòa.

Nếu bạn có dịp bạn đến với Thành Phố Biên Hòa – Đồng Nai để du lịch
và khám phá, những thắng cảnh đẹp nơi đây, thì bạn đừng quên ghé thăm thành
Cổ Biên Hòa. Thành cổ nằm ở đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh,
Thành Phố Biên Hòa. Nếu bạn không chú ý, bạn sẽ không thấy thành cổ mà chỉ
thấy siêu thị, chợ, và những tòa nhà mới xây to đẹp, còn thành cổ thì nằm khiêm
tốn, khuất sau cổng của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Đồng Nai. Vết tích
còn lại là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong, bên trong có ngôi nhà
kiến trúc theo kiểu Pháp. Có câu nói ví thành cổ như sau: “Thành cổ ở đó, như
một lão già sắp tàn hơi, nằm nghiền ngẫm sự đời qua bao thế kỷ, và nhìn đám
hậu sinh đang xôn xao giữa chốn phồn hoa”. Theo thư tịch cổ, từ thế kỷ XIV-

Trang
15


XV, thành do dân Lạp Man xây đắp bằng đất với tên gọi “Thành Cựu”14. Thời
nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền “Thành Cựu”, có mở rộng hơn,
với tên gọi thành Biên Hòa. Theo tác giả Lương Văn Lựu viết trong Biên Hòa

sử lược15, thì “Thành được xây dựng vào năm Gia Long thứ 15 (tức 1816) tại
địa hạt thôn Bàn Lân (thôn Tân Lân) huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa cũng
với tên gọi là “Thành Cựu” do dân Lạp Man xây đắp bằng đất.
Chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung
quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và một kỳ đài (phía chánh
điện). Mỗi cửa ngõ có bắc một cầu đá ngang qua hào để làm lối lưu thông ra
vào”16. Thành được xây theo hình cánh cung, đến năm Minh Mạng thứ 18 (tức
1837), Thành Cựu được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Thành Biên
Hòa.
Những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho
biết, Thành Biên Hòa có một vị trí rất quan trọng trên nhiều mặt. Đây là ngôi
thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu
ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa
Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này.
Phải công nhận mà nói rằng: thành Biên Hòa xưa với những dấu tích còn
sót lại trong phạm vi nội ô thành phố Biên Hòa hôm nay là một điều may mắn
cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua 170 năm được tạo dựng (tính từ mốc nguyên
khởi), bao biến cố của thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản
vật thể thì công trình cổ thành Biên Hòa vẫn còn những dấu tích khá rõ nét, hiện
diện trong đời sống hiện tại.
Trong diễn trình lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Cổ thành
Biên Hòa là một dấu chứng gắn liền với những sự kiện quan trọng. Trong lý lịch
di tích thành Biên Hòa của Nhà Bảo tàng Đồng Nai thực hiện, phần nội dung đã
nêu khá đầy đủ những chi tiết này. Và có lẽ, chúng ta đồng thuận những trích
Chân Lạp Phong Thổ Ký, Chu Đạt Quan.
Biên Hòa Sử Lược, NXB Đồng Nai, Tr 12.
16
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tập hạ, sdd, Tr. 116
14
15



dẫn, ghi chép hầu hết từ trong tư liệu của Đại Nam nhất thống chí của triều
Nguyễn hay Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
 Lối kiến trúc của thành cổ.
Theo một số tư liệu, chúng ta biết rằng, cổ thành Biên Hòa được bắt đầu
xây đắp bằng đất vào tháng 6 năm 1834 với “4 mặt thành đều dài 70 trượng,
cao 4 thước 3 tấc, dày 1 trượng, mở 4 cửa. Đào hào rộng 2 trượng, sâu sáu
thước”17. Quan Khâm sai Đoàn Văn Phú chịu trách nhiệm trong việc trù tính
việc làm. Vua Minh Mạng đồng ý cho việc chọn lấy 1.000 dân trong hạt đứng ra
xây đắp, số dân làm thành được hậu cấp cho tiền gạo.
Từ sau sự kiện khởi binh “Lê Văn Khôi”, 3 năm sau, vua Minh Mạng
thấy việc xây thành Biên Hòa “là công trình trọng đại”, chuẩn cho xây thành
Biên Hòa và sai phái trách nhiệm cho nhiều vị tướng quân.
Đợt xây dựng này được tiến hành vào tháng Giêng năm 1838 có quy mô
lớn bằng đá ong với: “chu vi dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng 5
thước, hào đào rộng 3 trượng, cửa thành có 4 cửa”. Vua Minh Mạng sai phát
4.000 binh dân làm việc và phái Vệ úy Vệ tả bảo nhị là Nguyễn Văn Gia, Thự
phó Vệ úy Tiền doanh Long Võ là Phan Văn Lăng, Vệ úy Tả thủy Gia Định là
Lê Văn Tự, Vệ úy Bình Thuận là Tôn Thất Mậu trông coi việc thực hiện.
Ngoài ra còn có một số tư liệu khác cũng nhắc đến thành Biên Hòa với
một số chi tiết khác như: có dựng 1 kỳ đài, mỗi cửa ra vào đều có bắc cầu đá
ngang qua hào để làm lối ra vào, hào rộng 4 trượng, sâu 6 thước, tường thành
dày trượng.
Nếu lấy theo chuẩn thước đo “quan mộc xích”, thước này dài 0m424 thời
Lê nhưng vẫn được dùng trong thời vua Minh Mạng thì các thông số về thành
cổ Biên Hòa được quy đổi 1 trượng bằng 4m 24,1 thước bằng 0m424 thì chu vi
338m (khoảng 1.433,12m), tường cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3,604m), dày 1
trượng (khoảng 4,24m), hào rộng 4 trượng (khoảng 16,96 m), sâu 6 thước
(khoảng 2,544 m).Một số giả thuyết khác cho rằng, thành Biên Hòa được xây

17



Trang
17


dựng trên dấu tích cũ của một thành trì của dân Lạp Man (Chân Lạp). Theo tác
giả Lương Văn Lựu thì đời Gia Long vào năm 1816 thì thành Biên Hòa đã được
xây. Trước tiên, thành Biên Hòa đắp bằng đất, sau này, xây bằng đá ong. Cổ
thành Biên Hòa là một công trình phòng thủ quân sự của triều Nguyễn ở vùng
đất Biên Hòa. Hệ thống bố phòng ở Biên Hòa lúc bấy giờ còn có các trạm, lũy,
tấn, đồn thủ tại các nơi xung yếu. (Cũng cần nói thêm: tỉnh Biên Hòa lúc bấy
giờ gồm phủ Phước Long và 4 huyện: Phước Chánh, Phước An, Bình An, Long
Thành. Đối chiếu với địa giới hiện nay thì nó bao gồm các tỉnh hiện nay như:
Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước và một phần đất của
các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận). Ngoài chức năng
của một trung tâm các hoạt động nhiều mặt của xã hội đương thời, cổ thành
Biên Hòa đóng góp rất quan trọng trong việc bố phòng, trấn an vùng đất Biên
Hòa – Đồng Nai. Thành Biên Hòa là điểm chỉ huy của các cuộc trấn áp đối với
sự nổi dậy phá hoại của các tộc người miền núi không tuân phục triều Nguyễn,
triều Nguyễn gọi chung là man sách. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bởi
xu thế chủ hòa của một số danh tướng đương thời nên đại quân được tăng
cường đến, sung quân tại chỗ của Biên Hòa đã không ngăn được bước tiến của
quân thù. Cả thành Biên Hòa rơi vào tay giặc và bắt đầu cho thời đọan lịch sử
đau thương dười sự thống trị ngoại xâm từ Tây phương. Trong sự kiện này,
thành Biên Hòa luôn luôn được đánh giá có một vị trí chiến lược quan trọng. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của giai đọan lịch sử này, nhưng phải cần
nhắc rằng, một địa thế quan trọng trong thời điểm lịch sử này là thành Biên Hòa

đã không được sử dụng đúng với tầm của chính nó.
Trong những giai đọan lịch sử về sau, thành Biên Hòa gắn với những sự
kiện lịch sử đáng chú ý như trận đánh của nhóm hội kín Lâm Trung Trại vào
ngày 14 tháng 2 năm 1916. Đại cuộc bất thành, một số nghĩa dõng của nhóm bị
quân Pháp dùng nhiều phương cách bắt và tử hình. Tinh thần yêu nước và quật
khởi xem nhẹ cái chết vì đại nghĩa dân tộc của những người lãnh đạo Lâm
Trung Trại được người dân Biên Hòa ghi nhớ, tạc lòng. Những người lãnh đạo


nhóm yêu nước bị Pháp tử hình được nhân dân địa phương thờ phụng tại chùa
Bửu Hưng (người dân quen gọi là chùa Cô Hồn – một trong những di tích đã
được tỉnh Đồng Nai xếp hạng).
 Những phát hiện mới về thành Cổ Biên Hòa.
Việc khảo sát khảo cổ nhằm nghiên cứu, cung cấp các dữ liệu góp phần
xác định phạm vi dấu tích của Thành Biên Hòa xưa với những di sản văn hóa
còn tiềm ẩn trong lòng đất, qua đó đề ra những giải pháp cụ thể về bảo vệ và
phát huy giá trị của di tích này. Trong tháng 2-2012, Đoàn thăm dò khảo cổ đã
mở 14 hố thám sát (10 hố trong khu vực dự án Sonpart và 4 hố trong nội
Thành). Tất cả các hố thám sát phải đạt độ sâu ±2m (độ sâu địa tầng đảm bảo
phát giác đầy đủ tầng văn hóa nguyên thủy nhất ở Biên Hòa nếu có; bởi theo
kinh nghiệm điền dã hàng chục năm ở Đồng Nai, các trầm tích xưa nhất hiện
biết ở Biên Hòa và vùng ven chỉ phát lộ ở độ sâu trung bình từ 50-160cm; ví
như Bình Đa = 140-160cm, Gò Me = 50-60cm, Cái Vạn = 50-60cm, Gò Dưa =
80-90cm, Bưng Bạc = 90-100cm, Cầu Sắt = 70-75cm, Đồi Mít = 120140cm…).18
Lớp văn hóa ghi nhận được ở đây có độ dày từ 0,9m tới 1,4m, hiện vật đa
số thu được là đồ gốm, sành dân dụng và một số hiện vật khác như mảnh ngói,
vòng đồng… Các nền móng kiến trúc được phát lộ có liên quan trực tiếp tới di
tích Thành Biên Hòa giai đoạn Pháp sử dụng như móng gạch đá ong, gạch vồ,
gạch thẻ, đá, đường ống nước bằng sắt... Bước đầu nghiên cứu khảo cổ học
Thành Biên Hòa đã khám phá được ba khối nguồn liệu liên quan trực tiếp đến

đời sống cư dân cổ chính “trên mảnh đất này”, dàn trải trong khung niên biểu
khá lớn từ thời kỳ truyền thống văn hóa Óc Eo ở Biên Hòa và Đông Nam bộ
hiện hữu thịnh đạt nhất (thế kỷ VI-VII AD) cho đến các thời kỳ hậu Óc Eo,
Trung và Cận đại. Đợt thăm dò khảo cổ học Thành Biên Hòa đã đạt được yêu
cầu khoa học quan trọng nhất đó là thu thập toàn bộ dữ liệu khảo cổ học quan
trọng liên hệ đến di tích lịch sử - văn hóa - kiến trúc quân sự này.
18



Trang
19


Khối di tồn vật thể thứ nhất ở đây chính là các dấu vết cư trú thời Cổ sử
thuộc truyền thống văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo với những mảnh ngói móc mang
hình Phật, các mảnh hỏa lò “kiểu cà ràng” và các sưu tập gốm mịn trắng cùng
các loại hình gốm dân dụng tiêu biểu của thời này mà bước đầu theo nhận đoán
của chúng tôi thuộc thời phát triển của truyền thống văn hóa Óc Eo (từ thế kỷ
VI-VII AD trở đi) trên đất Biên Hòa xưa. Phát hiện này đã củng cố thêm về sự
hiện diện của các chứng tích vốn có ở chính Thành cổ Biên Hòa và vùng ven từ
nhiều năm trước.
Khối di tồn vật thể thứ hai chính là các sưu tập mảnh thuộc đồ sành các
loại; chủ yếu là đồ gia dụng từ nhiều nguồn lò Việt vùng Biên Hòa và cả ở miền
Nam Trung bộ (Việt Nam), có cả gốm Gò Sành và gốm Champa, có cả gốm
Khmer…; cùng các sưu tập lớn hơn của nhiều đồ gốm tráng men từ đồ dân
dụng đến đồ kiểu, chủ yếu gốm hoa lam các lò gốm tỉnh ở miền Nam Trung
Quốc (khối lượng mảnh lớn tới vài ngàn đồ sứ cần nhiều thời gian chỉnh lý và
đối sánh hơn). Những tư liệu khảo cổ học này chứng thực quá trình tụ cư sinh
sống của làng xưa Tân Lân thời Trung và Cận đại hiển nhiên cũng từ trước khi

định cả cương vực này thành tỉnh.
Khối di tồn vật thể thứ ba được ghi nhận liên quan trực tiếp đến các
đường móng nhà bằng đá ong, các sàn bê tông và căn hầm dưới lô cốt của
Thành cổ Biên Hòa xuất lộ trong các hố đào ở nội thành hiện tại. Những nhận
thức chân xác hơn về tuổi của các móng kiến trúc này và công năng căn hầm
dưới lô cốt Thành Biên Hòa cần kiểm chứng thêm ở các chương trình tôn tạo di
tích. Trước mắt, toàn bộ hiện vật ở các phân lớp địa tầng trên cùng di tích
Thành Biên Hòa và vùng ven có thể liên quan đến công trình phòng thủ này
(gạch kiến trúc bằng đá ong, gạch đinh nung đặc, nguyên liệu ngói lợp, gốm sành - sứ cận, hiện đại, các vật dụng sinh hoạt các thời như đồ sứ trắng cao cấp
châu Âu, vỏ chai rượu Tây, các đồ quân dụng sản xuất từ Pháp và Mỹ, đầu đạn
các loại…)


Di tích “làng cổ Tân Lân dưới chân Thành Biên Hòa” vừa được khám phá,
đào thám sát hệ thống lớn theo các trầm tích cư trú dày đặc và liên tục nhiều thế
kỷ chính là “Di chỉ khảo cổ học Lịch sử” có khả năng cung ứng cho chúng ta
nhiều tài liệu “phục sử” quý báu ở chính Biên Hòa nói riêng và cả Nam bộ nói
chung. Bởi vì, “Khảo cổ học lịch sử phải lấy việc khôi phục toàn diện đời sống
của cư dân trên các miền đất nước trong lịch sử làm mục tiêu. Đặc biệt, phải chú
trọng những mặt mà nguồn sử liệu viết không thể giúp chúng ta được… Không
thể chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các đình chùa đền tháp trên mặt đất hay dưới
đất, cần khai quật phân tích các loại hình mộ khác nhau mà chúng ta đều biết
rằng thế giới người chết phản ánh thế giới người sống. Nhưng quan trọng hơn mà điều này từ trước chúng ta chưa làm được - là phải khai quật các di chỉ cư
trú thời kỳ lịch sử. Chỉ có khai quật các di chỉ cư trú chúng ta mới nhận thức
được một cách toàn diện đời sống dân cư qua các thời kỳ lịch sử” theo Hà Văn
Tấn, năm 1991.
 Dấu ấn một thời lịch sử của thành Cổ Biên Hòa
Khi Pháp chiếm thành Gia Định ngày 17/02/1859 và hai năm sau (ngày
24/02/1861), thành Kỳ Hoà (Chí Hoà) cũng bị thất thủ. Quân Pháp lo an ninh,
lập trại đồn binh và mở rộng khu vực kiểm soát.

Từ Sài Gòn, quân ta phải rút lui lần, trước tầm truy kích của địch quân
với một hoả lực hùng mạnh. Kinh lược đại thần Nguyễn Tri Phương, Thống đốc
quân vụ Tôn Thất Cáp, Tham Tán Phạm Thế Hiển rút về Thôn Tân Tạo, phủ
Tân Bình. Quân Pháp vẫn đuổi đánh, quan quân ta lại phải chạy thẳng về Biên
Hoà. Phạm Thế Hiển về đến đây được mấy hôm thì chết.
Biên Hoà là trung tâm kháng chiến chống Pháp, từ trước do Tôn Thất
Hợp điều khiển. Cùng lúc, các thứ thần tỉnh Gia Định, như Tuần Vũ Đỗ Quang,
Bố Chánh Đặng Công Nhượng, Án Sát Phạm Ý cũng bị truy tầm ráo riết, phải
do sông ngòi đồng bải, lần theo thượng đạo Tây Ninh. Trọng pháo của Pháp
đánh đến Trảng Bàng. Pháp thuyền La Dragonne theo đuổi đến Tây Ninh. Từ
đây, đoàn quan quân ta lại phải tìm đường trốn sang Biên Hoà để hợp
Trang
21


với Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Cáp. Lúc này người dân Biên Hòa đã xây
đắp những hộc đá và dị vật xưống đáy sông Đồng Nai nhằm ngăn chặn tiến
quân cửa hải quân Pháp19.
Kinh lược Nguyễn Tri Phương bị thương phải lui về Phan Rí điều trị.
Ngày ra đi người dân Biên Hòa tiễn đưa vị võ quan mà dân ai cũng mến phục,
hẹn ngày trở lại đánh Pháp.
Vua Tự Đức phong cử Thượng Thư Bộ lại Nguyễn Bá Nghi chấp quyền
khâm sai đại thần, Tôn Thất Đính làm đô đốc, điều động 4.000 binh sĩ vào Biên
Hoà tiếp viện, để chống cự với Pháp. Đến nơi, Nguyễn Bá Nghi liền lập hội
đồng nghị tội những kẻ chiến bại. Hội đồng đề nghị giải chức Nguyễn Tri
Phương, Tôn Thất Cáp và truyền giam hậu các thuộc quan, tỉnh thần.Vua xét
công cho hưởng trường hợp giảm khinh, giáng Nguyễn Tri Phương xuống
Tham Tri, Tôn Thất Cáp, Viên Ngoại và các liên thuộc cũng được ân giảm
theo. Đến phiên Nguyễn Bá Nghi, phải ở trong tình thế các tiền nhiêm.
Liệu thế đương cự không kham, từ Biên Hoà, Nguyễn Bá Nghi gởi thư

nghị hoà với Charner, giao Tri Phủ Khá mang xuống đồn Pháp. Cuộc hội kiến
mở trên tàu Primauguet.
Pháp đòi 12 khoản, trong có 2 việc chuyển nhượng thành Gia Định, 2 tỉnh
Định Tường, Thủ Dầu Một và bồi thường 4 triệu bạc là nặng nhất. Riêng giới sĩ
phu, nghĩa dũng xứ Biên Hùng đều phẩn uất. Ở khắp nơi, nhiều người nổi lên
chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp.
Nguyễn Bá Nghi phúc trình hội nghị về Kinh lấy lý: nếu Pháp đánh, đòi
thêm đất, bấy giờ công chẳng được, thủ không xong, mà hoà cũng không được
vẹn.
Nhà vua không chấp thuận, châu phê khuyến cáo Nguyễn Bá Nghi phải
làm thế nào để tỏ “gió to nhưng vỏ cứng”.
Tháng 6/ 1861, Nguyễn Bá Nghi nhận thấy mình ở trong hoàn cảnh khó
khăn, tiến thóai lưỡng nan, nên cùng với Tân Dương Trần Đình Túc dâng sớ lần
19




nữa, tấu trình tình hình Biên Hoà rất nguy cấp, mà hoà cũng không xong, thì chỉ
còn cách cầu ngoại viện.
Vua quở Nguyễn Bá Nghi trốn trách nhiệm, có tinh thần cầu an, bạc
nhược, trong đó có câu : “ Bọn ngươi đều vô dụng, đừng ngó mặt ta nữa !”
Trong khi đó Pháp nghĩ đến việc mở rộng phạm vi kiểm soát về mặt Bắc, để
bảo vệ Tổng Hành Dinh.
Hai mục tiêu chính mà chúng nhắm thẳng vào, là thành Gia Định ở bên
cạnh và tỉnh Biên Hoà rộng lớn, nơi tập trung quân chủ lực của triều đình Huế,
đặt dưới sự thống lãnh của khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi. Chính từ hướng
này, quân ta thường phát xuất những cuộc tấn công đồn trại tiền tuyến của
Pháp.
Biên Hoà có sông ngòi chằng chịt, bàu vũng mênh mông, có đồng chồi

rừng rậm, rất thuận cho chiến dịch di kích.
Bên Tả, có xứ Đá Hàng (Bến Gỗ Phước Tân) núi non hiểm trở, có thể che
chở quân đội tiến lui. Và bên Hữu, có đường liên lạc với phủ Phước Tu
(Duyên Hải Vũng Tàu) để vận tải lương thực hoặc lấy quân tiếp viện từ Khổng
Tước Nguyên (Gò Công, Trau Trảu) chuyển sang. Để đề phòng án ngữ, ta đã
thiết lập cơ cấu chiến lược và đóng quân rải rác khắp nơi.
 Suối sâu ( Thâm tuyền ) Làng Giao (đồn điền ông Quế) Long Khánh.
 An Thạnh và Bình Thuận (Đồng Môn) do phó đề đốc Lê Quang Tiến
trấn giữ.
 Cửa biển Cần Giờ và Phước Thắng. Thỉnh thoảng để chứng tỏ sự hiện
diện, Pháp mở những cuộc hành quân lẻ tẻ đến các đồn luỹ ta, nhưng
đều bị đẩy lui. Số đông Việt quân thiện chiến, lui lần về đặt căn
cứ trọng yếu tại Phước Tuy.
Dân Biên Hùng lên đường kháng chiến, để lại một bên tình nghĩa ái ân:
“ Giặc Tây đánh tới Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ, đợi chờ uổng công”
Ngày 12/12/1861 Pháp đưa 4 đạo quân:
Trang
23


1) Đoàn chiến thuyền Renommee, Ondine, Alarme, tiến lên phá các đồn luỹ
ở hai bên mé sông Đồng Nai và các chướng ngại đặt ở lòng sông.
2) Pháo binh và bộ binh Tây Ban Nha do thiếu tá Comle hướng dẫn đến Đôn
Lộc ( Tân Phú ).
3) Trung Tá Domenech Diego chỉ huy đại đội Thuỷ quân lục chiến Tây Ban
Nha và kỵ binh, cùng hai khẩu súng 4 nòng, từ mặt Thủ Đức tiến lên.
4) Trung tướng Lebris điều động 2 đại đội Thuỷ Quân Lục Chiến, sẵn sàng
ở bờ sông, sát mặt thành.
 Bốn đơn vị này được đặt dưới sự tổng chỉ huy của chủ tỉnh Renommee.

Riêng đô đốc thuỷ sư Page chỉ huy đoàn tàu từ sông sài gòn ra Nhà Bè,
ngược sông Đồng Nai lên phía Đồng Bảng (Tân Ba).
Với giản Tề trận chiến như trên để thị uy, áp đảo tinh thần ta, Đô Đốc
Bonard gởi một tối hậu thư đặt điều kiện đầu hàng, hạn kì cho khâm sai Nguyễn
Bá Nghi và tuần phủ lãnh bố chánh Nguyễn Đức Hoan, nhưng quan quân ta giữ
thái độ im lặng không phúc đáp.
Sáng 16/12/1861 nước lớn, chiến hạm Pháp lần sát vào bờ. Trung tá
Domenech Diego bất thình lình cho khai hoả, nhả đại bác vào thành, để yểm trợ
cho Thuỷ Quân Lục Chiến đổ bộ.
Thành bị công hãm quá ồ ạt, Tuần Phủ Nguyễn Đức Hoan và Án sát Lê
Khắc Cần chống đỡ không nổi, vì hoả lực mạnh của địch, nên phải bỏ thành kéo
tàn quân rút về Hồ Nhỉ ( Phước Long – Nhơn Trạch ).
Ngày 17/12/1861 Pháp tràn vào thành tịch thu của ta :
 48 khẩu đại bác
 18 giang thuyền
Trong trận này, quân ta chết rất nhiều. Chính Nguyễn Bá Nghi cũng đã
cho lui bộ chỉ huy về đặt tại Long Kiên và Long Lập ( Phước Tuy ).
Biên Hoà thất thủ, lòng dân ly tán. Các gia đình đùm đề khăn gói dắt
vợ cõng con lánh nạn trong hoàn cảnh loạn lạc:
“ Bến Nghé : bạc tiền tan bọt nước,


Đồng Nai: tranh ngói nhuốm màu mây !”
(CHẠY GIẶC của Nguyễn Đình Chiểu)
Domenech Diego được tạm giao trấn giữ thành Biên Hoà. Nhận tin cấp
báo Việt quân đại bại , vua Tự Đức phong tuần phủ Đỗ Quang thay thế Nguyễn
Đức Hoan, để tiếp tục điều khiển kháng chiến, còn lãnh nhiệm khuyến mộ các
nơi ứng nghĩa, để chống Pháp với điều kiện :
 Chiếm được phủ huyện nào, thì triều đình cho làm quan cai trị Phủ,
huyện ấy.

 Thu hồi được thành nào, thì cho tập tước thành ấy.
 Binh sĩ có công thì được phẫm hàm.
Được chiêu mộ với mấy điều lợi này, nhân dân hưởng ứng rất đông trong
cuộc kháng Pháp. Mặc dầu thành đã chiếm, Triều đình vẫn lo khôi phục Nguyễn
Tri Phương trước bị giáng cấp nay được Trương Đăng Quế đề tấu, vua nghị phê
cho phục nhiệm Binh Bộ Thượng Thư Sung Đổng Nhung quân sự, nắm lấy binh
quyền, để tái chiếm Biên Hoà. Tôn Thất Cáp được phục tước Binh Bộ Thị Lang
Sung Phụ tế. Còn Nguyễn Công Nhàn, Hàm Quản Cơ Sung Thương biện.
Trái lại, vì chủ trương cầu hoà, khâm sai Nguyễn Bá Nghi bị giáng cấp
tham tri phụ tế Bình Thuận.
Sau Nguyễn Đức Hoan bỏ phận sự tại Hồ Nhỉ để chạy về Thắng Hải
( Phước Tuy ), nên bị triều đình cách chúc cho hồi nguyên tịch.
Quân lực Pháp ngày càng được tăng cường , quân ta yếu kém hơn, ngày
càng phải rát lần trong rừng sâu để kháng chiến, nhưng cũng không giành lại
được chủ quyền với Pháp đã mở khu kiểm soát như vết dầu loang, trước sự giúp
đỡ của một vài tên Việt Gian và một số ít dân thích hưởng lạc cầu an.
Những nhà ái quốc, những nhà có tâm huyết là số đông, nhưng thiếu
phương tiện, vũ khí, chiến cụ, dù có áp dụng chiến thuật du kích cũng không
đem lại kiến hiệu nhiều. Những nhóm kháng chiến tan rã dần, những nhà lãnh tụ
chỉ còn mang một hoài bão to lớn, chờ thời cơ để làm lại lịch sử.

Trang
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×