Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

khoa học môi trường Đánh giá hiện trạng và đề xuất biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của hoạt động khai thác tới môi trường nước và môi trường không khí tại mỏ than Núi Hồng–Công ty Than Nú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 64 trang )

1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển, trong quá trình hội nhập
đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và sự mở cửa hòa nhập với các nước
trên thế giới đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của đất nước. Song song với
thành tựu này, chúng ta phải đối mặt với những thách thức liên quan tới vấn
đề môi trường. Với bất kỳ hoạt động kinh tế xã hội cũng như trong đời sống
sinh hoạt con người đều phải sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau. Mặc
dù đó cú nhiều các nhà khoa học kỹ thuật đó tiến rất xa trên con đường tìm
kiếm nguồn năng lượng mới, nhưng chúng chưa thể thay thế cho nhiên liệu
hoá thạch truyền thống như than đá, dầu mỏ. Tình trang ô nhiễm môi trường
đã và đang gia tăng tới mức báo động, nhất là từ hoạt động của các hoạt động
khai khoáng, các khu công nghiệp, các khu đô thị. Điều này đã gây ảnh hưởng
rất lớn tới sức khỏe con người và môi trường sinh thái. Chính vì vậy, khai
thác và sử dụng hợp lý tài nguyên than đá là một trong những nhân tố để thúc
đẩy nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia trên thế giới. Việt Nam là một
trong những quốc gia có trữ lượng than đá vào loại lớn và đa dạng trên thế
giới. Tuy nhiên lượng khoáng sản này lại nằm rải rác trong các khu vực với
trữ lượng nhỏ nên không kinh tế trong việc khai thác. Đồng thời, việc khai
thác khoáng sản đó và đang để lại những hệ lụy về môi trường.
Mỏ than Núi Hồng do công ty Than Núi Hồng - VVMI (Chi nhánh
Công ty TNHH Một thành viên Công nghiệp mỏ Việt Bắc - TKV) quản lý.
Nhà máy nằm trên khu vực xã Yên Lãng thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên. Với sản phẩm chính là các loại than phục vụ cho sản suất công
nghiệp. Nhà máy đã cung cấp một lượng than lớn, đáp ứng nhu cầu sử dụng
than cho khu vực phía Bắc.
Nhìn chung trong quá trình khai thác, công ty đã chú trọng tới công tác


bảo vệ môi trường không khí, nước thải... Các hoạt động phục vụ cho công
tác bảo vệ môi trường của mỏ than vẫn đang được duy trì và diễn ra hằng


2

ngày. Bên cạnh những nỗ lực của công ty nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của
hoạt động khai thác tới môi trường cũng vẫn còn nhiều bất cập xảy ra trong
khu vực mỏ dẫn đến tình trạng có những hậu quả không tốt xảy ra với môi
trường lân cận xung quanh khu vực của mỏ.
Xuất phát từ thực tế đó, được sự cho phép của nhà trường và Khoa
Tài Nguyên và Môi Trường, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thạc sĩ Dương
Thị Thanh Hà, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện trạng và đề
xuất biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của hoạt động khai thác tới môi
trường nước và môi trường không khí tại mỏ than Núi Hồng – Công ty
Than Núi Hồng – VVMI”
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng môi trường nước và môi trường không khí,
các ảnh hưởng từ hoạt động khai thác của mỏ than Núi Hồng đến môi trường
nước và môi trường không khí.
- Đề xuất các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng của hoạt động khai thác
than tới môi trường cho khu vực khai thác và khu vực lân cận mỏ than
Núi Hồng.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và các vấn đề môi trường
của xã Yên Lãng - huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá đầy đủ tình hình sản xuất và các tác động đến môi trường
của mỏ than Núi hồng.
- Số liệu đo đạc về các thành phần của không khí được lấy trong khu
vực chịu ảnh hưởng của hoạt động sản xuất tại mỏ than Núi Hồng.

- Đề xuất giải pháp phòng ngừa, khắc phục các tác động tiêu cực của
hoạt động khai thác than đến môi trường nước và môi trường không khí.
1.4. Ý nghĩa của đề tài

1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu:
- Áp dụng, bổ xung và phát huy các kiến thức đã học vào thực tiễn.
- Nâng cao hiểu biết về kiến thức môi trường và các phương pháp đánh
giá hiện trạng môi trường.
- Bổ xung tư liệu cho học tập.


3

1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn:
- Đưa ra được các tác động của hoạt động khai thác than tới môi trường
nước và môi trường không khí để từ đó giúp cho đơn vị tổ chức khai thác có
các biện pháp quản lý, ngăn ngừa, giảm thiểu các tác động xấu tới môi trường
nước, không khí, cảnh quan và con người.
- Tạo số liệu làm cơ sở cho công tác lập kế hoạch xây dựng chính sách
bảo vệ môi trường và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã Yên Lãng.
- Nâng cao nhận thức, tuyên truyền và giáo dục về bảo vệ môi trường
cho mọi thành viên tham gia hoạt động khai thác khoáng sản.


4

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài


2.1.1. Cơ sở pháp lý
- Luật Bảo vệ môi trường do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá
XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2006.
- Luật Khoáng sản được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua
ngày 20/3/1996 và Chủ tịch nước ký sắc lệnh ban hành ngày 03/4/1996 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản, ngày 14/6/2005.
- Nghị định số 07/2009/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2009 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoáng sản.
- Quyết định số 769/QĐ-BTNMT ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Bộ
Tài nguyên & Môi trường về việc tổng kiểm tra tình hình thực hiện công tác
quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản.

2.1.2. Cơ sở lý luận
2.1.2.1. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn
chất trong vỏ trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra
các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày.
Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có tác
động mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là
nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người.
Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô
nhiễm như bụi, kim loại nặng, các hoá chất độc và hơi khí độc (SO2, CO,
CH4 v.v...).
Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều cách:
- Theo dạng tồn tại: rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), lỏng (Hg, dầu,
nước khoáng).



5

- Theo nguồn gốc: nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh (sinh
ra trên bề mặt trái đất).
- Theo thành phần hoá học: khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại
màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật
liệu xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy).
2.1.2.2. Tài nguyên không khí và ô nhiễm môi trường không khí
* Tài nguyên không khí:
Tài nguyên không khí hay chính là khí quyển trái đất khá ổn định theo
phương nằm ngang và phân dị theo phương thẳng đứng. Phần lớn khối lượng
5.1015 tấn của toàn bộ khí quyển tập trung ở tầng đối lưu và bình lưu. Thành
phần khí quyển trái đất gồm chủ yếu là Nitơ, Oxy, hơi nước, CO2, H2, O3,
NH4, các khí trơ.
Trong tầng đối lưu, thành phần các chất khí chủ yếu tương đối ổn
định, nhưng nồng độ CO2 và hơi nước dao động mạnh. Lượng hơi nước
thay đổi theo thời tiết khí hậu, từ 4% thể tích vào mùa nóng ẩm tới 0,4 %
khi mùa khô lạnh. Trong không khí tầng đối lưu thường có một lượng nhất
định khí SO2 và bụi.
Trong tầng bình lưu luôn tồn tại một quá trình hình thành và phá huỷ
khí ozon, dẫn tới việc xuất hiện một lớp ozon mỏng với chiều dày trong
điều kiện mật độ không khí bình thường khoảng vài chục xentimet. Lớp khí
này có tác dụng ngăn các tia tử ngoại chiếu xuống bề mặt trái đất. Hiện
nay, do hoạt động của con người, lớp khí ozon có xu hưởng mỏng dần, có
thể đe doạ tới sự sống của con người và sinh vật trên trái đất.
* Ô nhiễm môi trường không khí:
"Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi
quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch
hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi)". (Lưu

Đức Hải, 2001) [6].
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia ra thành
nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo.
- Nguồn tự nhiên:


6

+ Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói bụi
giàu sunfua, mêtan và những loại khí khác. Không khí chứa bụi được phun
lên rất cao và lan toả đi rất xa.
+ Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự nhiên
xảy ra do sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre, cỏ. Các đám cháy
này thường lan truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí.
+ Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất
trồng và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển
tung bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không khí.
+ Các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên cũng
phát thải nhiều chất khí, các phản ứng hoá học giữa những khí tự nhiên hình
thành các khí sunfua, nitrit, các loại muối v.v... Các loại bụi, khí này đều gây
ô nhiễm không khí.
- Nguồn nhân tạo:
Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt
động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương
tiện giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra:
+ Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói
của các nhà máy vào không khí.
+ Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền sản xuất sản phẩm và
trên các đường ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình sản xuất này cũng có thể
được hút và thổi ra ngoài bằng hệ thống thông gió.

Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm: nhiệt
điện, vật liệu xây dựng, hoá chất và phân bón, dệt, giấy, luyện kim, thực
phẩm, các xí nghiệp cơ khí, các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ, giao
thông vận tải, bên cạnh đó phải kể đến sinh hoạt của con người.
* Các tác nhân nào gây ô nhiễm không khí?
Các chất và tác nhân gây ô nhiễm không khí gồm:
+ Các loại oxit như: nitơ oxit (NO, NO2), nitơ đioxit (NO2), SO2, CO,
H2S và các loại khí halogen (clo, brom, iôt).
+ Các hợp chất flo.
+ Các chất tổng hợp (ete, benzen).


7

+ Các chất lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật), nitrat, sunfat, các
phân tử cacbon, sol khí, muội, khói, sương mù, phấn hoa.
+ Các loại bụi nặng, bụi đất, đá, bụi kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm,
niken, thiếc, cađimi...
+ Khí quang hoá như ozôn, FAN, FB2N, NOX, anđehyt, etylen...
+ Chất thải phóng xạ
+ Nhiệt độ
+ Tiếng ồn
Sáu tác nhân ô nhiễm đầu sinh ra chủ yếu do quá trình đốt cháy nhiên
liệu và sản xuất công nghiệp. Các tác nhân ô nhiễm không khí có thể phân
thành hai dạng: dạng hơi khí và dạng phần tử nhỏ. Tuy nhiên, phần lớn các
tác nhân ô nhiễm đều gây tác hại đối với sức khỏe con người.
Tác nhân ô nhiễm được chia làm hai loại: sơ cấp và thứ cấp. Sunfua
đioxit sinh ra do đốt cháy than đó là tác nhân ô nhiễm sơ cấp. Nó tác động
trực tiếp tới bộ phận tiếp nhận. Sau đó, khí này lại liên kết với ôxy và nước
của không khí sạch để tạo thành axit sunfuric (H2SO4) rơi xuống đất cùng với

nước mưa, làm thay đổi pH của đất và của thủy vực, tác động xấu tới nhiều
thực vật, động vật và vi sinh vật. Như vậy, mưa axit là tác nhân ô nhiễm thứ
cấp được tạo thành do sự kết hợp SO2 với nước. Cũng có những trường hợp,
các tác nhân không gây ô nhiễm, liên kết quang hoá với nhau để tạo thành tác
nhân ô nhiễm thứ cấp mới, gây tác động xấu. Cơ thể sinh vật phản ứng đối
với các tác nhân ô nhiễm phụ thuộc vào nồng độ ô nhiễm và thời gian
tác động. (Trung tâm môi trường công nghệ - CIE, 2011) [11].
* Mức độ ô nhiễm không khí được biểu thị như thế nào?
Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ biểu thị ô nhiễm không khí bằng
chỉ số chuẩn ô nhiễm (PSI), theo ngưỡng an toàn và nguy hiểm đối với sức
khoẻ của người. PSI là một chỉ số thu được khi tính tới nhiều chỉ số ô nhiễm,
ví dụ tổng các hạt lơ lửng, SO2,CO, O3, NO2 được tính theo mg/m3/giờ hoặc
trong 1 ngày.
+ Nếu PSI từ 0 - 49 là không khí có chất lượng tốt
+ Nếu PSI từ 50 - 100 là trung bình, không ảnh hưởng tới sức khoẻ của người
+ Nếu PSI từ 100 - 199 là không tốt
+ Nếu PSI từ 200 - 299 là rất không tốt


8

+ Nếu PSI từ 300 - 399 là nguy hiểm, làm phát sinh một số bệnh
+ Nếu PSI trên 400 là rất nguy hiểm, có thể gây chết người
Dựa vào chỉ số PSI, mà những người có độ tuổi và sức khoẻ khác nhau
sẽ được thông báo trước và giảm các hoạt động ngoài trời.
* Các khí nhân tạo nào gây ô nhiễm không khí nguy hiểm nhất đối
với con người và khí quyển trái đất?
Các khí nhân tạo nguy hiểm nhất đối với sức khoẻ con người và khí
quyển trái đất đó được biết đến gồm: Cacbon đioxit (CO2); Dioxit sunfua
(SO2).; Cacbon monoxit (CO); Nitơ oxit (N2O); Clorofluorocacbon (còn gọi

là CFC) và Mêtan (CH4).
- Cácbon đioxit (CO2): CO2 với hàm lượng 0,03% trong khí quyển là
nguyên liệu cho quá trình quang hợp để sản xuất năng suất sinh học sơ cấp ở
cây xanh. Thông thường, lượng CO2 sản sinh một cách tự nhiên cân bằng với
lượng CO2 được sử dụng cho quang hợp. Hai loại hoạt động của con người là
đốt nhiên liệu hoá thạch và phá rừng đó làm cho quá trình trên mất cân bằng,
có tác động xấu tới khí hậu toàn cầu.
- Đioxit sunfua (SO2): Đioxit sunfua (SO2) là chất gây ô nhiễm không
khí có nồng độ thấp trong khí quyển, tập trung chủ yếu ở tầng đối lưu. Dioxit
sunfua sinh ra do núi lửa phun, do đốt nhiên liệu than, dầu, khí đốt, sinh khối
thực vật, quặng sunfua,.v.v... SO2 rất độc hại đối với sức khoẻ của người và
sinh vật, gây ra các bệnh về phổi khí phế quản. SO2 trong không khí khi gặp
oxy và nước tạo thành axit, tập trung trong nước mưa gây ra hiện tượng
mưa axit.
- Cacbon monoxit (CO): CO được hình thành do việc đốt cháy không
hết nhiên liệu hoá thạch như than, dầu và một số chất hữu cơ khác. Khí thải từ
các động cơ xe máy là nguồn gây ô nhiễm CO chủ yếu ở các thành phố. Hàng
năm trên toàn cầu sản sinh khoảng 600 triệu tấn CO. CO không độc với thực
vật, cây xanh có thể chuyển hoá CO => CO2 và sử dụng nó trong quá trình
quang hợp. Vì vậy, thảm thực vật được xem là tác nhân tự nhiên có tác dụng
làm giảm ô nhiễm CO. Khi con người ở trong không khí có nồng độ CO
khoảng 250 ppm sẽ bị tử vong.


9

- Nitơ oxit (N2O): N2O là loại khí gây hiệu ứng nhà kính, được sinh ra
trong quá trình đốt các nhiên liệu hoá thạch. Hàm lượng của nó đang tăng dần
trên phạm vi toàn cầu, hàng năm khoảng từ 0,2 - 0,3%. Một lượng nhỏ N2O
khác xâm nhập vào khí quyển do kết quả của quá trình nitrat hoá các loại

phân bón hữu cơ và vô cơ. N2O xâm nhập vào không khí sẽ không thay đổi
dạng trong thời gian dài, chỉ khi đạt tới những tầng trên của khí quyển nó mới
tác động một cách chậm chạp với nguyên tử oxy.
- Clorofluorocacbon (viết tắt là CFC): CFC là những hoá chất do con
người tổng hợp để sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp và từ đó xâm nhập
vào khí quyển. CFC 11, CFCl3, CFCl2, CF2Cl2 (còn gọi là freon 12 hoặc F12)
là những chất thông dụng của CFC. Một lượng nhỏ CFC khác là CHC 1F2
(hoặc F22), CCl4 và CF4 cũng xâm nhập vào khí quyển. Cả hai hợp chất CFC
11 và CFC 12 hoặc freon đều là những hợp chất có ý nghĩa kinh tế cao, việc
sản xuất và sử dụng chúng đó tăng lên rất nhanh trong hai thập kỷ vừa qua.
Chúng tồn tại cả ở dạng sol khí và không sol khí. Dạng sol khí thường làm tổn
hại tầng ôzôn, do đó là sự báo động về môi trường, những dạng không sol khí
thì vẫn tiếp tục sản xuất và ngày càng tăng về số lượng. CFC có tính ổn định
cao và không bị phân huỷ. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ
được các tia cực tím phân huỷ. Tốc độ phân huỷ CFC sẽ rất nhanh nếu tầng
ôzôn bị tổn thương và các bức xạ cực tím tới được những tầng khí
quyển thấp hơn.
- Mêtan (CH4): Mêtan là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó được
sinh ra từ các quá trình sinh học, như sự men hoá đường ruột của động vật có
guốc, cừu và những động vật khác, sự phân giải kỵ khí ở đất ngập nước, ruộng
lúa, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. CH4 thúc đẩy sự ôxy hoá hơi nước ở
tầng bình lưu. Sự gia tăng hơi nước gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn nhiều so
với hiệu ứng trực tiếp của CH4. Hiện nay hàng năm khí quyển thu nhận khoảng
từ 400 đến 765x1012g CH4. (Đinh Xuân Thắng, 2007) [10].
2.1.2.3. Tài nguyên nước và ô nhiễm môi trường nước
* Tài nguyên nước: là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có
thể sử dụng vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt
động nông nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các



10

hoạt động trên đều cần nước ngọt. 97% nước trên Trái Đất là nước mặn, chỉ
3% còn lại là nước ngọt nhưng gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở dạng
sông băng và các mũ băng ở các cực. Phần còn lại không đóng băng được tìm
thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm, và chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại trên mặt đất và
trong không khí.
Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước
ngọt và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đó vượt
cung ở một vài nơi trên thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục
tăng làm cho nhu cầu nước càng tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của
việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh thái chỉ mới được lên tiếng gần
đây. Trong suốt thế kỷ 20, hơn một nửa các vùng đất ngập nước trên thế giới
đó bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của chúng. Các hệ
sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy giảm
nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền.
* Ô nhiễm môi trường nước: là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính
chất vật lý, hoá học, sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể
lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm
giảm sự đa dạng sinh vật trong nước.
Có nhiều cách phân loại ô nhiễm nước. Hoặc dựa vào nguồn gốc gây ô
nhiễm, như ô nhiễm do công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt. Hoặc dựa vào
môi trường nước, như ô nhiễm nước ngọt, ô nhiễm biển và đại dương. Hoặc
dựa vào tính chất của ô nhiễm, như ô nhiễm sinh học, hóa học hay vật lý.
- Ô nhiễm môi trường nước có nguồn gốc tự nhiên: do sự nhiễm mặn,
nhiễm phèn, gió bão, lũ lụt. Nước mưa rơi xuống mặt đất, nhà cửa, đường
phố đô thị, khu công nghiệp kéo theo các chất bẩn xuống sông hồ, sản phẩm
của hoạt động sống của sinh vật, vi sinh vật kể cả xác chết của chúng…Sự ô
nhiễm này còn được gọi là sự ô nhiễm không xác định được nguồn.
- Ô nhiễm môi trường nước có nguồn gốc nhân tạo: chủ yếu là do nước

xả thải của các khu dân cư,hoạt động nông nghiệp (thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ…), khu công nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, đặc biệt là giao thông
đường biển.


11

+ Nước thải sinh hoạt: phát sinh từ các hộ gia đình, bệnh viện, nhà hàng
khách sạn, cơ quan trường học chứa các chất thải trong quá trình vệ sinh, sinh
hoạt của con người. Thành phần cơ bản của nước thải sinh hoạt là chất hữu cơ
dễ bị phận hủy sinh học, chất dinh dưỡng (N, P), chất rắn và vi trùng. Tùy
theo mức sống và lối sống mà lượng thải cũng như tải lượng của các chất
trong nước thải của mỗi khu vực khác nhau là khác nhau. Nói chung mức
sống càng cao thì lượng thải cũng như tải lượng càng cao. Tải lượng trung
bình của các tác nhân gây ô nhiễn nước chính do con người đưa vào môi
trường trong một ngày được nêu trong bảng 2.1:

Bảng 2.1: Tải lượng tác nhân ô nhiễm do con người
đưa vào môi trường nước
Tác nhân ô nhiễm

TT

Tải lượng (g/người/ngày)

1

BOD5

45 – 54


2

COD

(1,6 – 1,9) x BOD5

3

Tổng chất rắn hòa tan (TDS)

170 – 220

4

Tổng chất rắn lơ lửng (TSS)

70 – 145

5

Clo (Cl-)

4–8

6

Tổng Nitơ (tính theo N)

6 – 12


7

Tổng Photpho (Tính theo P)

0,8 – 4

(Nguồn: Dư Ngọc Thành, 2008) [9].
+ Nước thải đô thị: là loại nước thải được tạo thành do sự gộp chung
nước thải sinh hoạt, nước thải vệ sinh và nước thải từ các cơ sở thương mại,
sản suất công nghệp nhỏ trong khu đô thị. Nước thải đô thị thường được thu
gom vào hệ thống cống thải của thành phố, đô thị để xử lý chung. Thông
thường ở các đô thị có hệ thống cống thải, khoảng 70 – 90% tổng lượng nước
sử dụng của đô thị sẽ trở thành nước thải đô thị và chảy vào đường cống thải
chung, nhìn chung nước thải đô thị có thành phần tương tự như nước
thải sinh hoạt.
+ Nước thải công nghiệp: nước thải từ các nhà máy, cơ sở sản xuất
công nghệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề… Thành phần cơ bản phụ thuộc


12

vào từng ngành công nghiệp cụ thể. Nước thải công nghiệp thường chứa
nhiều hóa chất độc hại như kim loại nặng (Hg, As, Pb, Cd…), các chất khó
phân hủy sinh học (phenol, dầu mỡ…), các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học
từ các cơ sở sản xuất thực phẩm.
+ Nước chảy tràn: là nước chảy tràn từ mặt đất do mưa hoặc do thoát
nước từ đồng ruộng, là nguồn gây ô nhiễm nước sông, hồ. Nước chảy tràn qua
đồng ruộng có thể cuốn theo các chất rắn, hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón.
Nước chảy tràn qua khu vực dân cư, đường phố, cơ sở sản xuất công nghiệp

có thể làm ô nhiễm nguồn nước do có chất rắn, dầu mỡ, hóa chất, vi trùng.
(Dư Ngọc Thành, 2008) [9].
* Các tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước:
- Màu sắc: nước tự nhiên sạch thường trong suốt và không có màu, cho
phép ánh sáng mặt trời chiếu xuống tầng nước sâu. Khi nước chứa nhiều chất
rắn lơ lửng, các loại tảo, chất hữu cơ... nó trở nên kém thấu quang với ánh
sáng mặt trời. Các loại sinh vật sống ở đáy thường bị thiếu ánh sáng. Các chất
rắn trong môi trường nước làm cho sinh vật hoạt động trở nên khó khăn hơn,
một số trường hợp có thể gây tử vong cho sinh vật.
- Mùi và vị: nước tự nhiên sạch không có mùi và không có vị. Khi
trong nước có các sản phẩm phân hủy chất hữu cơ, chất thải công nghiệp, các
kim loại thì mùi trở nên khó chịu.
- Nhiệt độ: nhiệt độ nước tự nhiên phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết của
lưu vực hoặc môi trường khu vực. Nước thải công nghiệp, đặc biệt là nước
thải của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện hạt nhân thường có nhiệt độ
cao hơn nước tự nhiên trong khu vực. Chất thải làm tăng nhiệt độ môi trường
nước làm cho quá trình sinh, lý, hóa của môi trường nước thay đổi, dẫn tới
một số loài sinh vật sẽ không chịu đựng được sẽ dẫn tới chết hoặc di chuyển
tới nơi khác, một số còn lại thì phát triển mạnh mẽ. Sự thay đổi nhiệt độ của
nước thông thường không có lợi cho sự cân bằng tự nhiên của hệ sinh
thái nước.
- Chất rắn lơ lửng: chất rắn lơ lửng và các hạt chất rắn vô cơ hoặc hữu
cơ, kích thước bé, rất khó lắng trong nước như sét, bụi than, mùn... Sự có mặt


13

của các chất rắn lơ lửng trong nước làm cho nước trở nên đục hơn, làm thay
đổi màu sắc và các tính chất khác trong nước.
- Độ cứng: gây ra độ cứng của nước là do trong nước có chứa các muối

Ca và Mg với hàm lượng lớn.
- Độ dẫn điện: độ dẫn điện của nước có lên quan tới sự có mặt của các
ion trong nước. Các ion này thường là các muối của kim loại như NaCl, KCl,
SO42-... nước có tính độc cao thường liên quan tới các ion hòa tan trong nước.
- Độ pH: độ pH có ảnh hưởng tới điều kiện sống bình thường của các
sinh vật sống trong nước. Sự thay đổi pH trong nước thường liên quan đến sự
hiện diện của các hóa chất axit hoặc kiềm, sự phân hủy hữu cơ, sự hòa tan
một số anion SO42-, NO3...
- Nồng độ oxi hòa tan trong nước (DO): nồng độ oxy hòa tan trong
nước nằm trong khoảng 8 - 10ppm, dao động mạnh, yếu phụ thuộc vào nhiệt
độ, sự phân hủy hóa chất, sự quang hợp của tảo. Khi nồng độ oxy hòa tan
trong nước thấp sẽ làm giảm hoạt động của cac sinh vật trong nước, nhiều khi
dẫn đến chết.
- Nhu cầu oxy sinh học (BOD): là lượng oxy mà vi sinh vật cần dùng
để oxy hóa các chất hữu cơ có trong nước.
- Nhu cầu oxy hóa học (COD): là lượng oxy cần thiết cho quá trình
oxy hóa các hợp chất hóa học bao gồm cả chất hữu cơ và vô cơ. (Nguyễn
Thị Lợi, 2006) [7].
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

2.2.1. Tình hình khai thác than trên Thế giới
Vỏ trái đất có phần lục địa chiếm khoảng 50% khối lượng toàn bộ của
vỏ trái đất tương đương với 2,9% khối lượng của trái đất. Phần lớn vỏ trái đất
được cấu tạo bởi các nham thạch bị nóng chảy, nguội dần và kết tinh. Thành
phần các nguyên tố cấu tạo nên vỏ trái đất được biết nhưng chưa đầy đủ vì
những nghiên cứu chỉ mới được thực hiện trên lục địa mà thôi. Hơn nữa trên
lục địa cũng có những vùng không nghiên cứu được vì nơi này có lớp trầm
tích quá dày. Trong sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, những dạng tài
nguyên năng lương như: than đá, dầu mỏ... đều bị khai thác triệt để, tất nhiên
chỉ khai thác được chúng khi chúng tập trung thành quặng, mỏ. Những dạng



14

năng lượng này có trữ lượng ít và phân tán nên khó xác định được chính xác.
Trong những chỉ số về phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia, người
ta thường quan tâm đến ba chỉ số: tăng trưởng dân số, tăng trưởng sản xuất
công nghiệp và tăng tổng sản lượng thu hoạch, vì sự gia tăng các chỉ số này
luôn gắn liền với nhu cầu ngày càng cao về năng lượng. Ở nhiều quốc gia có
nền công nghiệp phát triển thì nhu cầu về các năng lượng này chiếm tỉ lệ
80% - 90% tổng lượng năng lượng sử dụng trên thế giới. Ngoài ra nhu cầu
về khoáng sản năng lượng cũng tăng lên, chủ yếu được sử dụng làm nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp và rất nhiều ngành khác.

2.2.2. Tình hình khai thác than tại Việt Nam:
Than ở Việt Nam có 5 loại chính
- Than antraxit
- Than mỡ
- Than bùn
- Than ngọn lửa dài
- Than nâu.
a. Than antraxit (than đá)
Trữ lượng than đá được đánh giá là 3,5tỷ tấn trong đó ở vùng Quảng
Ninh trên 3,3tỷ tấn (tính đến độ sâu -300m), còn lại gần 200 triệu tấn là nằm
rải rác ở các tỉnh: Thái Nguyên, Hải Dương, Bắc giang,...
- Than antraxit Quảng Ninh:

Bảng 2.2: Trữ lượng than antraxit Quảng Ninh
Cấp
A+ B

C1
C2

Trữ lượng (triệu tấn)

Tỉ lệ (%)

466
14,0
1.813
54,5
1.046
31,5
(Nguồn: sở công thương Quảng Ninh, 2010) [8].
Như vậy, cấp A + B/A + B + C1 chỉ chiếm 20,4%, chưa đạt 50%, thể
hiện mức độ tin cậy chưa cao, nhiều khoáng sàng cần phải thăm dò bổ sung
trước khi đầu tư hoặc khai thác. Bể than Quảng Ninh được phát hiện và khai
thác rất sớm, đó bắt đầu cách đây gần 100 năm dưới thời thuộc Pháp. Hiện
nay và có lẽ trong tương lai, sản lượng than khai thác từ các mỏ ở bể than


15

Quảng Ninh chiếm khoảng 90% sản lượng than toàn quốc. Trong địa tầng
chứa than của bể than Quảng Ninh gồm rất nhiều vỉa than:
+ Dải phía Bắc (Uông Bí - Bảo Đài) có từ 1 đến 15 vỉa, trong đó có 6 - 8
vỉa có giá trị công nghiệp.
+ Dải phía Nam (Hòn Gai, Cẩm Phả) có từ 2 đến 45 vỉa, có giá trị công
nghiệp là 10-15 vỉa. Phân loại theo chiều dày của bể than Quang Ninh được
trình bày trong bảng 2.3:


Bảng 2.3: Phân loại theo chiều dày của bể than Quang Ninh
Loại
Vỉa rất mỏng
Vỉa mỏng
Vỉa trung bình
Vỉa dày
Vỉa rất dày

Chiều dày (m)
Trữ lượng (%)
<0,5
3,57
0,5-1,3
27,00
1,3-3,5
51,78
>3,5-15
16,78
>15
1,07
(Nguồn: vinacomin, 2010) [12].
Tính chất đặc trưng của than antraxit tại các khoáng sàng bể than
Quảng Ninh là kiến tạo rất phức tạp, tầng chứa than là những dải hẹp, đứt
quãng dọc theo phương của vỉa, góc dốc của vỉa thay đổi từ dốc thoải đến dốc
đứng (9o - 50o). Các mỏ than có nhiều vỉa, với cấu tạo và chiều dày vỉa thay
đổi đột ngột.
Đối với việc khai thác than ở bể Quảng Ninh trước đây, có thời kỳ sản
lượng lộ thiên đó chiếm đến 80%, tỷ lệ này dần dần đó thay đổi, hiện nay còn
60%, trong tương lai sẽ còn xuống thấp hơn. Vì còn có mỏ lộ thiên lớn đó và

sẽ giảm sản lượng, đến cuối giai đoạn 2015 - 2020 có mỏ không còn sản
lượng; các mỏ mới lộ thiên lớn sẽ không có, nếu có là một số mỏ sản
lượng dưới 0,5 -1triệu tấn/năm. Tỷ lệ sản lượng than hầm lò tăng, nói lên
điều kiện khai thác khó khăn tăng, chi phí đầu tư xây dựng và khai thác tăng,
dẫn tới giá thành sản xuất tăng cao. Cho nên, tuy trữ lượng địa chất của bể
than Quảng Ninh là trên 3 tỷ tấn, nhưng trữ lượng kinh tế là 1,2tỷ tấn và trữ
lượng công nghiệp đưa vào quy hoạch xây dựng giai đoạn từ 2010 - 2020
mới ở mức 500 - 600triệu tấn. Mức độ khai thác xuống sâu là -150m. Còn từ


16

- 150m đến -300m, cần phải tiến hành thăm dò địa chất, nếu kết quả thăm dò
thuận lợi, thiết bị và công nghệ khai thác tiên tiến, việc đầu tư cho mức dưới
-150m sẽ được xem xét vào sau năm 2020. (Nguồn: vinacomin, 2010)
[12].
Do đó, đối với than Antraxit Quảng Ninh, để đảm bảo khai thác bền
vững, thì sản lượng khai thác tối đa hợp lý cũng chỉ nên là 15triệu tấn/năm ở
giai đoạn 2010 - 2015.
- Than antraxit ở các vùng khác.
Có nhiều trữ lượng than đá antraxit khác nằm rải rác ở các tỉnh: Hải
Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Sơn La, Quảng Nam với trữ lượng từ vài
trăm nghìn tấn đến vài chục triệu tấn. Ở các nơi này, quy mô khai thác thường
từ vài nghìn tấn đến 100 - 200nghìn tấn/năm. Tổng sản lượng hiện nay không
quá 200nghìn tấn/năm.
b. Than mỡ
Trữ lượng tiềm năng được đánh giá sơ bộ là 27triệu tấn, trong đó trữ
lượng địa chất là 17,6triệu tấn, chủ yếu tập trung ở 2 mỏ Làng Cẩm (Thái
Nguyên) và mỏ Khe Bố (Nghệ An).
Ngoài ra, than mỡ còn có ở các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình

nhưng với trữ lượng nhỏ.
Than mỡ được dùng chủ yếu cho ngành luyện kim với nhu cầu rất lớn
sau năm 2000, nhưng trữ lượng than mỡ ở ta lại rất ít, điều kiện khai thác rất
khó khăn. Sản lượng than mỡ khó có khả năng cao hơn 0,2 - 0,3triệu tấn/năm,
trong khi nhu cầu sẽ tăng đến 5 - 6triệu tấn/năm vào giai đoạn 2010 - 2020.
c. Than bùn
Than bùn ở Việt Nam nằm rải rác từ Bắc đến Nam, nhưng chủ yếu tập
trung ở đồng bằng sông Cửu Long (với hai mỏ than lớn là U Minh Thượng và
U Minh Hạ).
Cụ thể:
- Đồng bằng Bắc Bộ:
1.650 triệu m3
- Ven biển Miền Trung:
490 triệu m3
- Đồng bằng Nam Bộ:
5.000 triệu m3


17

Trước đây vùng đồng bằng Nam Bộ được đánh giá có trữ lượng là 1tỷ
tấn và còn cao hơn nữa. Nhưng nạn cháy rừng đó phá huỷ đi rất nhiều trữ
lượng than.
Từ trước tới nay than bùn được khai thác chủ yếu dùng làm chất đốt
sinh hoạt (pha trộn với than antraxit của Quảng Ninh) và làm phân bón ruộng
với quy mô nhỏ, khai thác thủ công là chính, sản lượng khai thác hiện nay
được đánh giá là chưa đến 10 vạn tấn/năm. Khai thác than bùn làm chất đốt
hay làm phân bón đều không có hiệu quả cao, mặt khác việc khai thác than sẽ
ảnh hưởng đến môi trường, môi sinh trong vùng, nhất là ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, bên cạnh đó điều kiện khai thác, vận chuyển tiêu thụ, chế

biến sử dụng than bùn cũng gặp không ít khó khăn.
d. Than ngọn lửa dài
Chủ yếu tập trung ở mỏ Na Dương (Lạng Sơn), với trữ lượng địa chất
trên 100 triệu tấn. Hiện nay khai thác được thực hiện bằng phương pháp lộ
thiên, than khai thác chủ yếu phục vụ sản xuất xi măng ở Hải Phòng và Bỉm
Sơn với sản lượng trên dưới 100nghìn tấn/năm. Nhưng do nhà máy Xi măng
Hải Phòng sẽ ngừng hoạt động, nhà máy xi măng Bỉm Sơn được cải tạo với
công nghệ mới, nên không dùng than Na Dương từ 1999 trở đi. Than Na
Dương là loại than có hàm lượng lưu huỳnh cao, có tính tự cháy, nên việc khai
thác, vận chuyển, chế biến sử dụng rất khó khăn và hạn chế. Do đó, Tổng Công
ty Than Việt Nam đang nghiên cứu hợp tác với nước ngoài xây dựng nhà máy
điện trong vùng mỏ, để sử dụng loại than này. Vì nếu không khai thác, than sẽ
tự cháy và phá huỷ nguồn tài nguyên đồng thời gây tác động xấu hơn
đến môi trường.
e. Than Nâu
Tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, trữ lượng dự báo 100 tỷ tấn.
Theo đánh giá sơ bộ, than có chất lượng tốt, có thể sử dụng cho sản xuất điện,
xi măng và công nghiệp hoá học.
Nhưng để có thể khai thác được, cần tiến hành thăm dò ở khu vực Bình
Minh - Khoái Châu Hưng Yên, để đánh giá một cách chính xác trữ lượng, chất
lượng than, điều kiện kiến tạo của vỉa than, nghiên cứu công nghệ khai thác
thiết kế. Nói chung việc khai thác than này rất khó khăn về mặt địa hình, dân
cư trong vùng và về phương pháp khai thác v.v... Theo đánh giá của một số nhà
nghiên cứu địa chất và khai thác, đối với than Nâu ở đồng bằng sông Hồng thì


18

có thể đưa vào đầu tư xây dựng mỏ và khai thác từ 2015 - 2020 trở đi. (Bộ kế
hoạch và đầu tư, 2008) [1].


2.2.3. Ảnh hưởng của hoạt động khai thác than tới môi trường không khí
Tác động tới môi trường không khí của hoạt động khai thác than chủ
yếu là tạo ra bụi và các khí độc hại. Bụi thường xuyên phát sinh trong quá
trình nổ mìn, đào xúc đất đá, bốc xúc và vận chuyển than. Các khí độc hại này
gồm các dạng cacbuahydro (mêtan. Butan..) , SiO2, CO2, CO, Nox, khí trơ và
nhiều loại khác và vật liệu nổ mìn. Theo chính một bản báo cáo về môi trường
của TKV trong tháng 6/2009, hàm lượng bụi tại các khu vực khai thác, chế
biến than, khoáng sản đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 - 5,2 lần (trung
bình trong 24giờ). Các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do bụi là Mạo
Khê, Đông Triều, Uông Bí, Cẩm Phả. Ở các vùng khai thác than như Quán
Triều (Thái Nguyên), hàm lượng bụi tại các khu vực dân cư gần các công
trường xưởng sàng than cũng vượt tiêu chuẩn cho phép 2,2 - 4,2 lần.

2.2.4. Ảnh hưởng của hoạt động khai thác than tới môi trường nước
Trong những năm gần đây, hoạt động khai thác và chế biến than phát
triển một cách ồ ạt, những tác động tiêu cực tới môi trường, đặc biệt gây ô
nhiễm và suy thoái nguồn gây nước sản xuất nông nghiệp.
Trong quá trình khai thác, nước được sử dụng với khối lượng lớn cho
hầu hết công đoạn sản xuất. Quá trình sản xuất, tháo khô mỏ, đổ thải, v.v...,
gây những tác động tiêu cực tới nguồn nước sản xuất nông nghiệp ở khu vực
xung quanh khai trường, làm thay đổi địa hình, hệ thống nước mặt, điều kiện
tàng trữ và thoát nước (tác động cơ học), làm thay đổi tính chất vật lý, thành
phần hoá học của nước (tác động hoá học).
Quá trình đào xới, vận chuyển đất đá và quặng làm địa hình khu khai
trường bị hạ thấp, ngược lại, quá trình đổ chất thải rắn làm địa hình bói thải
được tâng cao. Những thay đổi này sẽ dẫn đến những biến đổi về điều kiện
thuỷ văn, các yếu tố của dũng chảy trong khu mỏ như thay đổi khả năng thu,
thoát nước, hướng và vận tốc dòng chảy mặt, chế độ thuỷ văn của các dòng
chảy như mực nước, lưu lượng,v.v... Sự tích tụ chất thải rắn do tuyển rửa

trong các lòng hồ, kênh mương tưới tiêu có thể làm thay đổi lưu lượng dũng
chảy, dung tích chứa nước, biến đổi chất lượng nguồn nước và làm suy giảm
công năng của các công trình thuỷ lợi nằm liền kề với cỏc khu khai thác mỏ.


19

Khi tiến hành khai thác than sẽ hình thành các moong sâu đến hàng
trăm mét, là nơi tập trung nước cục bộ. Ngược lại, để đảm bảo hoạt động của
mỏ, phải thường xuyên bơm tháo khô nước ở đáy moong, hầm lũ, hình thành
các phễu hạ thấp mực nước dưới đất với độ sâu mực từ vài chục đến hàng
trăm mét và bán kính phễu hàng trăm mét. Điều đó dẫn đến tháo khô các công
trình chứa nước trên mặt như hồ ao,... xung quanh khu mỏ. Kèm theo đó là
ảnh hưởng do hoạt động của các phương tiện máy móc khai thác và sản xuất
than như: máy xúc, máy ủi, nổ mìn…
Song song với những tác động cơ học đến nguồn nước nói chung và
nguồn nước nông nghiệp nói riêng, những tác động hoá học đối với nguồn
nước cũng rất đáng kể. Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến
hành đào bới và khoan nổ sẽ thúc đẩy các quá trình hoà tan, rửa khô các thành
phần chứa trong quặng và đất đá, quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào
nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham
gia vào thành phần nước mưa, nước chảy tràn cung cấp cho nguồn nước tự
nhiên,... là những tác động hoá học làm thay đổi tính chất vật lý và thành phần
hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ. Mức độ ô nhiễm hoá học
các nguồn nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm thân quặng, thành
phần thạch học và độ bền vững của đất đá chứa quặng, phương pháp và trình
độ công nghệ khai thác, chế biến quặng, biện pháp quản lý và xử lý chất
thải,... Nước ở các mỏ than thường có hàm lượng cao các ion kim loại nặng, á
kim, các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố phóng xạ... cao hơn so với nước mặt
và nước biển khu vực đối chứng và cao hơn TCVN từ 1 - 3 lần. Đặc biệt là

khu vực từ Quảng Yên đến Cửa Ông. Sự biến đổi chất lượng nguồn nước, tải
lượng một số chất thải trong nước tháo khô các mỏ than.
Khai thác khoáng sản còn là nguyên nhân gây suy thoái nguồn nước.
Nguồn nước mặt và nước ngầm xung quanh các khu vực khai khoáng sử dụng
làm nguồn cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt đang bị suy giảm về trữ
lượng và ô nhiễm, suy thoái về chất lượng.


20

PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu các tác động hoạt động khai thác than đến
môi trường không xung quanh khu vực mỏ than Núi Hồng của Công ty than
Núi Hồng, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Mỏ than Núi Hồng, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Mỏ than Núi Hồng, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

3.2.2. Thời gian tiến hành
- Từ ngày 8/1/2012 đến ngày 30/4/2012
3.3. Các nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực Mỏ than Núi Hồng.

- Trữ lượng và công nghệ khai thác than tại mỏ than Núi Hồng.
- Tác động của hoạt động khai thác than của mỏ than Núi Hồng tới môi
trường nước và môi trường không khí.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của hoạt động khai thác tới đời sống của
cộng đồng dân cư và người tiếp xúc trực tiếp trong phạm vi nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các tác động
tiêu cực của hoạt động khai thác than đến môi trường không khí của mỏ than
Núi Hồng.
3.4. Các phương pháp nghiên cứu

3.4.1. Nghiên cứu các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật đối với hoạt
động khai thác than
Nghiên cứu các luật, các thông tư, nghị định về khai thác than, khai thác
khoáng sản:


21

+ Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam 2005
+ Luật Khoáng sản Việt Nam 2010.
+ Thông tư 20/2009/TT-BCT ngày 7 tháng 7 năm 2009 Thông tư ban
hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về an toàn trong khai thác mỏ lộ thiên.
+ Nghị định 15/2012/NĐ-CP ngày 9 tháng 3 năm 2012 Nghị định quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản

3.4.2. Phương pháp kế thừa sử dụng tài liệu thứ cấp
- Tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình quản
lý tài nguyên khoáng sản.
- Tài liệu, số liệu về hoạt động, công nghệ sử dụng trong hoạt động
khai khoáng tại mỏ, báo cáo môi trường của mỏ than Núi Hồng.


3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin theo phương pháp điều tra
Điều tra những ảnh hưởng của khai thác than của mỏ than Núi Hồng tới
môi trường nước và môi trường không khí tại xã Yên Lãng.
- Số hộ điều tra là 30 hộ
- Cách chọn hộ điều tra là chọn ngẫu nhiên 30 hộ dân cư xung quanh
Mỏ than bán kính 1 km.

3.4.4. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa
- Nắm bắt được thông tin chung về khu vực nghiên cứu.

3.4.5. Phương pháp lấy mẫu
3.4.5.1 Phân tích mẫu nước
- Lấy mẫu tại hai vị trí:
+ 2 mẫu tại khu vực văn phòng công ty
+ 2 mẫu lấy tại khu vực khai thác
- Phương pháp lấy mẫu: Lượng nước được lấy chung cho các phép
phân tích trong phòng thí nghiệm là 2lít/mẫu. Mẫu nước được đựng trong
chai lọ sạch. Các mẫu được cố định, bảo quản trước khi vận chuyển về
phòng thí nghiệm théo đúng các tiêu chuẩn chuẩn ban hành (TCVN).


22

- Dụng cụ: Lấy vào ca định lượng, lấy mẫu tổ hợp theo không. Mẫu
được chứa trong bình polyetylen.
- Chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích:
+ Các chỉ tiêu pH, DO… được đo bằng thiết bị đo đạc chất lượng nước
trên diện rộng nhằm tránh sai số trong quá trình bảo quản mẫu.
+ Các kim loại nặng (Zn, Cu, Pb…) được phân tích bằng phương pháp

cực phổ và phổ hấp thụ nguyên tử (ASS).
+ Các chỉ tiêu khác như BOD, COD, Tổng lượng P và các chỉ tiêu sinh
hóa khác được phân tích bằng phương pháp so màu, chuẩn độ, định lượng…
theo tiêu chuẩn cho phép (TCVN).
3.4.5.2. Phân tích mẫu không khí
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành phân tích 10 mẫu
không khí ở vị trí xung quanh khu vực khai thác than của mỏ than Núi
Hồng – xã Yên Lãng trong đó:
+ 2 mẫu lấy tại khu vực văn phòng
+ 8 mẫu lấy tại khu vực khai thác
3.4.5.3 Cơ quan phân tích, thời gian phân tích
- Trung tâm Quan trắc và Công nghệ Môi trường Thái Nguyên.
- Thời gian phân tích
+ Thời gian lấy mẫu: ngày 15/11/2011
+ Thời gian phân tích: từ ngày 15/11/2011 đến ngày 22/11/2011

3.4.6. Phương pháp xử lý số liệu
- Trên cơ sở những tài liệu thu thập được tiến hành phân tích, chọn lọc.
- Xử lý số liệu trên máy tính bằng phần mềm Word và phần mềm Exel.

3.4.7. Phương pháp đối chiếu, so sánh
- Các chỉ tiêu bụi, ồn, khí: NO2, SO2, CO trong khu vực sản xuất được
so sánh với văn bản số 3733/202/QD-BYT.
- Các chỉ tiêu bụi, khí NO2, SO2, CO khu vực xung quanh được so sánh
với quy chuẩn QCVN 05:2009/BTNMT.


23

- Chỉ tiêu ồn khu vực xung quanh được so sánh với quy chuẩn QCVN

26:2010/BTNMT.
- Các chỉ tiêu về nước thải công nghiệp được so sanh với QCVN
24:2009/BTNMT (B) - quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp.
- Các chỉ tiêu về nước ngầm được so sánh với QCVN 09:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiêu chuẩn nước ngầm.
So sánh giữa kết quả thu được với thực tế (ý kiến người dân), từ đó rút
ra được những kết luận về các tác động của khai thác than tới môi trường nước
và môi trường không khí. Qua đó có thể để suất ra những giải pháp hợp lí.


24

PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực mỏ than Núi Hồng

4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Mỏ than Núi Hồng nằm ở địa phận xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên 40km về phía Tây Bắc, mỏ nằm
trong giới hạn tọa độ địa lý:
- 21037’ đến 21045’ vĩ độ Bắc.
- 105027’ đến 105039’ kinh độ Đông.
Khu mỏ Núi Hồng được nối với thành phố Thái nguyên bằng con
đường quốc lộ số 13A và đường sắt chuyên dụng, khổ đường 1000mm, dài
35km chạy qua địa bàn 10 xã, ngoài ra trong mỏ còn có hệ thống đường nội
bộ thuận lợi đến các khu vực khai thác.
4.1.1.2. Địa hình và thổ nhưỡng
Khu vực mỏ than Núi Hồng nằm trong thung lũng giữa hai dãy núi Núi
Hồng và dãy Tam Đảo, có độ chênh lệch địa hình rất lớn, nơi cao nhất là đỉnh
Núi hồng với độ cao +747m (so với mực nước biển), nơi thấp nhất là cánh

đồng Yên Lãng với độ cao là +80m (so với mực nước biển). Các thung lũng
đó được nhân dân khai hoang trồng cây lương thực, chủ yếu là trồng hai vụ
lúa, đáp ứng nhu cầu lương thực của nhân dân vùng lân cận.
4.1.1.3. Khí hậu thủy văn
Khu vực mỏ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có hai
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
a. Chế độ mưa
Vào mùa mưa (từ tháng 5 tới tháng 10), lưu lượng mưa trong mùa thay
đổi liên tục, lượng mưa tăng dần từ đầu mùa tới giữa mùa mưa, và đạt cực đại
vào tháng 7, tháng 8 (tháng nhiều bão nhất trong năm).
Vào mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), không khí khô ráo,
lượng mưa nhỏ, không đáng kể.
- Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.800 ÷ 2200 mm


25

- Số ngày mưa trong năm: 150 – 160 ngày
- Lượng mưa tháng lớn nhất: 489 mm (tháng 8)
- Lượng mưa tháng nhỏ nhất: 22 mm (tháng 12)
- Số ngày mưa lớn hơn 50 mm: 12 ngày
- Số ngày mưa lớn hơn 100 mm: 2 – 3 ngày
- Lượng mưa ngày lớn nhất: 353 mm
b. Chế độ nhiệt
- Nhiệt độ trung bình năm: 23,60C.
- Nhiệt độ cao nhất trung bình của tháng nóng nhất: 28,90C (tháng 6).
- Nhiệt độ thấp nhất trung bình của tháng lạnh nhất: 170C (tháng 12).
c. Độ ẩm không khí
- Độ ẩm tương đối trung bình năm của không khí: 82%
- Độ ẩm tương đối trung bình tháng lớn nhất (tháng 3, tháng 7): 88%

- Độ ẩm tương đối trung bình tháng thấp nhất (tháng 2, tháng 11): 77%
d. Tốc độ gió và hướng gió
- Tại khu vực nghiên cứu, trong năm có 2 mùa chính là mùa đông gió
có hướng Bắc và Đông Bắc, mùa hè gió có hướng Nam và Đông Nam.
- Tốc độ gió trung bình trong năm: 1,9 m/s
- Tốc độ gió lớn nhất: 24 m/s
e. Nắng và bức xạ
- Số giờ nắng trung bình trong năm: 1 588 giờ
- Số giờ nắng trung bình trong tháng lớn nhất: 187 giờ
- Số giờ nắng trung bình trong tháng nhỏ nhất: 46 giờ
- Bức xạ trung bình năm: 122. (Nguồn: Cty Than Núi Hồng, 2010) [3].
4.1.1.4 Tài nguyên thiên nhiên
a. Tài nguyên nước
* Tài nguyên nước mặt:
Nước mặt chỉ yếu trong khu vực mỏ là hệ thống suối Đồng Bèn, suối
Đồng Măng và suối Đồng Cẩm. Suối Đồng Bèn chảy từ hướng Tây Bắc
xuống Đông Nam tập trung vào suối Đồng Cẩm và ra sông Công (cách mỏ
2km về phía Núi Cốc).


×