Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Đề án Chính sách thương mại Hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.25 KB, 50 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
KINH TẾ THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI:
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Lớp

:
:
:
:

GS-TS Đặng Đình Đào
Hoàng Thị Linh
CQ532224
QTKDTM53B

Hà Nội, tháng 8 năm 2014


2
Mục lục


Mục lục .................................................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM ....................................................................................................... 6
I. Logistics và chính sách phát triển Logistics tích ở Việt Nam ................... 6
1. Bản chất,tiềm năng của Logistics ở Việt Nam ...................................................6
2. Chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam .....................................................13
II. Tại sao phải cần chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam? ............. 16
1. Tăng trưởng thương mại và xu hướng toàn cầu hóa ....................................16
2. Triển vọng phát triển kinh tế trong nước ..........................................................16
3. Xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài ngày càng gia tăng .....................17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................ 20
I. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam .............................................. 20
1. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam ......................................................20
2. Về vấn đề xác định chiến lược phát triển ..........................................................21
3. Về mô hình logistics cần hướng tới .....................................................................22
II. Thực trạng chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam ........................ 23
1. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động Logistics ở Việt Nam ....................23
2. Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh Logistics ở Việt Nam .............23
3. Chính sách thương mại của Việt Nam liên quan đến Logistics khi tham
gia WTO và ASEAN ......................................................................................................35
4. Chính sách phát triển Logistics ở một số địa phương ...................................36
5. Kết luận, đánh giá thực trạng phát triển Logistics ở Việt Nam hiện nay39
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
LOGISTICS Ở VIỆT NAM .............................................................................. 42
I. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách Logistics ........................... 42
1. Mục tiêu, định hướng về hoàn thiện chính sách và môi trường pháp lý 42
2. Mục tiêu, định hướng hoàn thiện về hệ thống cơ quan quản lý ................42
II. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam. ...... 42



3
1. Hoàn thiện quản lý nhà nước về lĩnh vực dịch vụ Logistics .......................42
2. Xây dựng quy hoạch phát triẻn Logistics ở nước ta đến năm 2020 ..........46
3. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích và thúc đẩy phát triển
khu vực kinh tế tư nhân trong kinh doanh dịch vụ Logistics .........................48
4. Nghiên cứu, ban hành các chính sách phát triển bền vững Logistics ở
nước ta ...............................................................................................................................49
5. Phát triển hệ thống Logistics gắn liền với sự phát triển, liên kết các
vùng kinh tế, hành lang kinh tế ở nước ta trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. ........................................................................................49
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 50
Tài liệu tham khảo: ............................................................................................ 50


4
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, phát triển dịch vụ Logistics một cách hiệu quả
sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quốc gia.Trong xu thế
toàn cầu mạnh mẽ như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên thế giới
ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn.Điều này đã làm cho dịch vụ Logistics
trở thành một trong các lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Những nước kết nối tốt
với mạng lưới dịch vụ Logistics toàn cầu thì có thể tiếp cận được nhiều thị
trường và người tiêu dùng từ các nước trên thế giới.Chẳng hạn như: Chi lê - một
nước mặc dù ở cách xa hầu hết các thị trường lớn, nhưng lại có vai trò rất lớn
trong thị trường lương thực thế giới, cung cấp cá tươi và hoa quả khó bảo quản
cho người tiêu dùng ở Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Đối với những nước không
có khả năng kết nối này, chi phí Logistics sẽ rất cao và ngày càng gia tăng, khả
năng mất cơ hội cũng rất lớn, nhất là những nước nghèo nằm sâu trong đất liền,

mà phần lớn là ở Châu Phi.
Phát triển dịch vụ Logistics sẽ đem lại nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh
tế.Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá
trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Mỹ và
Nhật Logistics đóng góp khoảng 10% GDP.Đối với những nước kém phát triển
thì tỷ lệ này có thể cao hơn 30%.Sự phát triển dịch vụ Logistics có ý nghĩa đảm
bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về
thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng giảm được
chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Với quy mô 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước, những
năm gần đây, ngành dịch vụ Logistics đang đóng vai trò quan trọng trong quá
trình hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam.Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch
vụ Logistics, cả nước hiện có khoảng 1.200 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistis, chủ yếu về dịch vụ giao nhận vận tải, kho bãi, bốc dỡ, đại lý vận tải,...
tập trung ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ngoại trừ các doanh
nghiệp Nhà nước đang được cổ phần hóa, hầu hết các doanh nghiệp này có quy


5
mô vừa và nhỏ, vốn điều lệ bình quân từ 4-6 tỷ đồng, tỷ lệ nguồn nhân lực được
đào tạo bài bản về Logistics còn chiếm khá thấp, chỉ từ 5-7%.
Với quy mô và tiềm năng phát triển thị trường như vậy, tuy nhiên hệ thống
chính sách phát triển Logistics của nước ta vẫn chưa được quan tâm thích đáng.
Do vậy, việc nghiên cứu chính sách từ đó rút ra những điểm còn bất cập để đưa
ra các biện pháp hoàn thiện chính sách phát triển Logistics là điều rất cần thiết.
Để đảm bảo sự phát triển bên vững Logistics Việt Nam nói riêng cũng nhưng
toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung.



6
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM
I.
1.

Logistics và chính sách phát triển Logistics tích ở Việt Nam
Bản chất,tiềm năng của Logistics ở Việt Nam

1.1 Khái quát quá trình phát triển:
Logistics hoàn toàn không phải là khái niệm quá xa lạ cho dù một thực tế là
cũng không phải nhiều người am hiểu sâu sắc về vấn đề này. Logistics đã xuất
hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Cho đến nay ở nước ta vẫn chưa
tìm được thuật ngữ thống nhất, phù hợp để dịch từ Logistics sang tiếng Việt. Có
tài liệu dịch là hậu cần, có tài liệu dịch là tiếp vận hoặc tổ chức cung ứng, đảm
bảo,thậm chí là giao nhận… Tuy nhiên, có thể thấy rằng tất cả các dịch vụ đó đều
chưa thỏa đáng, chưa phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất của Logistics. Vì
vậy, giữa nguyên thuật ngữ Logistics như trong luật Thương mại 2005 là cần
thiết, không dịch sang tiếng Việt và bổ sung thuật ngữ này vào vốn từ tiếng Việt
của chúng ta.
Ngày nay, Logistics đã hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của nền
kinh tế,nhanh chóng phát triển và mang lại thành công cho rất nhiều công ty và
tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới như:APL, Mitsui OSK, Maersk Logistics,
NYK Logistics….Tuy nhiên một điều thực tế là Logistics được phát minh và ứng
dụng đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân
sự. Napoleon đã từng định nghĩa: “ Logistics là hoạt động để duy trì lực lượng
quân đội”. Logisticsđược các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc đại
chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với một khối lượng lớn vũ
khí và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến.Hiệu quả của hoạt động
Logistics là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.Cuộc đổ bộ

thành công của quân đồng minh vào rừng Normandie tháng 6/1944 chính là nhờ
vào sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và quy mô của các phương tiện hậu cần
được triển khai.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, các chuyên gia Logistics
trong quân dội đã áp dụng các kỹ năng Logistics của họ trong hoạt động tái thiết
kinh tế thời hậu chiến.Đây cũng là lúc hoạt động Logistics trong thương mại lần


7
đầu tiên được ứng dụng và triển khai.trước năm 1950, công việc Logistics chỉ
đơn thuần là một hoạt động chưacs năng đơn lẻ. trong khi các lĩnh vực
Marketing, quản trị sản xuất đã có những chuyển biến lớn thì vẫn chưa hình
thành một quan điểm khoa học về quản trị Logistics một cách hiệu quả. Sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỷ XX đã tạo cho
Logistics bước phát triển mới, có thể nói đó là giai đoạn phục hưng của
Logistics( Logistics renaissance). Trong lịch sử Việt Nam hai người đầu tiên ứng
dụng thành công Logistics trong hoạt động quân sự chính là Vua Quang TrungNguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc đại phá quân
Thanh{1789) vÀ sau đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện
Biên Phủ(1954) và chiến dịch giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước- Tuyến
đường mòn Hồ Chí Minh(1975)
Trong lịch sử phát triển, Logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh
vực Kinh doanh, nếu giữa thế kỉ XX rất hiếm công ty hiểu được Logistics là gì
thì đến cuối thế kỉ, Logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu,
một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu
vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ.
Theo Ủy ban Kinh tế và xã hội Châu Á-Thái Bình Dương( Economic and
social commission for Asia and the Pacific – ESCAP), Logistics phát triển qua 3
gia đoạn- Phân phối vật chất, Hệ thống Logistics và Quản trị Logistics.
- Giai đoạn phát triển hệ thống phân phối sản phẩm vật chất(Phisycal
distribution) và những năm 60-70 của thế kỷ XX, Logisticslà hoạt động cung ứng

sản phẩm vật chất hay còn gọi là Logistics đầu ra.Logistics đầu ra là quản lý một
cách có hệ thống các hoạt động liên quan đến nhau để đảm bảo cung cấp sản
phẩm, hàng hóa cho khách hàng một các hiệu quả.
- Giai đoạn phát triển hệ thống Logistics( Logistics System): Vào những
năm 80- 90 của thế kỷ XX, Hoạt động Logistics là sự kết hợp cả 2 khâu đầu vào(
Cung ứng vật tư) và đầu ra( Tiêu thụ sản phẩm) để tiết kiệm chi phí, tăng hiệu
quả. Đây gọi là “quá trình Logistics”.
- Giai đoạn quản trị quá trình cung ứng - Quản trị Logistics( Supply chain
manangement): Đây là giai đoạn phát triển của Logistics vào những năm cuối thế


8
kỷ XX. Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi
cung ứng(Council of Supply Chain Manangement Professionals – CSCMP):”
Quản trị Logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch
định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ
cũng như những thông tin liên quan từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ để đáp ứng
yêu cầu của khách hàng. Hoạt động quản trị Logistics cơ bản bao gồm quản trị
vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực
hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới Logistics, quản trị tồn kho,hoạch định
cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các
chức năng của Logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản
xuất, đóng gói, dịch vụ khách hang. Quản trị Logistics là chức năng kết hợp và
tối ưu hóa tất cả các hoạt động Logistics cũng như phối hợp hoạt động Logistics
với các chức năng như Marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ
thông tin”.
Ngoài ra, người ta có thể chia quá trình phát triển Logistics thành 5 giai
đoạn: Logistics tại chỗ (Workplace Logistics); Logistics cơ sở sản xuất (Facility
Logistics); Logistics công ty ( Corporate Logistics); Logistics chuỗi cung ứng
(Supply chain Logistics); Logistics toàn cầu (Global Logistics) ( xem sơ đồ 1)


Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về giai đoạn tiếp theo của Logistics.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, Logistics hợp tác (collaborative Logistics) sẽ là giai


9
đoạn tiếp theo và nó được kết hợp trên hai khía cạnh- không ngừng tối ưu hóa
thời gian thực hiện với công việc liên kết tất cả các thành phần tham gia chuỗi
cung ứng.
1.2 Khái niệm
Tuy thuật ngữ Logistics đã được thế giới sử dụng phổ biến trong suốt thời
gian dài, nhưng tại Việt Nam thì thuật ngữ này còn khá mới mẻ. Trên thế giới
hiện nay, Logistics được biết đến với những khái niệm chủ yếu:
-

Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: “Logistics là hoạt

động quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất
thành phẩm xử lý các thông tin liên quan v.v... từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ
cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.”
-

Theo Ủy ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình lập

kếhoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di
chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với
nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương
ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối
cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.”
-


Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ Logistics (CLM) quốc tế (Hội đồng này

thiết lập các nguyên tắc, thể lệ, nội dung mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Logistics các nước thường áp dụng và chịu quy chế của Hội đồng này):
“Logistics là một phần của quá trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch,
tổ chức thực hiện, kiểm soát hiệu quả, lưu thông hiệu quả và lưu giữ các loại
hàng hoá, dịch vụ và có liên quan đến thông tin từ điểm cung cấp cơ bản đến các
điểm tiêu thụ để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng”.
-

Theo Ngân hàng thế giới (WB): “Logistics liên quan đến việc quản lý dây

chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải nguyên liệu
đầu vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các phương thức vận tải
và các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại .”
-

Pháp luật Việt Nam Điều 233 Luật Thương mại năm 2005 (thay thế cho

khái niệm “dịch vụ giao nhận hàng hóa” của Luật Thương mại năm 1997) định
nghĩa: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức


10
thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng
gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến
hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ Logistics
được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ Logistics”.

Qua các định nghĩa trên cho thấy, Logistics không phải là một dịch vụ đơn
lẻ. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các
thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi,
phân phát hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau.
Chính vì vậy, nói tới Logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống
dịch vụ (Logistics system chain).Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công
việc, hoặc thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Cho đến nay, Logistics chưa được dịch sang tiếng việt. Nên thuật ngữ này
được dùng như một từ mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm chung thống
nhất và nó bao gồm nhiều loại hình dịch vụ các cách dịch đều chưa thỏa đáng,
chưa thể hiện được đầy đủ nhất nội dung của nó.
1.3 Vai trò của Logistics
Nghành Logistics có vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế hiện đại
và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu.
Phần giá trị gia tăng do nghành Logistics tạo ra ngày càng lớn và tác động của nó
thể hiện rõ dứoi những khía cạnh dưới đây:
- Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và
toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng
thị trường sự phân phối sản phẩm từ các nguồn ban đầu đến nơi tiêu thụ trở thành
một bộ phận vô cùng quan trọng trong GDP ở mỗi quốc gia.
- Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu vào
đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng hỗ trợ sự di chuyển và dòng
chảy của nhiều hoạt động quản lý hiệu quả, tó tạo thuận lợi trong việc bán hầu
hết các loại hàng hóa và dịch vụ.
-

Tiết kiệm và giảm chi phí trong lưu thông phân phối: tiết kiệm tối đa về

thời gian tiền bạc các quá trình lưu thông phân phối trong nền kinh tế .



11
-

Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn

thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và
vận tải quốc tế giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận lợi, suôn sẻ
từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân phối chính
xác, chứng từ tiêu chuân, thông tin rõ ràng..
-

Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản

xuất, tăng cường cạnh tranh cho doanh nghiệp giúp phối hợp các biến số
marketing-mix, gia tăng sự hài lòng của khách hàng,trực tiếp làm giảm chi phí,
gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn.
-

Logistics tạo ra giá trị gia tăng về thời gian và địa điểm góp phần tạo ra tính

hữu ích về thời gian và địa điểm cho sản phẩm, nhờ đó mà sản phẩm có thể đến
đúng vị trí cần thiết vào thời điểm thích hợp.
-

Logistics cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả

đến khách hàng sẽ tạo điều kiện để đưa hàng hóa đến nơi khách hàng yêu cầu
nhanh nhất với chi phí thấp, cho phép doanh nghiệp thực hiện hiệu quảcác hoạt
động của mình.

-

Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt

động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp có thể
giúp cho việc bán hàng ở mức chi phí thấp hơn nhờ vào hệ thống Logistics hiệu
quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do dó tạo ra uy tín.
1.4 Tiềm năng vủa Logistics ở Việt Nam
Sự phát triển của các ngành kinh tế trong những năm qua, trong đó tăng
trưởng của ngành xuất nhập khẩu (XNK) đang tạo ra những động lực và thuận lợi
rất lớn cho ngành Logistics Việt Nam.
Đó là ý kiến của đa số các chuyên gia tại "Diễn đàn Logistics Việt Nam"
lần thứ nhất năm 2013 với chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh từ liên kết các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu với Logistics” do Bộ Công Thương phối hợp với
Bộ Giao thông vận tải tổ chức ngày 15/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Đỗ
Xuân Quang, Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệpdịch vụ Logistics Việt Nam
cho biết, hiện nay trên cả nước có hơn 1.200 doanh nghiệpLogistics, tăng 20% so
với năm 2010, tương đương với các nước Thái Lan, Singapore và Indonesia.


12
Trong số các công ty nội địa có khoảng 800 công ty đang hoạt động trong lĩnh
vực giao nhận vận tải và 70% là doanh nghiệptư nhân đã thể hiện những bước
phát triển về chất lẫn về lượng. Ngoài ra, vài năm gần đây, các doanh
nghiệpLogistics nội địa đã tiến hành điều tư chiều sâu, triển khai các dịch vụ
Logistics trọn gói 3PL (intergrated Logistics), tham gia hầu hết vào các công
đoạn Logistics trong chuỗi cung ứng của chủ hàng.Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia
tăng cho ngành dịch vụ và xác lập được uy tín của các đối tác, khách hàng trong
và ngoài nước. Theo đánh giá Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ phát triển
Logistics của Việt Nam đạt 16-20%/năm so với mức 12-15%/năm những năm

2010,2011. Theo ông Lê Xuân Sang, Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung
ương, ngành logistic Việt Nam có rất nhiều lợi thế về địa lí và điều kiện tự nhiên.
Với 3.260 km đường bờ biển, 4.639 km đường biên giới nằm trong vùng chiến
lược của Đông Nam Á sẽ là những đầu tư sẵn có của tự nhiên cho các doanh
nghiệpLogistics Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, 6 trung
tâm Logistics tại 3 miền của đất nước như Cái Lân- VOSA (Quảng ninh) , Đình
Vũ (Hải Phòng), Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh), Cái Mép - Thị Vải (Vũng
Tàu), trung tâm tiếp vận Gemadept Sóng Thần, trung tâm kho vận đa năng
DAMCO (Bình Dương). Bên cạnh đó, Logistics của Việt Nam đang trong thời
kỳ đầu của quá trình phát triển, chính vì vậy đây cũng là điều kiện thuận lợi để
các doanh nghiệpLogistics Việt Nam thực hiện ngay từ đầu việc áp dụng các
công nghệ mới, các quy trình tiên tiến của thế giới trong việc xây dựng và phát
triển dịch vụ của doanh nghiệpmình. Theo ôngTrần Thanh Hải, Phó Cục trưởng
Cục Xuất Nhập khẩu - Bộ Công Thương, sự tăng trưởng của ngành XNK đang
tạo ra những tiềm năng to lớn cho ngành Logistics phát triển. Có tới 90% hàng
XNK của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển với khoảng 500-600 triệu
tấn/năm vào năm 2015 và đạt 1.100 tấn vào năm 2020. Lượng hàng container
qua cảng biển Việt Nam đạt từ 4,2 – 5 triệu TEU, dự kiến đến năm 2020 con số
này lên đến 7,7 triệu TEU. Việc Việt Nam tham gia rrất nhiều hiệp định thương
mại tự do (FTA) song phương và đa phương sẽ tạo ra nhiều tiềm năng to lớn và
tăng vị thế của ngành Logistics trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, theo
ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương năng lực cạnh tranh của


13
ngành dịch vụ Logistics còn thấp, chi phí Logistics còn rất cao. Các doanh
nghiệpLogistics phần lớn có quy mô nhỏ và vừa, vốn điều lệ bình quân hiện nay
khoảng 4-6 tỷ đồng.Nguồn nhân lực đào tạo bài bản chuyên ngành Logistics chỉ
chiếm 5-7%. Vì vậy, trong thời gian tới, để ngành Logistics phát triển mạnh hơn
nữa, các doanh nghiệpViệt phải nắm bắt và tận dụng tối đa những tiềm năng của

nền kinh tế đang phát triển để làm mạnh ngành dịch vụ của mình. Trong quy
hoạch mạng lưới phát triển Logistics thời gian tới, tại miền Bắc sẽ hình thành 7
trung tâm Logistics hạng 1 và hạng 2 tại các vùng, tiểu vùng, hành lang kinh tế.
Tại miền Trung -Tây Nguyên hình thành 6 trung tâm Logistics và miền Nam là 5
trung tâm Logistics. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, năm
2014 sẽ bắt đầu là thời kì mới cho doanh nghiệpXuất nhập khẩu và ngành
Logistics Việt Nam do sự cạnh tranh cao hơn, sàng lọc thị trường nghiệt ngã hơn.
Chính vì thế, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước và các cơ quan chứ năng hữu
quan, các doanh nghiệpLogistics phải chủ động nâng cao năng lực bản thân đồng
thời nỗ lực vươn lên khẳng định vị trí của mình ở thị trường trong nước cũng như
thị trường quốc tế.
2. Chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam
2.1 Khái quát
Chính sách, môi trường pháp lý: Những năm qua, nước ta đang trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và các bộ luật. Dịch vụ Logistics được pháp
lý hóa lần đầu tiên trong Luật Thương mại 2005, có hiệu lực ngày 1/1/2006.
Ngày 5/9/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 140/2007/NĐ-CP, quy định chi
tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới
hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics. Ngoài ra còn
có Luật Hàng Hải, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh…
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 175/QĐ-TTg ngày 27/1/2011 về
việc phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến
năm 2020 đã xác định nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2016-2020 có nhiệm vụ đó
là:” Các lĩnh vực tiếp tục được tập trung phát triển gồm: công nghệ thông tin và
truyền thông, tài chính, lo-gi-stic, hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc cao, chăm sóc
sức khỏe chất lượng cao và dịch vụ”.


14
Ngoài ra còn có một số quyết định khác như quyết định của Thủ tướng

Chính phủ số 35/2009/QĐ-TTg ngày 3/3/2009 về việc phê duyệt điều chính
chiến lược phát triển Giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác
định một số mục tiêu phát triển đến năm 2020 về vận tải như:” đường biển: chú
trọng phát triển các loại tàu chuyên dụng như tàu container, tàu hàng rời cỡ lớn,
tàu dầu, tàu khí hóa lỏng, tàu Lash… trẻ hóa đội tàu biển đạt độ tuổi trung bình
12 năm vào năm 2020. Nghiên cứu phát triển tàu trở khách cao cấp ven biển và
tàu khách du lịch.Đến năm 2020 đội tàu quốc gia có tổng trọng tải là 12÷14 triệu
DWT.” Hay “Đường thủy nội địa: khu vực đồng bằng song Hồng, sử dụng đoàn
tàu kéo đẩy từ 1.200 ÷ 1.600T, tàu tự hành đến 500T, tàu khách 50 ÷ 120 ghế;
khu vực đồng bằng song Cửu Long, sử dụng tàu đẩy kéo 600 ÷ 1.200T.tàu tự
hành loại đến 500T và tàu 30 ÷ 100 ghế. Đối với các tuyến ven biển ngắn, sử
dụng tàu tự hành 500÷ 1.200T. Phát triển các phương tiện vận tải chuyên dung
(container, xi măng rời, xăng dầu…). Đến năm 2020, đội tàu thủy nội địa có tổng
trọng tải 10 ÷ 12 triệu tấn, tổng sức kéo 12 ÷ 13 triệu CV, tổng sức chở 0,8 ÷ 1
triệu ghế khách”… Hay quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 22/1/2014 của Thủ
tướng Chính phủ “ Quyếtđịnh phê duyệt Đềán phát triển dịch vụ Logistics trong
lĩnh vực giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, định hướng 2030” đã cóđưa
nội dung và các giải pháp thực hiện về: kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, phát
triển các trung tâmphân phối hang hóa, nâng cao năng lực doanh nghiệp dịch vụ
Logistics trong lĩnh vực giao thông vận tải,phát triển nguồn nhân lực và hợp tác
quốc tế và cuối cùng là xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ.
Và một số các văn bản điều chính liên quan như: Quyết định 245/2005/QĐTTg ngày 6/10/2005”Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng 2020” trong đó
có phần phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông liên quan đến Logistics.
Quyết định 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009”Quyết định về việc phê duyệt qui
hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030” Quyết định 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011”Quyết định về việc phê
duyệt chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020”.Quyết định 70/2013/QĐTTg ngày 19/11/2013”Quyết định về việc công bố danh mục phân loại cảng biển



15
Việt Nam” và mới nhất là Quyết định 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014 quyết định
về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam
đến năm 2020,định hướng đến năm 2030….
Hệ thống cơ quan quản lý: hiện nay đã có quy định giao Bộ Công Thương
chịu trách nhiệm chung trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics. Các Bộ: Giao thông vận tải, Công
Thương, Thông tin và Truyền thong trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh dịch vụ
Logistics liên quan, bao gồm kiểm tra, giám sát việc bảo đảm các điều kiện kinh
doanh và tuân thủ theo quy định pháp luật của thương nhân kinh doanh dịch vụ
Logistics trong lĩnh vực được phân công. Bộ Kế Hoạch và Đầu tư có trách nhiệm
hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh dịch vụ Logisticstheo quy định hiện hành
của pháp luật. các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách
nhiệm phối hợp với các bộ trong công tác quản lý nhà nước về kinh doanh
Logistics.
2.2

Vai trò của chính sách phát triểnLogistics ở Việt Nam

Logisics là loại hình dịch vụ tuy còn mới mẻ đối với Việt Nam nhưng lại
có vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất – kinh doanh của ngành cũng
như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Loại hình dịch vụ được xem như tâm
điểm của sự phát triển kinh tế thương mại này được coi là nguồn lợi lớn cho
nước ta.Vì vậy, trong những năm qua, ý thức được tầm quan trọng và hiệu quả to
lớn từ dịch vụ Logistics, Việt Nam đã chú trọng vào việc xây dựng và phát triển
dịch vụ Logistics tại Việt Nam.Vai trò của chính sách phát triển Logistics thể
hiệnở các mặt sau đây:
Một là, Các chính sách tạo lập môi trường vàđiều kiện cho Logistics phát
triển.Việc thực thi các chính sách để hạn chế tình trạng thiếu cầu, giảm lạm phát,

khuyến khích sản xuất, tiêu dung. Giúp tập trung xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng,
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, môi trườngvĩ mô phù hợp với xu hướng
phát triển của Logistics.
Hai là, các chính cách này định hướng cho sự phát triển của Logistics. Sự
định hướng này thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các


16
chiến lược kinh tế xã hội, các trương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn hạn, dài
hạn.Định hướng dẫn dắt sự phát triển của Logistics không những được đảm bảo
của hệ thốngchính sách mà còn sự tác động của hệ thống tổ chức quản lý
Logistics từ trung ương đến địa phương.
Ba là, các chính sáchđiều tiết và can thiệp vào quá trình hoạtđộng
Logistics của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho nên fkinh tế hoạt động nhịp
nhàng và phát triển với nhịp độ cao.Các chính sáchđảm bảo sự công bằng, dân
chủ cho mọi thành phần Logistics hoạt động trên thị trường.
II.

Tại sao phải cần chính sách phát triển Logisticsở Việt Nam?

1. Tăng trưởng thương mại và xu hướng toàn cầu hóa
Một xu hướng tất yếu của thờiđại ngày nay là toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới. Bất kỳ một quốc gia hay ngành nghề nào, không phân biệt lớn hay nhỏ, mới
hay cũ, muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực tham gia vào xu
thế mới này. Toàn cầu hóa làm cho giao thương giữa các quốc gia,các khu vực
trên thế giớiphát triển mạnh mẽ vàđương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới
về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ… Xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến
bước phát triển tất yếu tiếp theo của Logistics – Logistics toàncầu (Global
Logistics). Logistics giữ vai trò cầu nối, là động lực thúc đẩy lưu chuyển hàng
hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ trên phạmvi toàn cầu. Vì vậy, khi nền kinh tế

Việt Nam tang trưởng với tốc độ cao theo xu hướng hội nhập thì Logistics Việt
Nam lại có them nhiều cơ hộiđể khẳngđịnh mình trên thương trường quốc tế,
nhưng đây cũng là một thách thức gay go, khốc kiệt trong thời kỳ hậuWTO của
Logistics Việt Nam. Vì vậy, các chính sách phát triển Logistics của Việt Nam
cũng có những sựđiều chỉnh để phù hợp với xu hướng, sự phát triển của nên kinh
tế thế giới.
2. Triển vọng phát triển kinh tế trong nước
Hội nhập kinh tê quốc tế tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, vừa tạora
nhiều cơ hội lớn đồng thờicũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với sự
phát triển các dịch vụ Logistics của nước ta. Nghiên cứu của các nhà kinh tế học
cho thấy, chi phí về Logistics chiếm 10% giá trị buôn bán của hàng hóa lưu
thông trong nước và chiếm 40% đối với hàng hóa mua bán trên thị trường quốc


17
tế. Trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp
Logistics, làm tăng GDP cho đất nước.Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều
doanh nghiệp nước ngoài từ nới khác đến Việt Nam đã tạo cơ hội rất lớn trong
việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động hiệu quả.
Thời gian qua, một số doanh nghiệp Logistics Việt Nam đã cung cấp dịch
vụ Logisticsở các nước láng giềng như Lào, Campuchia vàđã phối hợp với bạn
hàng nước ngoài để thắng thầu cung cấpdịch vụ Logistics từ nước thứ ba quá
cảnh Việt Nam đi Trung Quốc, Lào hay Campuchia. Đây thực sự là những sản
phẩm dịch vụ xuất khẩu.Tiếp cận, hợp tác, liên kết với các bạn hàng nước ngoài
một cách bình đẳng, đặc biệt là những bạn hàng các nước có lĩnh vực Logistics
phát triểncao.Đòi hỏi kinh nghiệm về tổ chức quản lý nghề nghiệp, doanh nghiệp
Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận trực tieép khách hàng nước ngoài ngay tại
Việt Nam.
Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2020 sẽ

tăng khoảng 2 lần so với năm 2010, trong đó thị phần của Logistics sẽ chiếm từ
18% - 22%. Nếu lấy năm 2020 là 282 tỷ USD thì Logistics sẽ cókim ngạch là 50
– 60 tỷUSD, đây quả thực là một số khổng lồ. Song hành cùng sự phát triển kinh
tế là tăng trưởng xuất nhập khẩu. Điềuđó cho thấy, ngành Logistics lại có thêm
nhiều cơ hội phát triển.
3. Xu hướng phát triển dịch vụ thuê ngoài ngày càng gia tăng
Thuê ngoài (outsourcing) đơn giản được hiểu là việc di chuyển các quá
trình kinh doanh trong tổ chức sang các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài. Về bản
chất đây là chiến lược loại trừ các chức năng kinh doanh không cốt lõi (none core
competency) để tập trung nguồn lực vào các kinh doanh chính yếu của doanh
nghiệp. Thuê ngoài logistics là việc sử dụng các nhà cung cấp dịch vụ logistics
bên ngoài (3PL’s, 4PL’s) thay mặt doanh nghiệp để tổ chức và triển khai hoạt
động logistics.
Thuê ngoài Logistics mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Trước
tiên là giúp giảm vốn đầu tư và giảm chi phí, do nhà kinh doanh dịch vụ logistics
có cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ tốt, khả năng đáp ứng nhu cầu khách


18
hàng đa dạng với quy mô lớn nên đạt được lợi thế nhờ qui mô, nhờ đó có thể
cung cấp cùng một dịch vụ với chi phí thấp hơn so với doanh nghiệp tự làm.
Giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và tăng nhanh tốc độ vận
động hàng hóa, do các nhà cung cấp dịch vụ logistics là các tổ chức kinh doanh
logistics chuyên nghiệp nên có khả năng chuyên môn cao, có thể đáp ứng tốt nhất
nhu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng cho doanh nghiệp.
Phát triển các mối quan hệ kinh doanh và tăng cường kĩ năng quản lí, thuê
ngoài đòi hỏi phải phát triển các kỹ năng giao tiếp và quá trình hợp tác với nhiều
tổ chức cung cấp dịch vụ logistics và các doanh nghiệp khác cùng tham gia kinh
doanh.
Tăng khả năng tiếp cận thông tin với môi trường luôn biến động, thuê ngoài

không chỉ đòi hỏi phải chia sẻ thông tin với nhà cung cấp mà còn phải nắm bắt và
phân tích tốt các thông tin môi trường bên ngoài, giúp thúc đẩy doanh nghiệp
thích nghi tốt hơn. Trong những lợi ích kể trên, khả năng giảm chi phí và nâng
cao chất lượng dịch vụ là những lợi ích được các doanh nghiệp quan tâm hàng
đầu.
Tuy nhiên, thuê ngoài cũng có những rủi ro như khả năng mất kiểm soát đối
với hoạt động logistics do qui trình nghiệp vụ bị gián đoạn, trong trường hợp này
chất lượng dịch vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dự trữ cao hơn mức cần thiết
hoặc thời gian đáp ứng đơn hàng kéo dài. Chi phí hợp tác quá cao cũng là lỗi
thường gặp khi doanh nghiệp đánh giá quá thấp những nỗ lực và chi phí cần thiết
để phối hợp hoạt động giữa các bên như chi phí về tích hợp hệ thống thông tin,
chi phí giao tiếp và chi phí thiết kế qui trình. Việc phát sinh những chi phí không
đáng có như chi phí sửa chữa các sự cố cũng làm tăng đáng kể tổng chi phí
logistics. Dò rỉ dữ liệu và thông tin nhạy cảm do doanh nghiệp phải chia sẻ thông
tin về nhu cầu và khách hàng với các nguồn cung ứng.Các nhà cung cấp phục vụ
rất nhiều khách hàng nên nguy cơ rò rỉ thông tin có thể xảy ra. Việc sử dụng
tường lửa (firewalls) giữa doanh nghiệp với 3PLs giúp giảm bớt nguy cơ này
nhưng lại giảm khả năng thích ứng giữa hai bên.
Theo công bố của Frost Sullivan tốc độ tăng trưởng bình quân của thị
trường thuê ngoài dịch vụ logistics thế giới đạt 10-20%/ năm. Phần lớn các tập


19
đoàn lớn trên thế giới như Dell, Walmart, Nortel, GAP, Nike đều sử dụng nhà
cung cấp dịch vụ thứ ba hoặc thứ tư, chính xu hướng này đã giúp thị trường
logistics thế giới tăng trưởng ở mức hai con số.
Báo cáo thường niên về “Thực trạng thuê ngoài hoạt động logistics toàn
cầu” của Trường Đại học Georgia Tech (Mỹ) một trong những trường đại học
danh tiếng nhất trong đào tạo ngành logistics và supply chain, phối hợp với
Capgemini, DHL và Oracle cho thấy khá rõ xu hướng này tại 4 khu vực logistics

lớn nhất hiện nay là Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á - Thái Bình Dương và châu Mỹ
latinh.
Các quốc gia châu Á cũng là một thị trường thuê ngoài logistics sôi động,
trong đó Việt Nam và các nước ASEAN được đánh giá là khu vực thị trường trẻ
nhưng có tiềm năng tăng trưởng lớn.
Nghiên cứu về sử dụng dịch vụ logistics của công ty SCM năm 2008, cho
thấy tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam thuê ngoài logistics khá lớn, đứng đầu là
các doanh nghiệp kinh doanh hàng tiêu dùng đóng gói (40%) và thủy sản (23%).
Các dịch vụ logistics được thuê ngoài nhiều nhất là vận tải nội địa (100%), giao
nhận, kho bãi (73-77%), khai quan (68%), vận tải quốc tế (59%).Nghiên cứu
cũng cho thấy các kết quả dịch vụ logistics thuê ngoài mang lại cho doanh
nghiệp, đứng đầu là lợi ích về giảm chi phí, giảm đầu tư và tăng tốc độ vận động
hàng hóa.
Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều phàn nàn của doanh nghiệp không hài lòng
với kết quả thuê ngoài logistics, như chất lượng dịch vụ không đúng như cam kết
và chưa có sự cải tiến liên tục (55%), chi phí không giảm như mong đợi (50%),
hệ thống IT còn kém (45%), vấn đề nhân sự yếu (36%) và thiếu kinh nghiệm về
logistics (27%). Tuy nhiên những hạn chế trên không làm giảm nhu cầu đối với
hoạt động thuê ngoài dịch vụ logistics cả về quy mô và loại hình trong thời gian
tới.


20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN LOGISTICS
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam
1. Tình hình phát triển Logistics ở Việt Nam
Lĩnh vực logistics Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO đã có sự phát triển đi
lên. Theo đánh giá của WB khi nghiên cứu về logistics của các quốc gia thì chỉ
số LPI (Logistics Performance Index) của Việt Nam có sự tăng lên từ mức 2,89

năm 2007 lên mức 2,96 năm 2010 và đạt mức 3 vào năm 2012. Đây là chỉ số
đánh giá tổng quát nhiều khía cạnh của sự phát triển logistics của các quốc
gia.Tuy nhiên, khi xét điểm về chất lượng và khả năng cạnh tranh về logistics thì
điểm của Việt Nam có sự tăng trưởng không ổn định (bảng 1). Điều này có thể
nói là xét về cơ sở hạ tầng và xét về công nghệ thì logistics Việt Nam có sự tiến
bộ, nhưng điểm về khả năng cạnh tranh của logistics của Việt Nam thể hiện qua
hoạt động cung cấp dịch vụ logistics của các công ty có sự suy giảm.
Bảng 1. Đánh giá về logistics của các nước ASEAN
2007
2010
STT Quốc gia
LPI
QCL
LPI
QCL
1
Campuchia
2.5
2.47
2.37
2.29
2
Indonesia
3.01
2.9
2.76
2.47
3
Lào
2.25

2.29
2.46
2.14
4
Malaysia
3.48
3.4
3.44
3.34
5
Myanmar
1.86
2.26
2.33
2.01
6
Philippines
2.69
2.94
3.14
2.95
7
Singapore
4.19
4.21
4.09
4.12
8
Thái Lan
3.31

3.31
3.29
3.16
9
Việt Nam
2.89
2.8
2.96
2.89
10 ASEAN
2.91
2.95
2.98
2.82
Ghi chú: -LPI: Chỉ số năng lực về logistics

2012
LPI
QCL
2.56
2.5
2.94
2.85
2.5
2.49
3.49
3.05
2.34
2.42
3.02

3.14
4.13
4.07
3.18
2.98
3
2.68
3.02
2.91

-QCL: Điểm về Chất lượng và khả năng cạnh tranh của dịch vụ logistics
Nguồn: Báo cáo Thứ hạng năng lực quốc gia về logistics của WB năm
2007, 2010 và 2012.
Hàng năm, theo thống kê thì có khoảng 300 công ty mới hoạt động trong
lĩnh vực logistics ra đời và làm gia tăng con số 1.000 công ty đang hoạt động


21
trong lĩnh vực này. Từ khi trở thành thành viên của WTO thì logistics đã chịu sức
ép từ sự cạnh tranh của các công ty của nước ngoài, điều này đã làm cho các
công ty logistics của Việt Nam trưởng thành hơn về khả năng cung ứng dịch vụ
.Nhiều công ty đã có cố gắng vươn lên để tham gia nhiều hơn vào các khâu quan
trọng và chính yếu trong chuỗi cung ứng logistics và đã tạo ra một số công ty có
tên tuổi trong lĩnh vực dịch vụ logistics. Tuy nhiên, với bề dày kinh nghiệm hoạt
động trong môi trường quốc tế, các công ty của nước ngoài vẫn chiếm ưu thế và
vẫn giữ các khâu quan trọng, đòi hỏi công nghệ và kĩ thuật phức tạp, có giá trị
gia tăng cao và lợi nhuận nhiều. Đó là lý do giải thích tại sao các công ty của
Việt Nam vẫn còn nhỏ bé (theo thống kê thì có khoảng 80% doanh nghiệp
logistics Việt Nam có vốn pháp định từ 1,5-2 tỉ đồng) và có công nghệ còn giản
đơn).

2. Về vấn đề xác định chiến lược phát triển
Việc đề ra chiến lược phát triển cho bất cứ ngành nào trong điều kiện mở
cửa và thực hiện cơ chế kinh tế thị trường là một điều rất khó khăn.Đối với lĩnh
vực logistics Việt Nam thì mục tiêu chiến lược là cần phát triển giá trị mà lĩnh
vực này tạo ra trong GDP của Việt Nam một cách hiệu quả.Để làm điều này thì
có hai hướng cơ bản.Một là, dựa vào sức mạnh và khả năng thúc đẩy mở rộng thị
trường của các doanh nghiệpnước ngoài, làm cho GDP của ngành logistics lớn
hơn và giữ vững tỉ trọng trong GDP.Qua đó, doanh nghiệp Việt Namcó thể tiếp
tục tích lũy vốn và tư bản đến mức có thể cạnh tranh và tham gia vào việc cung
ứng dịch vụ logistics với cấp độ dần cao hơn.Hai là, dựa vào sức phát triển của
doanh nghiệpđể thúc đẩy phát triển quy mô thị trường logistics bằng cách nhà
nước hoặc các doanh nghiệpsẽ tự hình thành một khung cạnh tranh dành cho các
doanh nghiệp logistics Việt Nam. Khung cạnh tranh này sẽ tạo ra một thế mới
cho các doanh nghiệpViệt Nam và sẽ làm tăng dần sức mạnh của các công ty
Việt Namtham gia trong mối tương quan với sức mạnh của công ty nước ngoài.
Một điều cần lưu ý là các doanh nghiệpViệt Namtham gia vào khung cạnh tranh
này cần là các doanh nghiệp được tổ chức bài bản và có chiến lược phát triển dài
hạn được xác định rõ ràng.


22
3. Về mô hình logistics cần hướng tới
Với việc phát triển logistics tại Việt Nam,cần có mô hình phát triển.Mô
hình được xây dựng đúng, phù hợp và tốt thì sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của đối tượng đó cũng như hình thành nên một sức mạnh từ nội lực. Sự
phát triển lĩnh vực logistics đòi hỏi cần có nhiều yếu tố phối hợp với nhau để
tạo nên một hệ thống vận hành một cách thống nhất như cơ sở hạ tầng, con
người, thông tin, khả năng cạnh tranh và chất lượng của dịch vụ logistics. Từ
các lập luận này, ta thấy mô hình logistics mà Việt Nam cần hướng đến và
xây dựng sẽ là một hệ thống bao gồm sự kết hợp của nhiều yếu tố và các yếu

tố này sẽ có tác động tương tác với nhau. Các yếu tố đó bao gồm yếu tố hải
quan, yếu tố cơ sở hạ tầng, vận tải đường biển quốc tế, chất lượng và khả
năng cạnh tranh logistics, khả năng theo dõi hàng hóa, yêu cầu về tính đúng
thời gian. Đây là những yếu tố cơ bản mà WB sử dụng để đánh giá sự phát
triển của hoạt động logistics của các quốc gia.
Bảng 2. Các yếu tố cấu thành của mô hình phát triển logistics Việt
Nam
STT Yếu tố

Trọng số

1

Hải quan

0,41

2

Cơ sở hạ tầng

0,41

3

Vận tải biển quốc tế

0,4

4


Chất lượng và khả năng cạnh tranh logistics

0,42

5

Khả năng theo dõi hàng hóa

0,41

6

Yêu cầu về đúng thời gian

0,4

7

Đánh giá tổng quát về lĩnh vực logistics

1

Đối với Việt Nam, có thể quan tâm hơn đến yếu tố “Chất lượng và khả
năng cạnh tranh logistics” bởi đây chính là điểm yếu và cũng là yếu tố cần phải
cải thiện trong giai đoạn trước mắt. Mặt khác, như các phân tích ở phần nội dung
về chiến lược ở trên thì thị trường Việt Namcó thể có hai hướng phát triển khác
nhau dựa vào sự phát triển của công ty nước ngoài hoặc là phát triển dựa vào sự
lớn lên và thúc đẩy của công ty Việt Nam. Điều này đưa đến sự cần thiết xem xét
việc phân tách yếu tố “Chất lượng và khả năng cạnh tranh logistics” thành hai



23
thành phần là “Chất lượng và khả năng cạnh tranh logistics của doanh nghiệp
nước ngoài” và “Chất lượng và khả năng cạnh tranh logistics của doanh nghiệp
Việt Nam”. Sự chia tách này sẽ giúp cho việc đánh giá mô hình sẽ tương ứng
chặt chẽ và thể hiện cụ thể một cách thực tế chiến lược được đưa ra.
II. Thực trạng chính sách phát triển Logistics ở Việt Nam
1. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động Logistics ở Việt Nam
Dịch vụ Logistics được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc
nhiều lĩnh vực cụ thể:
Thứ nhất, Luật thương mại 2005, từ Điều 233 đến Điều 240 và Nghị Định
số 140/2007/ NĐ-CP ngày 05/9/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều
kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân
kinh doanh dịch vụ Logistics:
Thứ hai, Các quy định pháp luật liên quan điều chỉnh dịch vụ Logistics:
Các quy định chung liên quan:Bộ luật dân sự 2005,Luật doanh nghiệp
2005,Luật đầu tư 2005,Luật cạnh tranh 2004,Luật Hải quan sửa đổi 2005.
Các quy định khác như:các quy định chuyên ngành:Luật đường sắt
2005,Luật giao thông đường bộ 2001,Thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng đường ô
tô 1990,Nghị định số 110/2006/NĐ- CP ngày 28/9/2006 về điều kiện kinh doanh
vận tải bằng ô tô,Luật giao thông đường thuỷ nội địa 2004,Luật hàng không dân
dụng Việt Nam 2006,Điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế của hãng hàng không
quốc gia Việt Nam 1993,Bộ luật hàng hải 2005,Nghị định số 49/2006/NĐ-CP về
thủ tục đăng ký tàu biển,Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh
dịch vụ vận tải biển,Pháp lệnh bưu chính và viễn thông năm 2002,Nghị định số
157/2007/NĐ-CP ngày 18/8/2004 quy định chi tiết việc thi hành một số điều
khoản về bưu chính của pháp lệnh bưu chính và viễn thông 2002,Thông tư số
01/2005 hướng dẫn thi hành Nghị định số 157.
2. Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh Logistics ở Việt Nam

2.1 Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics
Tại Điều 234 Luật Thương mại 2005 chỉ quy định rất chung về điều kiện
kinh doanh dịch vụ Logistics cụ thể: thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics là
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics theo quy định của pháp luật, Chính


24
phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics trong các văn bản
hướng dẫn thi hành
Nghị định 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về
điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương
nhân kinh doanh dịch vụ Logistics ban hành được coi là hành lang pháp lý quan
trọng để phát triển loại hình dịch vụ này tại Việt Nam.
Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ Logistics chủ yếu: Theo quy
định tại Điều 5 của Nghị định này, thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics
phải đáp ứng các điều kiện sau:
“ 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo quy định của
pháp luật Việt Nam
2. Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ
thuật, và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.
3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch Logistics ngoài việc đáp ứng
các điều kiện quy định tại khoản 2 điều này chỉ được kinh doanh dịch vụ
Logistics khi tuân thủ các điều kiện cụ thể sau đây:
a, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập
công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá
50%
b, Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì thành lập công ty liên doanh,
trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này
chấm dứt vào năm 2014;
c, trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty

liên doanh, trong đó tỷ lện góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%,
được thành lập công ty liên doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài kể từ năm 2014;
d, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty
liên doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%;
hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.”
Trước hết, cần khẳng định thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics phải
là doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện của Luật doanh nghiệp và Luật


25
doanh nghiệp Nhà nước, cũng như các văn bản hướng dẫn của các luật này. Theo
khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp: “ là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như
vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics có thể tốn tại dưới hình thức công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân… và tồn tại dưới hình thức nào thì phải đáp ứng điều kiện pháp luật về hình
thức ấy. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện của Luật
doanh nghiệp hoặc Luật doanh nghiệp nhà nước đều có thể kinh doanh dịch vụ
Logistics, mà còn phải đáp ứng các điều kiện riêng biệt khác của loại hình dịch
vụ này cụ thể: Doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ Logistics thì phải có đăng
ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về dịch vụ
Logistics. Đây được coi là một điều kiện rất quan trọng, là cơ sở để phân biệt
giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics với những thương nhân kinh
doanh dịch vụ đơn lẻ thuộc các công đoạn của hoạt động Logistics như dịch vụ
vận tải, giao nhận, khai thuế hải quan…Bên cạnh đó thì còn phải đáp ứng điều
kiện “ có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật
và có đội ngũ nhân viên đáp ứng nhu cầu”, điều đó có nghĩa là bên cạnh điều
kiện “ cần” còn phải có điều kiện “đủ”. Các phương tiện, thiết bị, công cụ ở đây

có thể là xe nâng hạ hàng hoá, dây chuyền, băng tải, phương tiện đóng gói mã
hoá hàng hoá…đặc biệt là phải có đội ngũ nhân viên được đào tạo đáp ứng nhu
cầu công việc. Có nghĩa là đội ngũ này phải đáp ứng các yêu cầu, trình độ, năng
lực, chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức hiểu biết pháp luật trong nước cũng như
pháp luật quốc tế. Ví dụ, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải,
thì phải thông thuộc mạng lưới giao thông vận tải để có thể tính toán lựa chọn
phương án tối ưu theo yêu cầu của chủ hàng, giải quyết việc tiếp chuyển giữa các
phương tiện vận tải và các chứng từ hàng hoá liên quan đến quá trình vận
chuyển, ngoài ra cũng phải hiểu biết pháp luật Việt Nam và vận dụng có hiệu quả
cũng như các tập quán thương mại quốc tế trong công việc.
Đối với thương nhân nước ngoài khi tham gia kinh doanh dịch vụ Logistics
ở Việt Nam, bên cạnh phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như thương


×