Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Đề tài Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở Việt Nam như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.77 KB, 15 trang )

Đề tài: Phân tích cam kết của VN với WTO về dịch vụ bán lẻ và đánh giá tác động của
những cam kết này với dịch vụ bán lẻ ở VN như thế nào.

Chương 1: Phân tích cam kết của VN với WTO về dịch vụ bán lẻ.
1.1.

Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ bán lẻ khi gia nhập
WTO:

Theo phân ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ bán lẻ là một trong 5 tiểu ngành
của dịch vụ phân phối bao gồm:
1) Dịch vụ đại lý hoa hồng;
2) Dịch vụ bán buôn;
3) Dịch vụ bán lẻ;
4) Cấp phép;
5) Các dịch vụ khác
Bán lẻ là hoạt động có nghiệp vụ chủ yếu là bán hàng hóa cùng các dịch vụ kèm theo
cho người tiêu dùng cuối cùng, đó là tiêu dùng cá nhân và gia đình, tiêu dùng không
mang tính kinh doanh.
Cơ sở bán lẻ là các hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ bán lẻ cố định, với các loại
hình doanh nghiệp thương mại bán lẻ hoặc điểm bán lẻ. Các loại hình cơ sở bán lẻ
chủ yếu gồm: Trung tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng bách hóa, cửa
hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng đồ hiệu, cửa hàng giá rẻ, cửa hàng
tạp hóa, chợ, trung tâm phân phối, trung tâm tiêu thụ của nhà sản xuất…Có hai loại
nhà bán lẻ chính là các nhà bán lẻ qua chợ, cửa hàng và các nhà bán lẻ không qua cửa
hàng.
Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa tất cả các pân ngành dịch vụ phân phối
theo phân loại của WTO, trong đó có dịch vụ bán lẻ (bao gồm cả hoạt động bán hàng
đa cấp) vì vậy ngành phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá
trình mở cửa thị trường trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO.
Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ bán lẻ khi gia nhập WTO:


1.1.1. Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam:
Theo nội dung cam kết, nhà phân phối nước ngoài chịu hạn chế về diện mặt hàng được
phép phân phối tại Việt Nam. Hạn chế này có thể được chia thành 2 danh mục: danh mục
các mặt hàng hạn chế lâu dài và danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình.
 Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài
Là danh mục được quy định tại mục “các biện pháp áp dụng cho toàn bộ phân
ngành trong dịch vụ phân phối”, bao gồm thuốc lá và xì gà, báo và tạp chí, vật phẩm đã
ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ và dầu đã qua chế biến, gạo,
đường mía và đường củ cải. Đây là các mặt hàng nhạy cảm mà Chính phủ Việt Nam chưa
có ý định cho nước ngoài tham gia phân phối tại Việt Nam. Việt Nam mở cửa các dịch vụ
phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng
1


sau đây:
- Thuốc lá và xì gà;
- Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình;
- Kim loại quý và đá quý;
- Dược phẩm;
- Thuốc nổ;
- Dầu thô và dầu đã qua chế biến;
- Gạo, đường mía và đường củ cải.
Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các doanh
nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài (được
thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân phối các
sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt
hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại. Các nhà
phân phối nước ngoài không được phép làm đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ và nhượng
quyền đối với tất cả các mặt hàng thuộc danh mục này. Ngoài ra, họ không được bán các
mặt hàng này thông qua các cơ sở đã thiết lập tại Việt Nam như liên doanh hoặc doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài và không được phép bán các mặt hàng này qua mạng.
 Danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình
Gồm các mặt hàng được quy định tại cột hạn chế về tiếp cận thị trường mà nhà phân
phối nước ngoài, cụ thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không được phép
phân phối tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi Việt Nam gia
nhập WTO. Danh mục này bao gồm xi măng và clinke, lốp (trừ lốp máy bay), giấy, máy
kéo, phương tiện cơ giới, ôtô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân
bón. Theo như cam kết trong dịch vụ phân phối, đến năm 2010, danh mục này sẽ được
bãi bỏ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép phân phối tất cả các
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu vào Việt Nam (ngoại trừ các mặt hàng
thuộc danh mục hạn chế lâu dài). Một điểm cần lưu ý là danh mục này không ápdụng đối
với dịch vụ nhượng quyền thương mại. Điều này có nghĩa là nhà phân phối nước ngoài
được phép cung cấp dịch vụ nhượng quyền cho tất cả các mặt hàng thuộc danh mục hạn
chế có lộ trình.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được
phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện
cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân
phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
1.1.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác:

2


Khi gia nhập vào WTO, ta cũng cam kết cho phép bán hàng qua mạng từ nước
ngoài vào Việt Nam – 1 hình thức cung cấp hàng qua biên giới. Phương thức này có thể
thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, với
phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các
loại hàng hóa sau:
- Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân.

- Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì
mục đích thương mại.
- Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng phải tuân thủ các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Phân phối qua mạng hoặc các hình thức thương mại điện tử khác được coi là cung
cấp dịch vụ qua biên giới nếu bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ không ở cùng
một quốc gia.
Cam kết chỉ áp dụng đối với việc nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bán hàng từ
nước ngoài vào Việt Nam thông qua mạng Internet hoặc các hình thức thương mại điện
tử khác. Trong trường hợp này, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vẫn ở nước ngoài,
không di chuyển vào Việt Nam để thành lập hiện diện thương mại như chi nhánh hoặc
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài
Việt Nam cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện hoạt động
phân phối tại Việt Nam dưới các hình thức sau:
-

-

Lập liên doanh với đối tác Việt Nam với điều kiện phần vốn nước ngoài trong liên
doanh không vượt quá 49% (từ ngày 1/1/2008 sẽ không hạn chế vốn nước ngoài
trong liên doanh).
Lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (với điều kiện là phải lập sau ngày
1/1/2009).

Một hạn chế chung trong hoạt động của các hình thức hiện diện thương mại này là
họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ bán lẻ thông qua việc lập cơ sở bán lẻ (cửa hàng, siêu
thị ..). Tuy nhiên các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tự động
mở một địa điểm bán lẻ, việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) phải được

cơ quan có thẩm quyền cho phép. Việc lập cơ sở bán buôn không phải chịu hạn chế này.
Trong một số cam kết dịch vụ, Việt Nam cho phép “ thành lập liên doanh không
hạn chế tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài” theo lộ trình (kết thúc lộ trình vẫn chỉ cho
3


phép thành lập liên doanh với một tỉ lệ vốn tối đa của nhà đầu tư nước ngoài). Cam kết
này được hiểu là Việt Nam cho phép thành lập liên doanh với tỉ lệ vốn đầu tư nước ngoài
trong liên doanh có thể lên đến 99,99%. Tuy nhiên cho phép thành lập liên doanh không
hạn chế vốn không đồng nghĩa với việc cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
1.1.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT):
Theo cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được thành lập một cơ sở bán lẻ
tại Việt Nam. Để thành lập cơ sở bán lẻ từ thứ hai trở đi (ngoài cơ sở thứ nhất), họ phải
xin phép cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn
cứ vào một số tiêu chí như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện tại một khu
vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý để quyết định có cho phép mở
thêm điểm bán lẻ hay không.
Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
công ty liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài và công ty có vốn góp của nước ngoài
dưới hình thức mua cổ phần. Do vậy, nếu doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam hoạt động
trong lĩnh vực phân phối bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, họ có thể bị coi là nhà
cung cấp dịch vụ có yếu tố nước ngoài và phải chịu hạn chế về kiểm tra nhu cầu kinh tế
(ENT) dù trước khi bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp không bị ràng
buộc bởi hạn chế này.
1.1.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại:
Theo nội dung cam kết, ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài sẽ được phép thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của nước ngoài không
vượt quá 49%. Đến 01/01/2008, họ được phép góp vốn vào công ty liên doanh với tỷ lệ
bất kỳ và tới 01/01/2009 sẽ được quyền thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để

hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Điểm đáng lưu ý là các nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài còn được phép thành lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ nhượng
quyền thương mại từ ngày 1/1/2010 với
điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Danh mục các
mặt hàng hạn chế tạm thời không áp dụng đối với lĩnh vực nhượng quyền thương mại.
Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài vẫn được áp dụng
1.2. Đánh giá nội dung cam kết:
Tiến sĩ Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch Thường trực, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán
lẻ Việt Nam khẳng định bán lẻ là kênh tiêu dùng ngày càng quan trọng, tuy nhiên hiện
mới chỉ chiếm 22% trên cả nước, so với các quốc gia khác Việt Nam vẫn ở mức độ thấp,
(Thái Lan 34%, Trung Quốc 51%...). Tiến sĩ Loan đánh giá việc mở cửa thị trường đòi
hỏi sự cạnh tranh bình đẳng và phát triển bền vững, cần có chiến lược dài hạn cho ngành
4


phân phối - bán lẻ từ phía Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp; tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển hệ thống phân phối - bán lẻ, v.v ...
Theo đánh giá chung của ngành chức năng, sau hơn ba năm gia nhập WTO và hơn
một năm mở cửa cho các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài được phép đầu tư
vào Việt Nam, vẫn chưa xuất hiện làn sóng đầu tư mạnh từ phía nhà đầu tư nước ngoài
như dự đoán trước đó. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một thị trường bán lẻ hấp dẫn với dân
số 84 triệu người, cơ cấu dân số trẻ và có sức mua ngày càng tăng. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ năm 2009 theo giá thực tế đạt gần 1.200 nghìn tỷ đồng; đã thu
hút nhiều tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn như Big C, Metro, Parkson, Lotte, v.v..
Cam kết của Việt Nam với WTO về dich vụ phân phối là phù hợp với sự phát triển
của ngành phân phối nói riêng và cả nền kinh tế nói chung thậm chí còn chặt chẽ hơn
thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này trong nước
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh
vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng. Tuy là một thị trường quy mô nhỏ
nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ,

Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến
hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó
doanh nghiệp FDI có 21 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu
FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu
của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson
thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... đã có
mặt ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng
cao qua các thời kỳ: 1996-2000: 10,75%/năm, 2001-2005: 18,3%, 2006-2008: 25%. Tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm 2010 đạt 747,4 nghìn
tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, Việt Nam liên tục được xếp
thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư
vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế
giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, chính phủ Việt Nam đã
sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để
điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối, góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện theo đúng cam kết gia nhập WTO. Việc rà soát lại hệ
thống pháp luật về dịch vụ phân phối, đánh giá tác động của việc mở cửa thị trường dịch
vụ phân phối của Việt Nam, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để đề ra những
giải pháp cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực phân phối của nước ta đang trở thành một
yêu cầu cấp thiết.
5


Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài đã
được cấp phép trước đó sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định
trong giấp phép. Tuy nhiên các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO
sẽ phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với dịch vụ phân phối. Điều đó cũng là 1
bước đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình hội nhập
Cam kết mang tính bảo hộ thị trường phân phối trong nước:

Việc han chế các mặt hàng được phân phối nhằm bảo đảm an ninh quốc gia cũng
như an toàn trong nước. Nhưng việc hạn chế các mặt hàng như dược phẩm, dầu thô, gạo
cho thấy một phần bảo hộ của nhà nước. Đấy là những nhóm ngành thiết yếu của nền
kinh tế, việc hạn chế phân phối như trong cam kết bảo đảm việc nhà nước quản lý và điều
tiết được các mặt hàng này trên thị trường
Xét trong ngắn hạn, việc hạn chế 1 số mặt hàng bao gồm các sản phẩm công
nghiệp, một phần nhằm tạo thời gian cho các doanh nghiệp trong nước có bước phát
triển, chuẩn bị đương đầu với các thách thức khi mở cửa toàn bộ thị trường.
Việc thực hiện các quy định của ENT thực chất đã hạn chế một phần lớn việc xâm
nhập thị trường của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài, Bở việc thực hiện đầy đủ
các quy định của nhà nước để mở đại lý tiếp theo rất phức tạp, hơn nữa việc có mở hay
không không phụ thuộc vào cơ chế thị trường, mà phụ thuộc vào quyết định của cơ quan
chủ quản
Hội nhập và phát triển thị trường bán lẻ hiện đại tuy được coi là xu thế tất yếu
trong nền kinh tế thị trường, nhưng ở một góc nhìn khác, việc mở cửa thị trường bán lẻ
cũng sẽ tạo áp lực lớn đến các nhà sản xuất, đặc biệt là các nhà phân phối trong nước.

6


Chương 2: Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch vụ
bán lẻ của nước ta.
2.1. Ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO:
2.1.1 Thời kì trước khi gia nhập WTO:
Theo số liệu của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), trong giai đoạn 20012005 doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/năm, cao gấp khoảng 2
lần so với mức tăng trưởng bình quân GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ thống phân phối của
ta vẫn chưa phất triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006
thì hàng hóa đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ
thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống
phân phối hiện đại(trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn..) mới chỉ chiếm

khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Chúng ta có thể thấy sự yếu kém
trong dịch vụ phân phối- bán lẻ của Việt Nam như sau:
 Chất lượng dịch vụ thấp hạn chế sức cạnh tranh
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ của Việt Nam còn thấp.
Chiến lược cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ
chủ yếu dựa vào giá thay vì chất lượng dịch vụ. Rào cản chủ yếu của việc cung cấp dịch
vụ chất lượng ở Việt Nam là sự hiểu biết hạn chế của khách hàng về các yếu tố tạo thành
chất lượng dịch vụ và lợi thế cạnh tranh có được từ việc mua các dịch vụ chất lượng. Sự
hạn chế về tiêu thụ hàng Việt Nam cũng do chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp Việt
Nam còn khá lạc hậu, thô sơ và yếu kém.
Cũng tương tự như việc hình thành tác phong công nghiệp, trong lĩnh vực dịch vụ
phân phối, Việt Nam còn điểm yếu ở thái độ phục vụ, văn minh thương nghiệp. Việc
chuyển biến dần từ hình thức phân phối truyền thống sang hiện đại không chỉ gói gọn ở
việc hình thành các cơ sở hạ tầng thương mại mà còn ở thái độ, tư duy của người bán,
người phục vụ, chính sách bán hàng, sự trung thực, uy tín trong mua bán…
 Chưa tạo đà cho khu vực sản xuất.
Mặc dù khu vực dịch vụ của Việt Nam đang trở thành một động lực quan trọng
của tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP vẫn khiêm tốn và ít thay
đổi trong gần một thập kỷ qua. Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ chiếm 38-39% GDP, thấp hơn
tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi và các nền
kinh tế ở Đông Nam Á (cụ thể là Singapore, Phi-lip-pin, Thái Lan, Cam-pu-chia,
Malaysia và In-đô-nê-xia).
7


Trong khu vực dịch vụ, các dịch vụ phục vụ nhu cầu cuối cùng như dịch vụ phân
phối, khách sạn và nhà hàng, du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và tổng lực lượng lao
động. Ngược lại, các dịch vụ trung gian có giá trị gia tăng cao và đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế chưa được phát triển
đúng mức và chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Hơn nữa, dịch vụ phân phối

mới tiếp cận theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường, chưa tạo đươc việc gợi mở tiêu
dùng cho khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất.
Tình hình trên đây cho thấy những yếu kém xét cả từ phía doanh nghiệp và Nhà
nước, từ góc độ chiến lược kinh doanh và môi trường kinh doanh. Đây là một trong
những dấu hiệu “cảnh báo”, nếu không có những giải pháp tăng cường hiệu quả hơn, nền
kinh tế Việt Nam vẫn có nguy cơ tiếp tục bị tụt hậu xa hơn và ảnh hưởng đến phát triển
bền vững trong dài hạn.
2.1.2 Thời kì sau khi gia nhập WTO:
Sau 6 năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO đã đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trong ngành dịch vụ bán lẻ. Kể từ khi gia nhập
WTO, ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng đáng kể. Phân phốibán lẻ đóng góp khoảng 14% GDP, sử dụng hơn 5 triệu lao động, cao nhất trong các
ngành dịch vụ. mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam từ năm 20062008 đã tăng 25%/ năm, cao hơn mức 18,3%/ năm trong giai đoạn 2001-2005. Năm 2009
và 2010 là 2 năm khó khăn do các tác động của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu,
suy thoái kinh tế thế giới, nhưng theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì doanh
số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam tăng lần lượt là 18,6% và 24,5%
(nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 12% vào năm 2009 và 14% vào năm 2010).
Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn trên Thế
giới, do Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong vòng nhiều năm qua, dân
số đông, trong đó một nửa dân số dưới 30 tuổi, chi tiêu của người tiêu dùng tăng 16% và
doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004- 2005. Doanh số bán lẻ thị trường Việt
Nam được các chuyên gia dự đoán khoảng 20 tỷ USD mỗi năm. Vì thế, sau khi gia nhập
WTO, nhiều tập đoàn bán lẻ với quy mô hàng đầu Thế giới đã đặt chân đến Việt Nam
mang theo những thương hiệu nổi tiếng Thế giới, tạo ra một nguồn cung hàng hóa phong
phú, đáp ứng tối đa nhu cầu mua sắm của người dân.
Tới cuối năm 2006, trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân
phối lớn của thế giới như Metro Cash and Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại
TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; Big C có các siêu thị đang hoạt động
tại TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM. Bên
8



cạnh đó, tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào Việt Nam thông qua hình thức liên
doanh.
Đặc biệt, theo như cam kết, năm 2009 Việt Nam bắt đầu mở cửa cho các doanh
nghiệp kinh doanh phân phối và bán lẻ nước ngoài tự do gia nhập thị trưởng Việt Nam.
Đến thời điểm này, mặc dù đã có một số doanh nghiệp trong nước như Sài Gòn Co-op
mart, Metro, Phú Thái… đã có động thái tích cực phát triển kênh phân phối nhằm đáp
ứng nhu cầu của thị trường, giành chỗ đứng trên thị trường. Thế nhưng khả năng liên kết
thấp, chưa mang tính chuyên nghiệp giữa các kênh phân phối trong nước đang là một trở
ngại khiến doanh nghiệp khó có khả năng cạnh tranh với hệ thống phân phối nước ngoài
trong thời gian tới.
2.2 Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập:
Hội nhập và mở cửa thị trường là một xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay. Mở
cửa thị trường sẽ có những tác động tích cực và tác động tiêu cực đến hoạt động thương
mại. Mức độ tác động phụ thuộc vào mức độ mở cửa thị trường. Theo nguyên tắc hoạt
động của WTO thì các nước phát triển có mức độ mở cửa thị trường cao hơn và tốc độ
nhanh hơn, còn các nước đang và chậm phát triển có mức độ mở cửa thị trường thấp hơn
và tốc độ chậm hơn.
Về mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ ở Việt nam được đánh giá là phù hợp. Mở cửa thị
trường có các tác động tích cực và tiêu cực đến hệ thống bán lẻ của Việt nam.
 Các tác động tích cực.
Tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ thống bán lẻ Việt
nam.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt nam, các doanh
nghiệp chỉ được phép mở một điển bán lẻ, còn từ điểm thứ 2 sẽ được xem xét trên cơ sở
kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư các siêu thị
lớn, đáp ứng cho nhu cầu mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng. Đây là các
siêu có quy mô lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện và kỹ thuật
hiện đại trong cung cấp dịch vụ bán lẻ, phong cách phục vụ mới lạ, tạo nên sự văn minh

hiện đại trong phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú và ngày càng nâng cao của
người tiêu dùng. Qua khảo sát siêu thị Big C ở Hải phòng, Hà nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng nai, trong các ngày nghỉ, ngày tết, ngày lễ đã thu hút một lượng khách hàng
lớn đến tham quan và mua sắm.
Học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.

9


Các siêu thị bán buôn, bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt nam như Metro,
Big C, Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các công nghệ quản lý và kinh doanh
hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và cung cấp nguồn hàng, chương trình quảng
cáo khuyến mại, hệ thống logicstics, quản trị nhân sự, kỹ thuật bán hàng…đây là các vấn
đề có tính then chốt trong hoạt động của siêu thị mà các doanh nghiệp Việt nam còn
nhiều hạn chế. Giám đốc Big C Hải phòng cho rằng hệ thống Big C có phương pháp khai
thác nguồn hàng và cung cấp hàng hóa cũng như các chương trình khuyến mại, bán hàng
rất linh hoạt, hiệu quả, tạo ra các mặt hàng, các dịch vụ khách hàng rất độc đáo với chi
phí thấp và cạnh tranh có tác dụng thu hút khách hàng, tăng doanh số bán hàng và rất
đáng để các siêu thị khác học tập
Tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nhà bán lẻ Việt nam
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong dịch vụ bán lẻ nói riêng để phát triển
phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng. Các siêu thị nước ngoài với các ưu
điểm có tính nổi trội là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các siêu thị, các chuỗi cửa hàng
tiện ích của các doanh nghiệp Việt nam. Để tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải tự hoàn
thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh , đây là động lực để các doanh nghiệp phát
triển
Làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên thị trường
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng
nhu cầu bậc cao của thị trường. Các doanh nghiệp Việt nam chủ yếu cung cấp các hình
thức bán lẻ truyền thống, các chuỗi cửa hàng tiện ích, các siêu thị có chất lượng dịch vụ

bậc trung. Sự có mặt của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đã làm đa dạng hoá, tạo
nên một chuỗi các sản phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị trường bán lẻ của Việt
nam.
Tăng cơ hội hợp tác kinh doanh
Chỉ tính riêng phương thức 3, để tiếp cận thị trường bán lẻ Việt nam doanh nghiệp nước
ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, có thể góp vốn
liên doanh với các doanh nghiệp Việt nam, có thể mua cổ phần của các doanh nghiệp bán
lẻ Việt nam, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài còn có nhu cầu thuê mặt bằng, nhu
cầu về dịch vụ nghiên cứu thị trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ….đây là cơ hội
để các doanh nghiệp Việt nam hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ
Mở cửa thị trường phân phối sẽ tạo nên một sự cạnh tranh rất gay gắt, các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình. Một trong các giải pháp tạo nên khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng cao chất
lượng giảm giá thành dịch vụ, làm chất lượng dịch vụ khách hàng thường xuyên được cải
thiện, giá hàng hóa có tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế tại siêu thị Intimex Hải phòng,
10


Coop Mart Thành phố Hồ Chí Minh đều cho rằng để cạnh tranh với các siêu thị nước
ngoài như Big C, các siêu thị này đều phải áp dụng các biện pháp nhằm nâng chất lượng
dịch vụ tạo nên sự văn minh, sang trọng trong phong cách phục vụ, giảm các chi phí
nhằm giảm giá hàng hóa nhằm thu hút khách hàng, điều này kích thích tiêu dùng và tác
động tích cực đển dòng vận động của hàng hóa để phát triển sản xuất.
Góp phần xuất khẩu hàng hóa cho Việt nam.
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có hệ thống, bán buôn, bán lẻ toàn cầu, một số
hàng hóa Việt nam được xuất khẩu để cung cấp cho hệ thống ở nước ngoài. Ở Việt nam,
Metro đã tham gia xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam cho hệ thống Metro toàn cầu,
các doanh nghiệp khác hoạt động xuất khẩu cũng còn hạn chế.
 Các tác động tiêu cực

- Tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp bản lẻ trong nước
Tạo nên sự cạnh tranh vừa tác động tích cực, nhưng vừa là tác động tiêu cực đến các
doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Mở cửa thị trường áp lực cạnh tranh nên các doanh
nghiệp trong nước ngày càng tăng cao, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước phải thường
xuyên đổi mới, tự hoàn thiện để phát triển trong môi trường có tính cạnh tranh quốc tế,
những doanh nghiệp không đủ khả năng cạnh tranh sẽ bị loại ra khỏi hệ thống hoặc
chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác phù hợp hơn.
Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước bị mất dần thị phần
Khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường chọn các phân khúc
thị trường hấp dẫn để chiếm lĩnh, thường là các phân khúc thị trường mà các doanh
nghiệp Việt nam chưa có lợi thế. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp nước ngoài làm cho
thị trường của các doanh nghiệp Việt nam bị thu hẹp, gây khó khăn cho sự phát triển của
các doanh nghiệp bán lẻ trong nước
- Có một sự chuyển dịch nguồn nhân lực chất lượng cao từ các doanh nghiệp bán lẻ
trong nước sang các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có các điều kiện làm việc tốt và trả mức lương
hấp dẫn hơn. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hệ thống bán lẻ trong nước
sẽ cần nguồn nhân lực trong nước, theo kinh nghiệm của Trung quốc sẽ có một số cán
bộ quản lý, bán hàng, phục vụ có chất lượng cao được chuyển dịch từ các doanh nghiệp
trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước sang các doanh nghiệp nước ngoài.
Qua khảo sát tại Coop. Mart, Maximark nhiều cán bộ quản lý và nhân viên bán hàng đã
sang làm việc tại các siêu thị nước ngoài. Sự chuyển dich nguồn nhân lực, nhất là các
nhà quản lý cấp cao có chất lượng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước.
Cuối cùng, một vấn đề lớn mà Việt Nam phải đối mặt là làm thế nào để cân bằng
các chính sách kinh tế xã hội với việc thực thi các hạn chế trong Biểu cam kết của Việt
11


Nam. Nhiều cán bộ Chính phủ và chuyên gia cho rằng các cam kết WTO khiến các cơ
quan quản lý địa phương khó có thể chỉ theo đuổi các mục tiêu kinh tế xã hội riêng của

địa phương. Các chuyên gia Việt Nam nêu ví dụ như sau: “Nếu địa phương muốn thu hút
các dự án đầu tư lớn vào lĩnh vực phân phối, họ sẽ phải vi phạm các cam kết. Nếu không,
họ phải từ chối hồ sơ đề nghị cấp phép của các nhà phân phối nước ngoài. Việt Nam đã
gặp tình huống này nhiều lần. Gần đây METRO đã yêu cầu Chính phủ Việt Nam cấp giấy
phép lập cơ sở bán lẻ thứ 9 và trao quyền bán gạo tại chi nhánh này. Hồ sơ của Metro
được Ủy ban nhân dân tỉnhAn Giang ủng hộ hoàn toàn vì dự án của Metro dự kiến sẽ hỗ
trợ lớn cho các nông dân canh tác lúa gạo ở An Giang. Tuy nhiên, gạo là mặt hàng loại
trừ trong các cam kết WTO về dịch vụ phân phối. Nếu Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
đồng ý cấp phép cho METRO, họ sẽ vi phạm các cam kết WTO”.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa cam kết WTO của Việt Nam với sự tự do trong việc
theo đuổi các chính sách kinh tế chính đáng thật ra không có thực mà chẳng qua là sự suy
diễn sai bản chất cam kết WTO. Các cam kết về mở cửa thị trường của các thành viên
WTO thể hiện mức ‘sàn’ chứ không phải mức ‘trần’. Nói cách khác, các cam kết GATS
của Việt Nam về lĩnh vực phân phối ràng buộc Chính phủ Việt Nam phải cho phép
METRO được phân phối hàng hóa trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không ràng buộc phải
cho phép phân phối gạo. Việc trao cho nhà phân phối nước ngoài quyền phân phối gạo
hay lập cơ sở bán lẻ thứ hai không hạn chế là tùy ở Việt Nam chứ không phụ thuộc vào
WTO hay cam kết GATS. Việt Nam được phép áp dụng các hạn chế theo Biểu cam kết
nhưng không bắt buộc phải áp dụng các hạn chế này. WTO không ngăn cản Việt Nam
mở cửa thị trường ở mức độ cao hơn mức quy định trong Biểu cam kết. Cách diễn giải
khác đi là trái ngược với bản chất của các Hiệp định WTO vốn khuyến khích tự do hóa
thương mại.

12


Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ bán lẻ
trong điều kiện hội nhập.
3.1.


Về việc xây dựng nền tảng tài chính và cơ sở vất chất:

3.1.1. Liên kết các doanh nghiệp bán lẻ nội địa:
Trong tình hình của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, cụ thể là đa số các doanh
nghiệp thuộc loại nhỏ, kinh doanh lẻ tẻ, rời rác, chỉ 1 số ít được coi là “ông lớn” nhưng
cũng chỉ có mức tài chính thấp so với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ở Việt Nam. Việc
lien kết là một xu thế tất yếu nếu dịch vụ bán lẻ nội địa muốn phát triển ngay trên sân
nhà. Có nhiều hình thức và mức độ lien kết khác nhau, từ lien kết một phần tới lien kết
toàn phần. Các doanh nghiệp cần ít nhất là liên kết trong khâu mua hàng, nhằm tăng số
lượng đơn vị hàng hóa trong từng lần đặt hàng. Các nhà bán lẻ còn có thể lên kết trong
vận chuyển, dự trữ và phân phối hàng hóa từ kho cơ sở tới kinh doanh.
Điểm mạnh của giải pháp là đây là một hình thức tương đối dễ dàng, ít thủ tục, dựa trên
cam kết hai bên cùng có lợi. Việc liên kết đem lại hiệu quả khá lớn, nhằm tiết kệm chi phí
cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế, sự rang buộc giữa các thành
viên còn lỏng lẻo, các thành viên còn tồn tại lợi ích riêng lẻ, dẫn tới mâu thuẫn việc phân
chia kho vận và thị trường.
3.1.2. Hợp nhất và sát nhập:
đây là một phương án khác mà các doanh nghiệp bán lẻ nội địa nhằm làm tăng tiềm lực
tài chính của doanh nghiệp. Hợp nhất doanh nghiệp được định nghĩa là hai hay một số
công ty cùng loại có thể hợp nhất thành một công ty mới bằng cách chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của công ty bị sáp nhập.
Điểm mạnh của giải pháp nhằm thống nhất chiến lược, chính sách kinh doanh, chính
cách bán hàng. Việc hợp nhất hay sáp nhập nhằm làm tăng tiềm lực tài chính cỏa doanh
nghiệp. Việc hợp nhất tạo ra một công ty mới có nguồn vốn lớn hơn nhiều so với các bên
trước hợp nhất. Tuy nhiên, việc hợp nhất và sáp nhập cũng gặp phải nhiêu rủi ro của việc
lựa chọn đối tác không chính xác. Nếu không có những lựa chonjk kĩ càng sẽ có thể dẫn
tới những hậu quả đáng nghiêm trọng. Khi tiến hành sáp nhập, các doanh nghiệp sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn trong việc thống nhất đường lối, chính sách hoat động. Ngoài ra, với
đặc điểm thị trường bán lẻ của việt nam, sẽ phát sinh thêm nhiều khó khăn cho các

thương vụ hợp nhất và sát nhâp, đó là đa số các doanh nghiệp bán lẻ ở Việt Nam có quy
mô quá nhỏ, muốn hợp nhất thành doanh nghiệp lớn là điều rất khó. Còn đối với các
13


doanh nghiệp lớn, do tâm lý muốn sỡ hữu, độc chiếm thị trường nên họ không muốn sáp
nhập.
3.1.3.Tận dụng các nguồn vay tài chính ưu đãi:
Hiện nay có rất nhiều các nguồn vốn cho vay ưu đãi phát triển với các doanh nghiệp nội
địa vừa và nhỏ, đáp ứng nhu cầu cho vay. Đó là các nguồn vốn cho vay ưu đãi từ các
chính sách hỗ trợ của nhà nước, nguồn vốn tài trợ quốc tế cũng dành nhiều ưu đãi cho
doanh nghiệp Việt Nam.
Điểm mạnh của giải pháp này là các nghuồn vốn ưu đãi thường có thời gian tương đối
dài với lãi suất thấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ thời gian và khả năng phát
triển, nâng cao sức cạnh tranh. Mặt khác, các quy định đề hướng vốn vay cũng càng ngày
được thông thoánh hơn, các nguồn vốn vay trở thành chỗ dựa cho các doanh nghiệp Việt
nam. Tuy nhiên, đây là giải pháp được áp dụng từ rất lâu, vì thế nếu không có sự thay đổi
trong việc sử dụng vốn vay thì khó có thể tạo ra sự đột biến trong cạnh tranh với doanh
nghiệp bán lẻ nước ngoài.
3.2.Về Việc xây dựng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng:
3.2.1. Các biện pháp thu hút khách hàng, gia tăng thị phần:
- Quang cáo, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp
Quảng cáo vẫn là một trong những cách hiệu quả để ngườ tiêu dung biết đếnthương
hiệu của một doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều loại hình tiếp thị, được phgaan theo
nhiều hình thức khác nhau.Quảng cáo trực tuyến là hình thức quảng cáo có thông qua
mạng internet nhờ các công cụ như công cụ tìm kiếm.
Ưu điểm của phương pháp này là chi phí thấp, quảng cáo có sự tương quan giữa người
xem và doing nghiệp, số người tiếp cận là khá lớn. Quảng cáo qua các tờ rơi là hình thức
thường được các doanh nghiệp bán lẻ sử dụng nhiều nhất để quảng cáo cho các hoạt động
của mình Quảng các hay tiếp thị truyền miệng là một hình thức vô cùng độc đáo vì nó

gần như là hình thức quảng cáo miễn phí
- Các chương trình khuyến mại
Việc tiến hành các chương trình khuyến mại được rất nhiều doanh nghiệp bán lẻ thực
hiện thường xuyên và nó cũng được rất nhiều người tiểu dung ủng hộ.
- Mở rộng thị trường về khu vực nông thôn

14


Hiện nay đời sống tại các vùng nông thôn đã được nâng lên đáng kể, nhất là ở những
khu vực có tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa. Mặt khác ở thị trường nông thôn, khi cơ
sở hạ tầng chưa phát triển đầy đủ, hầu như đây sẽ không phải mục đích của các nhà bán
lẻ nước ngoài trong nhiều năm nữa, nên có thể nói đây là thị trường đầy tiềm năng mà lại
ít lo sợ bị cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
3.2.2. Các biện pháp giữ chân khách hàng:
- Làm hài lòng khách hàng bằng các dịch vụ thực sự tốt
Nghệ thuật giữ chân khách hàng là nằm ở chỗ tạo sự thoải mái khi họ đang mua sắm ở
các cơ sở phân phối của doanh nghiệp. Muốn nâng cao chất lượng dịch vụ cảu siêu thị,
điều đầu tiên mà các nhà bán lẻ cần làm là nâng cao năng lực phục vụ của nhân viên.Thái
độ phục vụ đối với khách hàng còn được biểu hiện ở việc các nhà quản lý của doanh
nghiệp đối xử với các khách hàng ra sao. Ngoài ra chất lượng dịch vụ bán lẻ còn được
xây dựng nhờ việc phát triển hệ thống thanh toán hiện đại, nhanh chóng
- Thiết lập các hình thức ưu đãi cho khách hàng quen thuộc
Ở hình thức này các doanh nghiệp bán lẻ xây dựng các hệ thống bán hàng nhờ vào các
thẻ hội viên hoặc các thẻ khách hàng thấn thiết. Khi các khách hàng mua sắm đến một số
lượng nhất định sẽ được hưởng các ưu đãi tương ứng. Như vậy chỉ bằng hình thức ưu đãi
đơn giản, doanh nghiệp bán lẻ đã đem lại cho mình nhiều khách hàng quen thuộc hơn và
nhiều doanh thu cho mỗi lần mua sắm của khách hàng.

15




×