Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN tiếp nhận truyện kiều từ góc độ thi pháp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.6 KB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
" TIẾP NHẬN TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC"

1


MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
1. Thi pháp học là bộ môn khoa học xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, gắn liền với tên tuổi
của Aristote và cuốn Nghệ thuật thi ca của ông. Thi pháp học là bộ môn lâu đời nhất
nghiên cứu văn học. Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, nó mới thực sự trở thành một môn
khoa học được nhiều người biết đến. Thi pháp học nghiên cứu hệ thống các phương thức,
phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. “Thi
pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác
giả cũng như nắm bắt mã văn hóa nghệ thuật của các tác giả và các thời kì văn học
nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm” [Từ điển thuật ngữ văn học, tr
251]. Ở Việt Nam, vấn đề Thi pháp học không còn mới mẻ nhất là sau thời kì đổi mới
văn học năm 1986. Thi pháp học được nghiên cứu, giảng dạy ở bậc Cao học, Đại học và
có mặt trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Thi pháp học được vận
dụng trong bài giảng của giáo viên, bài làm văn của học sinh và trở thành một hướng đi
hiệu quả nhằm khám phá, tiếp nhận tác phẩm văn học.
2. Truyện Kiều mang lại niềm tự hào cho nền văn học Việt Nam. Đó là tác phẩm kết tinh
vẻ đẹp của ngôn ngữ và tâm hồn dân tộc. Truyện Kiều là tuyệt đỉnh văn chương trải qua
thời gian vẫn vẹn nguyên tiếng kêu thiết tha về giá trị nhân văn đích thực trong cuộc
sống. Trong chương trình ngữ văn 10, Truyện Kiều là tác phẩm có thời lượng tìm hiểu
khá lớn. Tổng số tiết học về Truyện Kiều là 5 tiết, có 4 đoạn trích được giới thiệu trong
đó có 2 đoạn trích giảng.
3. Trong thực tế, học sinh phổ thông gặp khó khăn trong việc tiếp thu văn học trung đại
nói chung và Truyện Kiều nói riêng. Theo tìm hiểu của chúng tôi đa số học sinh lớp 10


cho rằng học Truyện Kiều khó, không hấp dẫn và chưa đọc toàn bộ tác phẩm nhưng các
em lại khẳng định rằng Truyện Kiều là kiệt tác văn học của dân tộc. Điều đó cho thấy các
em còn mới đánh giá theo cảm tính mà hạn chế trong tiếp nhận tác phẩm văn học nói
chung và Truyện Kiều nói riêng. Tiếp nhận tác phẩm văn học trung đại có nhiều khó khăn
với các em bởi khoảng cách thời gian và đặc trưng thi pháp, quan niệm nghệ thuật riêng
biệt của thời kì văn học này.
4. Đổi mới phương pháp dạy học hướng tới việc lấy học sinh làm trung tâm đang là vấn
đề cấp thiết đối với các giáo viên. Với bộ môn ngữ văn, các giờ lên lớp cần trở thành giờ
Đọc - hiểu văn bản của học sinh nhằm đưa các em đến với tác phẩm bằng cách tiếp xúc
2


văn bản nghệ thuật, rung cảm và tiếp nhận toàn vẹn tác phẩm văn học. Xu hướng đó phù
hợp với việc vận dụng Thi pháp vào dạy học bộ môn vì nó đưa người đọc tới việc tiếp
nhận văn bản ngôn từ tức là “ hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác
phẩm” [150 thuật ngữ văn học, 307].
Trong thực tế giảng dạy ở trường THPT, chúng tôi nhận thấy việc vận dụng Thi pháp
học vào khai thác tác phẩm còn nhiều hạn chế và ít được chú trọng. Để giúp học sinh tiếp
nhận một tác phẩm văn học, giáo viên có nhiều con đường khác nhau. Tuy nhiên, nếu
khía cạnh nghệ thuật còn bị bỏ ngỏ thì sẽ không thể khai thác tác phẩm một cách sâu sắc.
Với đặc trưng môn học tìm hiểu về tác phẩm nghệ thuật như ngữ văn, nếu không đưa học
sinh đến tiếp nhận tác phẩm thì không thể đạt được mục đích giáo dục. Từ những suy
nghĩ đó, người viết đến với đề tài Tiếp nhận Truyện Kiều từ góc độ Thi pháp học với
mong muốn có được phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong quá trình học
tập tiếp nhận và thưởng thức vẻ đẹp toàn vẹn của tác phẩm văn học.
2- Mục đích nghiên cứu
Với đề tài: Tiếp nhận Truyện Kiều từ góc độ Thi pháp học”, người viết mong muốn
hướng tới:
- Làm rõ một vài đặc điểm nổi bật trong Thi pháp Truyện Kiều.
- Vận dụng Thi pháp Truyện Kiều trong tìm hiểu đoạn trích Trao duyên.

- Đóng góp thêm một hướng đi mới trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học ở trường
phổ thông.
3- Đối tượng nghiên cứu
Khảo sát các vấn đề về Thi pháp Truyện Kiều, hướng tới vận dụng vào việc đổi mới
phương pháp dạy học qua bài giảng cụ thể.
4- Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, người viết chỉ đi sâu khai thác Truyện Kiều ở góc độ Thi pháp học. Đồng
thời đưa ra hướng vận dụng và kết quả đạt được sau khi tiếp nhận đoạn trích Trao duyên
theo hướng này.
5- Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ vấn đề Thi pháp Truyện Kiều và đánh giá kết quả việc vận dụng Thi
pháp trong thực tiễn giảng dạy đoạn trích Trao duyên.
6- Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp phân tích tác phẩm
3


-

Phương pháp so sánh

-

Phương pháp hệ thống

-

Phương pháp thực nghiệm


-

Vận dụng hướng nghiên cứu Thi pháp học, ngôn ngữ học

7- Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8/2011 đến tháng 2/ 2012
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học môn văn nói riêng đang là vấn
đề cấp thiết nhằm hướng tới khẳng định vai trò năng động, sáng tạo của học sinh như một
bạn đọc đích thực; phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học văn. Đây
cũng là nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi lẽ, không có sự vận động của bản
thân chủ thể thì mọi hoạt động của giáo viên trở nên áp đặt. Những năng lực chủ quan
của học sinh có được phát huy thì việc chiếm lĩnh tri thức, thưởng thức tác phẩm, hình
thành phẩm chất, nhân cách…mới thực sự có hiệu quả. Như vậy, việc giúp các em có một
phương pháp tiếp nhận tác phẩm phù hợp hiệu quả là hạt nhân của quá trình đổi mới
phương pháp dạy học.
1.2. Đặc trưng của môn văn là môn học về tác phẩm nghệ thuật ngôn từ với bản chất
thẩm mĩ của nó. Tác phẩm văn chương vẽ nên bức tranh sinh động về đời sống con người
qua ngôn từ được sử dụng một cách có nghệ thuật. Nó tạo nên hình tượng nghệ thuật sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của
nghệ thuật. Như vậy, dạy học văn cần hướng đến đặc trưng riêng của bộ môn để có cách
tiếp cận phù hợp.
Bản chất của quá trình dạy học văn phụ thuộc vào quá trình nhận thức sáng tỏ và đầy đủ
mối quan hệ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật của môn văn. Đặc trưng của môn văn
khiến cho quá trình dạy học văn trở thành quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học của học
sinh. Quá trình tiếp nhận văn học nói chung vốn đã phức tạp. Với đối tượng học sinh
trong nhà trường, quá trình này càng phức tạp hơn, vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
lứa tuổi, hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm sống…Do đó, đổi mới phương pháp dạy học
văn cần quan tâm đến những cách tiếp nhận tác phẩm theo đặc thù môn học và đối tượng

4


học sinh. Tiếp nhận tác phẩm theo hướng Thi pháp là một trong những phương pháp có
thể áp dụng trong thực tiễn dạy học.
1.3. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học,
tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng đó là “Ngành học thuật nghiên cứu hệ thống các
phương thức, phương tiện biểu hiện trong tác phẩm văn học” và “Do chỗ mọi phương
tiện biểu hiện trong văn học rút cuộc đều quy được về ngôn ngữ, cho nên có thể định
nghĩa Thi học như khoa học về nghệ thuật sử dụng các phương tiện ngôn ngữ”.
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ
biên cũng cho rằng “Thi pháp học nghiên cứu hệ thống các phương thức, phương tiện
biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của Thi
pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào
sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ, chiều sâu phản ánh của tác phẩm
nghệ thuật”.
Như vậy, có thể hiểu Thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là
chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như tiểu sử nhà văn, hoàn
cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học
chú ý đến yếu tố hình thức tác phẩm như hình tượng nhân vật; không gian - thời gian; kết
cấu - cốt truyện; điểm nhìn nghệ thuật; ngôn ngữ; thể loại… Nội dung trong tác phẩm
phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử).
Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu,
“Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác
phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn Dân). Theo
tôi, để đạt được hiệu quả tốt nhất trong giờ học, nên kết hợp nhiều phương pháp, khai
thác thế mạnh của chúng. Dạy văn theo hướng Thi pháp học là phân tích hình thức nghệ
thuật tác phẩm từ đó khám phá các phương diện khác nhau của tác phẩm. Với đề tài này,
người viết đi sâu khai thác, tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du từ góc độ Thi pháp
học trên những phương diện sau: thể loại, tư tưởng, nhân vật, cách kể chuyện, cái nhìn

nghệ thuật về con người, không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Sau đó, người viết
thiết kế giáo án thử nghiệm và khảo sát kết quả học tập của học sinh. Bên cạnh đó, giờ
lên lớp cũng cần thiết phải chú ý đến vấn đề về tác giả, thời đại; kết hợp phương pháp
giảng bình, gợi mở, vấn đáp, nêu vấn đề…để giờ học sinh động và hấp dẫn giúp học sinh
dễ dàng tiếp nhận tác phẩm.

5


Chương II: Thực trạng của đề tài
Truyện Kiều là tác phẩm văn học kết tinh văn hóa tinh thần, vẻ đẹp của ngôn ngữ và tài
hoa của dân tộc. Tìm hiểu tác phẩm trên phương diện Thi pháp giúp người đọc đánh giá
được tính sáng tạo toàn vẹn của tác phẩm nhất là với tác phẩm dựa trên một sáng tác của
nước ngoài như Truyện Kiều.
Chúng tôi nhận thấy phần sáng tạo của Nguyễn Du mang lại giá trị đích thực cho tác
phẩm. Các phương diện nghệ thuật của tác phẩm như thể loại, tư tưởng, nhân vật, cách kể
chuyện cho đến không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu…đều là sự thăng hoa của
một tài năng nghệ sĩ.
2.1. Thể loại truyện Nôm
Thể loại văn học là một phạm trù mang tính lịch sử. Các thể loại xuất hiện trong
một giai đoạn phát triển nhất định và được thay thế bằng thể loại khác. Như vậy, thể loại
cũng là một yếu tố hình thức mang tính nội dung của tác phẩm.
Truyện Kiều của Nguyễn Du thuộc về thể loại truyện Nôm. Đó là thể loại văn học
tự sự bằng thơ lục bát của người Việt, thịnh hành trong thế kỉ XVII, XVIII. Truyện Nôm
nằm trong mạch truyện thơ thịnh hành ở văn học vùng Đông Nam Á. Truyện Nôm là
truyện thơ nên có các yếu tố của tác phẩm tự sự như nhân vật, cốt truyện, sự kiện…
Xét hệ thống tác phẩm tự sự, Truyện Kiều thuộc loại truyện vừa, chi tiết chọn lọc
vừa đủ để thể hiện nhân vật. Tác giả hướng đến khắc họa con người chủ thể với thế giới
nội tâm, ý nghĩ, lời thoại, lời kể… để nhân vật hiện lên cụ thể, gợi cảm. Bên cạnh đặc
trưng của tác phẩm tự sự là chất trữ tình đậm đà của tác phẩm.

Nét đặc sắc trong Truyện Kiều là tác giả có ý thức kể lại rành mạch từng chuyện.
Mỗi sự kiện đều được kể một cách hoàn chỉnh từ đầu đến cuối, từ cảnh đến tình. Mô hình
cốt truyện không giản đơn như các truyện Nôm dân gian. Kết cấu truyện đẩy đi, đẩy lại
chứ không xuôi chiều. Có thể nói, Truyện Kiều mang cốt truyện của thể loại tiểu thuyết.
2.2. Tư tưởng, nhân vật và cách kể chuyện
Tư tưởng tác phẩm văn học là sự nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội
dung cụ thể, sống động của tác phẩm văn học, cũng như vấn đề nhân sinh đặt ra trong đó.
Truyện Kiều là một tác phẩm văn chương đích thực nhưng không chỉ là vấn đề câu chữ,

6


nghệ thuật biểu hiện mà qua đó còn thấy quan niệm và cảm nhận của Nguyễn Du đối với
đời.
Nguyễn Du mở đầu tác phẩm bằng quan niệm tài - mệnh
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Kết thúc tác phẩm là trăn trở về tâm và tài
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Tư tưởng đó chi phối việc chọn lựa và miêu tả nhân vật. Truyện Kiều tái hiện một thế
giới người tài. Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…cho đến Hồ Tôn Hiến, Sở Khanh, Thúc
Sinh đều có tài và biết khen tài. Tài ở đây là biểu hiện cho phẩm chất và cá tính. Nó đóng
một vai trò quan trọng trong những biến cố của cuộc đời nhân vật. Thúy Kiều nhờ có tài
đàn, tài thơ mà được coi trọng nhưng cũng vì tài đó mà nàng mắc vạ. Tài năng trở thành
cái cớ cho cuộc đời truân chuyên theo quan niệm tài - mệnh tương đố trong tác phẩm.
Nhưng tài không phải là yếu tố chi phối toàn bộ tác phẩm. Chính chữ tâm, tức là cái tình,
tấm lòng của nhân vật chính mới làm nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm. Bởi chữ tâm
này mà Kiều đã nhận lời bán mình chuộc cha và trao duyên lại cho Thúy Vân. Cũng vì
chữ tâm mà Kiều cam phận lẽ mọn, khuyên Thúc Sinh trở về; báo ân, báo oán rồi tha

bổng cho Hoạn Thư; cũng vì thế mà Kiều khuyên Từ Hải hàng rồi chết theo Từ Hải; nàng
giữ tình cầm cờ với Kim Trọng cũng vì chữ tâm đó. Có thể nói Truyện Kiều là sáng tạo
để thử thách cái tâm của con người. Bạn đọc yêu mến nàng Kiều không chỉ vì cái tài mà
còn vì cái tâm trong sáng, tấm lòng trinh bạch của nàng.
Nhân vật Thúy Kiều được tác giả tập trung miêu tả trong những mâu thuẫn nội tâm, giày
vò, khắc khoải đậm chất bi kịch. Tác giả hướng đến khám phá chiều sâu tâm lí của nhân
vật. Nỗi đau của nàng Kiều không nhìn nhận ở khía cạnh phi ngã mà đó là chữ thân với
nghĩa là mình, là thân thể, là phần vật chất, phần nhỏ bé, hữu hạn, dễ bị hư nát, đau đớn,
riêng tư và cũng bản năng nhất. Như vậy, chữ thân khiến Truyện Kiều không chỉ là
chuyện của tài - mệnh tương đố mà đó còn là phân phận con người. Có thân là có nghiệp,
có nghiệp là có khổ. Cho nên, tài mệnh là một trường hợp của thân mệnh. Như vậy,
Truyện Kiều phản ánh nỗi khổ nạn của kiếp người. Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm
của Nguyễn Du đã lấy chữ thân làm nền tảng tức là đề cập đến những vấn đề nhân bản
nhất.
Nghệ thuật kể chuyện cũng là một sáng tạo của Nguyễn Du. Truyện Kiều không phải là
một sự nhào nặn, thêm bớt tác phẩm theo một cách khác mà là ở quan niệm mới về nhân
7


vật và cách kể chuyện. Nguyễn Du biến con người đạo lí thành con người tâm lí chính
điều này khiến tác giả thay đổi điểm nhìn trần thuật. Người kể chuyện không kể từ bên
ngoài mà đi theo cái nhìn của nhân vật, từ tâm trạng nhân vật mà ra. Vì thế, Nguyễn Du
chỉ tái hiện các sự kiện theo chừng mực đủ để khêu gợi và bộ lộ tâm tư của nhân vật
khiến Truyện Kiều trở thành một thiên truyện tâm lí độc đáo. Nguyên tác chú trọng sự
việc còn Truyện Kiều chú trọng phơi bày tâm trạng nhân vật trước sự việc đó. Nguyễn Du
đã huy động các thủ pháp trữ tình để diễn tả tâm trạng nhân vật một cách tinh tế trong đó
độc thoại nội tâm được sử dụng rất hiệu quả.
2.3. Cái nhìn nghệ thuật về con người
Trong khi phản ánh đời sống, nghệ thuật thể hiện cái nhìn chủ quan của mình đối
với các hiện tượng từ đó bộc lộ ý nghĩa về đời sống. Để hiểu được nội dung đời sống

trong tác phẩm, phải tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cảm nhận của chính nhà
văn.
Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du gắn liền với nghệ thuật phương Đông. Con
người trong văn học trung đại được xây dựng theo mô típ con người vũ trụ. Tầm vóc,
hành động của con người mang qui mô khác biệt so với văn học các thời kì khác. Theo
đó, người tài tình luôn được tôn xưng. Những người này thường được khắc họa với
đường nét bề ngoài đầy ước lệ. Đạm Tiên là đấng tài hoa; Kim Trọng là bậc tài danh; Từ
Hải là đấng anh hùng…
Mặt khác, Nguyễn Du còn coi con người là sự thể hiện của những giá trị tinh thần
được đề cao trong xã hội như: chí, tình, đạo, nghĩa. Con người bộc lộ các phẩm chất đạo
đức và thể hiện qua nguyên tắc bày tỏ. Cho nên, nhân vật thường có hành động khác
thường để hiệu quả tỏ lòng càng lớn. Ví như: Kiều khóc mồ vô chủ; thề nguyền chung
thủy; cậy em thay lời; Kim Trọng ốm tương tư, khóc vật vã; Từ Hải chết đứng…Nguyên
tắc này phù hợp với Thi pháp chung của văn học trung đại. Những trạng thái trong tâm
hồn phải được biểu hiện thành dấu hiệu ra bên ngoài, biểu hiện càng lộ và mạnh thì càng
gây chú ý.
Cái mới của Nguyễn Du là từ tỏ lòng nhà thơ đi đến bộc lộ tấm lòng, phân tích tâm
lí nhân vật, khám phá sự phức hợp tâm lí trong con người. Cho nên, tình cảm đối nghịch,
lưỡng tính là nét tiêu biểu của nhiều nhân vật trong Truyện Kiều. Kiều vừa dứt khoát trao
duyên cho em vừa nuối tiếc, đau đớn; vừa nghi ngờ Sở Khanh vừa phải liều theo y; vừa
tha bổng Hoạn Thư vừa mong được trừng trị tội. Từ Hải vừa khinh ghét triều đình vừa hy
vọng mong manh vào sự bao dung của nó. Những con người trong Truyện Kiều đều
không thể vo tròn trong một chuẩn mực.

8


Tâm hồn nàng Kiều thuộc về phạm trù những phẩm chất cao đẹp nhất nhưng cũng
có những suy tư trần tục chỉ có ý nghĩa riêng đối với tình cảm của nàng. Kiều thường
xuất hiện với những suy nghĩ rành rọt, nhưng cũng có lúc đắm mình trong ảo giác như

khi gọi tên chàng Kim lúc trao duyên; nhẹ dạ bước chân theo Sở Khanh; sự xiêu lòng
trước lễ hậu của Hồ Tôn Hiến…
Cuộc đời lắm bước ngoặt của Kiều cho thấy nhiều giới hạn khác nhau trong tâm
hồn con người. Kiều với Kim Trọng là rung động đằm thắm bên người tình đồng điệu;
nàng với Thúc Sinh là những ngày hạnh phúc nồng nàn của đôi vợ chồng trẻ; sánh với Từ
Hải, nàng là con người quyền uy phi phàm khiến Kiều muốn làm chủ vận mệnh, báo ân,
báo oán. Như vậy, Nguyễn Du đã đi sâu vào sự khám phá tâm hồn con người với tất cả sự
phong phú của đời sống thực tại.
Nhân vật trong Truyện Kiều coi trọng thế giới bên trong hơn sự biểu lộ bên ngoài.
Lời nói bên trong chân thực và sinh động hơn lời nói bên ngoài. Nguyễn Du nhìn thấu
nhân vật của mình, nắm bắt hồn vía và miêu tả một cách tài tình. Nhà thơ có quan niệm
về cá tính con người một cách rõ rệt.
Người trần thuật trong Truyện Kiều thuộc kiểu người kể chuyện biết trước và biết hết
nhưng người kể chuyện đó chỉ đứng trên nhân vật ở một số phần mang tính chất giới
thiệu như : Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh / Vẫn là một đứa phong tình đã quen; Lầu xanh
quen thói xưa nay / Nghề này thì lấy ông này tiên sư. Người trần thuật chủ yếu lấy điểm
nhìn nhân vật làm chỗ đứng cho mình để thể nghiệm mọi cảm xúc. Trong sự miêu tả
thường không báo trước cái đã biết mà chú ý để mọi sự vật, sự việc hiện dần ra qua sự
suy đoán của con người. Do đó, tác giả có cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều đối với các
hiện tượng đời sống được miêu tả. Nguyễn Du đặt các sự kiện trong cuộc đời Kiều vào sự
nhìn nhận, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Việc nàng bán mình được nhìn từ chuẩn
mực đạo đức xã hội đương thời “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng ở góc
độ cá nhân, nàng Kiều không đành lòng trước mối tình tan vỡ
“ Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây’’
Việc nhờ cậy em cũng có hai chiều: nửa cậy em, nửa không muốn; đối với chữ trinh có
quan điểm chuẩn mực nhưng cũng có hối hận thầm kín, riêng tư “Biết thân đến bước lạc
loài / Nhị đào thà bẻ cho người tình chung’’. Với ông trời, có khi vai trò được khẳng
định tuyệt đối, có khi lại cho rằng con người có khả năng tự thay đổi vận mệnh và chịu
trách nhiệm trước cuộc sống của mình

“Người dầu muốn quyết trời nào đã cho’’

9


“Trời kia đã bắt làm người có thân’’
“Bắt phong trần phải phong trần’’
“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều’’
“Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương!’’
Điều này thể hiện sự mâu thuẫn trong thế giới quan của nhà thơ nhưng cái nhìn nghệ
thuật đa chiều lại là ưu điểm. Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du cho thấy ông đã đổi
mới quan niệm về con người, bao quát cuộc sống trong một phạm vi rộng lớn đồng thời
có cái nhìn gần gũi với bản chất con người theo quan niệm nhân văn phổ quát.
2.4. Không gian và thời gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống;
đang cảm thấy vị trí, số phận của mình ở trong đó. Truyện Kiều là chuyện của cuộc đời
lưu lạc nên có sự xuất hiện của nhiều không gian xa lạ. Sau mỗi một biến cố, nhân vật lại
bị đẩy vào một không gian mới, xa lạ và hàm chứa những hiểm họa.
Không gian trước lưu lạc bao giờ cũng bình yên
“Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi vê mặc ai”
Không gian lưu lạc đẩy con người vào tình thế không nơi bấu víu, lênh đênh, trôi
dạt. Nguyễn Du láy đi, láy lại hình ảnh cánh bèo mặt nước; nước trôi hoa rụng; chiếc
bách sóng đào…để diễn tả nỗi bơ vơ, lạc loài, buồn tủi của nàng Kiều.
Con người trung đại luôn mang trong mình sự gắn bó với quê hương, gia đình. Đó
còn là cõi bình yên để nương tựa mà khi rời bỏ nó, người ta trở nên yếu đuối, trống rỗng
như tự đánh mất mình.
“Bên trời góc bể bơ vơ”
“Chân trời mặt biển lênh đênh”
Không gian và thời gian trong Truyện Kiều đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ mang tâm

trạng của nhân vật. Cho nên, có thể thấy hầu hết không gian và thời gian trong truyện đều
được nâng lên thành không gian và thời gian tâm trạng.
2.5. Ngôn ngữ và giọng điệu
Ngôn ngữ là chất liệu để nhà văn tạo lập nên tác phẩm. Không có ngôn ngữ thì cũng
không có tác phẩm văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật là “một hệ thống các phương tức,
phương tiện tạo hình, biểu hiện, hệ thống các qui tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ
của một ngành, một sáng tác nghệ thuật” [Từ điển thuật ngữ văn học, tr.186]. Sáng tạo
10


về mặt ngôn ngữ cho thấy quan niệm sáng tác, tư duy nghệ thuật cũng như sự đánh giá
của nhà văn về hiện thực cuộc sống.
Ngôn ngữ trong Truyện Kiều vừa mang màu sắc bác học với cách dùng từ trang
nhã, ước lệ; sử dụng khá nhiều điển tích, điển cố. Bên cạnh đó, sức sáng tạo của Nguyễn
Du còn thể hiện ở ngôn ngữ dân tộc mà nhà thơ đưa vào tác phẩm một cách nhuần
nhuyễn. Những từ thuần Việt, thành ngữ dân gian được tác giả lồng vào đó cả lối suy
nghĩ, cảm nhận theo tâm hồn người Việt đã mang đến sự đồng cảm của đông đảo thế hệ
và tầng lớp bạn đọc trong xã hội.
Giọng điệu là một trong những yếu tố chủ đạo cấu thành hình thức nghệ thuật của
một tác phẩm “giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học” [Từ điển
thuật ngữ văn học, tr 135]. Nó phản ánh lập trường xã hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu
thẩm mĩ của tác giả và tạo nên sức hấp dẫn cho mỗi tác phẩm. Như vậy, tìm hiểu về
giọng điệu trong một tác phẩm có thể đưa đến nhận xét về thái độ đánh giá của nhà văn
về hiện thực cuộc sống. “Mỗi một thời đại, nhìn chung có một giọng điệu riêng, thể hiện
cách thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng. Gắn với điều này là quan niệm
hiện thực của thời đại ấy”
Trong Truyện Kiều, giọng chủ đạo là cảm thương, là tiếng kêu thương gắn liền với
cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm. Truyện Kiều là lời đau đớn, da diết, lay động lòng
người. Giọng điệu này thể hiện rõ nét qua lời than, lời tâm sự, độc thoại của nhân vật và
lời bình luận của chính tác giả.


Chương III: Giải quyết vấn đề
3.1. Vận dụng Tiếp nhận Truyện Kiều theo hướng Thi pháp vào thực tiễn giảng dạy
đoạn trích Trao duyên
Ở những phần trên, người viết đã đi sâu khai thác, tiếp nhận Truyện Kiều từ góc nhìn Thi
pháp. Chúng tôi đã vận dụng hướng tiếp cận này vào giảng dạy tiết 83, đoạn trích Trao
duyên Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (SGK Ngữ văn 10, Tập 2) tại lớp 10B1, 10B2
và so sánh với việc dạy học không theo hướng đi này ở lớp 10B3 trường THPT Trần
Nhật Duật. Chúng tôi hướng dẫn học sinh khai thác đoạn trích này từ đặc trưng thể loại;
không gian và thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu; nghệ thuật xây dựng nhân
vật... Qua đó, học sinh thấy được sức hấp dẫn của đoạn trích, tự mình khám phá giá trị
của đoạn trích và đánh giá sáng tạo nghệ thuật của thi hào Nguyễn Du.
11


Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đoạn trích này, chúng tôi hướng học sinh khai thác các
khía cạnh của tác phẩm từ góc độ Thi pháp theo các bước cụ thể
3.1.1. Yêu cầu chuẩn bị bài
- Học sinh đọc kĩ đoạn trích và phần chú thích, chuyển văn bản thơ thành văn xuôi
- Tìm hiểu nhân vật Thúy Kiều qua chi tiết, lời kể và sự miêu tả của tác giả
- Thống kê những biện pháp nghệ thuật khắc họa nhân vật được sử dụng trong đoạn trích
3.1.2. Giáo án thử nghiệm
TIẾT 83
TRAO DUYÊN
( TRÍCH TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU)
I- Mục tiêu bài học
- Cảm nhận được tình yêu sâu nặng và bi kịch của Thúy Kiều trong đoạn trích; nắm được
nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của tác giả.
- Kiến thức: Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và sự hi sinh quên mình của Kiều vì
hạnh phúc của người thân qua lời trao duyên đầy đau khổ; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân

vật, sử dụng thành công nghệ thuật độc thoại nội tâm.
- Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại; phân tích nhân vật; diễn biến tâm
trạng nhân vật.
II- Phương pháp, phương tiện
1. Phương pháp
- Đọc sáng tạo, chuyển thể văn bản thơ thành văn bản văn xuôi
- Vấn đáp, thảo luận
- Sử dụng lời bình của giáo viên và học sinh
2. Phương tiện
- Phần soạn bài của học sinh, tác phẩm trong sách giáo khoa, tranh ảnh
- Giáo án soạn giảng của giáo viên
III- Hoạt động của thầy trò
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và tiếp nhận tác phẩm từ đặc trưng
12


thể loại và các yếu tố nghệ thuật để thấy được nội dung của tác phẩm.
- Học sinh tiếp nhận văn bản, thảo luận, đưa ra ý kiến
IV- Cách thức tiến hành
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Tác phẩm Truyện Kiều ra đời trong hoàn cảnh
xã hội như thế nào? Cho biết đánh giá của em về tác phẩm ?
3. Bài mới
* Lời vào bài: Toàn bộ Truyện Kiều là một bi kịch. Đoạn trích Trao duyên là bi kịch nhỏ
nằm trong bi kịch lớn. Sau khi đã quyết định bán mình chuộc cha và em, Kiều vẫn canh
cánh món nợ tình với Kim Trọng. Trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh,
Kiều đã trao duyên cho em. Đoạn trích này tái hiện lại cảnh tượng trao duyên và tâm
trạng của nàng Kiều.

HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY, NỘI DUNG CẦN ĐẠT

TRÒ
Học sinh đọc phần Tiểu dẫn và A- Tiểu dẫn
nêu vị trí của đoạn trích
- Vị trí: đoạn trích nằm ở phần Gia biến
- Giáo viên cho học sinh xem - Bọn sai nha gây nên vụ án oan cho gia
tranh Thúy Kiều trao duyên để đình Thúy Kiều kiến nàng phải hi sinh
mối tình với Kim Trọng và bán mình để
gợi không khí
chuộc cha và em. Khi mọi việc đã an bài,
Giáo viên: Tại sao Kiều phải Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến Kim Trọng
và mối tình dở dang. Để trả nghĩa cho
trao duyên?
chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy
Vân để đền đáp tình yêu của Kim Trọng.
B- Đọc - hiểu tác phẩm
- Truyện Kiều thuộc thể loại truyện Nôm
- Tác phẩm mang chất tự sự, có nhân vật,
Giáo viên: Truyện Kiều thuộc cốt truyện…

13


thể loại nào? Đoạn trích này - Tác phẩm còn mang chất trữ tình qua
cho em biết những gì về thể việc khai thác nội tâm nhân vật và sử
dụng ngôn ngữ hình tượng, biểu cảm…
loại đó ?
=> Nên phân tích theo đặc trưng của thể
Giáo viên yêu cầu học sinh loại; khai thác nghệ thuật xây dựng nhân
thảo luận
vật; từ đó làm rõ diễn biến tâm trạng và

đánh giá về nhân vật.
Giáo viên: Nên phân tích đoạn I- Đọc
- Đối thoại: Thúy Kiều - Thúy Vân
trích này theo cách nào?
- Độc thoại nội tâm: Thúy Kiều
=> Thúy Kiều đau đớn tột cùng khi phải
trao duyên
- Đọc với giọng buồn tha thiết, càng về
sau càng tuyệt vọng, khẩn thiết, não nùng,
Giáo viên: Đoạn thơ là lời của bi ai.
ai nói với ai? Trong tâm trạng - Mạch tự sự
nào? Đọc với giọng điệu và + Thúy Kiều nhờ cậy, thuyết phục Thúy
nhịp điệu nào để phù hợp?
Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng
Hướng dẫn đọc đoạn trích

+ Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân và
dặn Vân những chuyện sau này

Giáo viên: em hãy xác định
mạch tự sự của đoạn trích. + Kiều trở lại với thực trạng đau xót khi
Chuyển văn bản văn vần sang nhớ tới Kim Trọng
- Đoạn trích tái hiện lời nói, cử chỉ, hành
dạng văn xuôi.
động, tâm trạng nàng Kiều khi trao duyên
II- Phân tích văn bản
1. Nhân vật Thúy Kiều
a/ Bối cảnh

Giáo viên: Nhân vật Thúy Kiều - Thời điểm mở đầu cuộc đời sóng gió

được tái hiện trên những của Kiều. Đó là khoảng lặng trước cơn
phương diện nào?
giông bão đời Kiều mười lăm năm lưu

14


lạc.
Giáo viên: Đoạn trích trao + Không gian: Vắng lặng
duyên tái hiện thời điểm nào + Thời gian: Đêm khuya
trong cuộc đời Thúy Kiều?
- Kiều trở về với mất mát của tình yêu,
Giáo viên: Kiều trao duyên đau đớn cho thân phận mình.
trong khung cảnh nào? khung => Không gian và thời gian giúp giãi bày
cảnh đó có vai trò nào trong tâm trạng, thổ lộ chuyện tình yêu riêng tư.
b/ Ngôn ngữ
việc thể hiện nhân vật ?
- Nhân vật Thúy Kiều được đặt trong cuộc
đối thoại giữa với Thúy Vân
=> Đối thoại là cách để nhân vật bộc bạch
với một đối tượng cụ thể trong cuộc giao
Giáo viên: Đoạn trích này có tiếp.
lời của ai nói với ai? Nói về - Kiều muốn em thay mình trả nghĩa cho
Kim Trọng
vấn đề gì?
Học sinh thảo luận: Cuộc đối + Với Kiều: để trả món nợ tình, vẹn nghĩa
thoại này có ý nghĩa gì với với Kim Trọng
Kiều và Vân
+ Với Vân: vì tình chị em mà chấp nhận
thiệt thòi trong tình yêu

- Cử chỉ: Lạy
=> Thể hiện thái độ kính cẩn, trang trọng
- Lời nói
+ Cậy là nhờ giúp đỡ. Ngoài ra, cậy còn
Giáo viên: Cử chỉ và cách nói
mang hàm nghĩa gửi gắm, tin tưởng,
của Kiều có gì khác thường?
trông mong, hi vọng.
Giáo viên: So sánh các cặp từ
+ Chịu lời là nài ép, bắt phải nhận, không
Cậy/nhờ; Chịu/Nhận
thể không nhận chứ không chỉ là tự

15


nguyện như nhận lời
=> Lời lẽ thắt buộc
+ Đứt gánh tương tư: tình cảnh bi đát,
dang dở và tâm trạng đau đớn, xót xa
+ Ngày quạt ước, đêm chén thề: Hạnh
phúc êm đềm, kỉ niệm ngọt ngào
Giáo viên: Kiều đã kể câu
+ Sự đâu sóng gió bất kì: tai họa đột ngột,
chuyện của mình với Vân như
đau xót và tiếc nuối
thế nào ? Nhận xét cách sử
+ Tình máu mủ, lời nước non, thịt nát
dụng từ ngữ của Kiều ?
xương mòn, ngậm cười chín suối

=> Kiều sử dụng thành ngữ và cách nói
giàu hình ảnh, sắc thái biểu cảm. Ngôn
ngữ có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói
trang nhã của văn học bác học trung đại
Giáo viên: Đánh giá về ngôn và từ ngữ dân gian
ngữ được sử dụng ?
- Giọng điệu : tha thiết, cầu khẩn, gợi sự
xót thương
Giáo viên: Qua ngôn ngữ thấy
=> Kiều vừa cầu khẩn vừa dựa vào tình
được giọng điệu của Kiều như
cảm chị em để đánh vào nhận thức của
thế nào?
Thúy Vân một cách thông minh, khôn
Giáo viên: Vì sao Vân không khéo, trói buộc về tình cảm
thể chối từ?
- Kiều có thể trả nghĩa cho chàng Kim.
Nàng biết ơn em chân thành và cất đi
gánh nặng về món nợ tình.
Giáo viên: Tâm trạng của Kiều c/ Hành động
sau khi ngỏ lời với Vân?
- Trao duyên: nhờ em kết duyên với Kim

16


Trọng thay mình để trả nghĩa.
Thảo luận về hành động của => Hợp với quan niệm thời trung đại
Thúy Kiều.
=> Thể hiện sự hi sinh, chu toàn với

Giáo viên: Thế nào là trao người mình yêu, trọng cả tình và nghĩa
duyên? hành động này thể
- Trao kỉ vật của tình yêu
hiện điều gì về nhân vật ?
+ “Chiếc vành với bức tờ mây”
+ “Phím đàn với mảnh hương nguyền
Giáo viên: Cách nàng Kiều
ngày xưa”
trao kỉ vật có gì khác lạ ?
- Duyên này thì giữ vật này của chung
=> Kiều mâu thuẫn giữa lời nói và hành
Giáo viên: Thế nào là “của động; lí trí và tình cảm. Vừa trao kỉ vật
vừa tiếc nuối, đau khổ
chung”
=> Kiều chất chứa tâm trạng đau đớn,
giằng xé, chua chát. Thực chất, đây là tâm
trạng giã biệt tình yêu sâu nặng với Kim
Giáo viên: Em hãy cho biết tâm
Trọng
trạng của Kiều sau khi trao kỉ
=> Duyên vì nghĩa mà trao được nhưng
vật?
Tình không thể trao. Mâu thuẫn giữa tình
Giáo viên: Kiều có trao được
và nghĩa mới giải được phần nghĩa còn
duyên không?
phần tình vẫn bế tắc nguyên vẹn.
=> Tình yêu tha thiết, sâu nặng với Kim
Trọng
- Kiều nói với Vân nhưng là tự nói với

mình; hình dung mình trở thành hồn oan
Giáo viên: Sau khi trao kỉ vật, khi không còn tình yêu với Kim Trọng
Kiều nói với ai? Nói chuyện gì?
+ Dặn em rưới chén nước để giải oan
Không gian thay đổi như thế
+ Hồn Kiều vương vấn với tiếng tơ trên
17


nào?

phím đàn và mùi trầm hương
+ Hồn Kiều vẫn nặng lời thề và nguyện
nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
- Nàng dặn em mà như đang thầm nói với
mình về tương lai mù mịt, thê thảm.
=> Không gian chập chờn, ma mị như cõi
âm
=> không gian thực được thay thế bằng
không gian tâm tưởng

=> Kiều đau đớn tột cùng. Mất đi tình
yêu cũng là mất đi ý nghĩa của cuộc sống.
Đó là sự thể hiện tình yêu sâu sắc, đức hi
Giáo viên: Điều đó cho thấy sinh, lòng vị tha của Kiều.
tâm trạng của Kiều như thế nào - Kiều quên đi sự có mặt của Thúy Vân ;
?
lời nói hướng về Kim Trọng
=> Từ đối thoại chuyển thành độc thoại
nội tâm

Giáo viên: Sau khi trao kỉ vật, + Kiều tự nhận mình đã phụ bạc người
Kiều hướng tới ai? vì sao?
yêu
+ Kiều trở về với đau đớn, mất mát trong
trong tình yêu, nỗi dày vò vì tình yêu tan
Giáo viên: Tại sao lúc này lời vỡ.
nói của Kiều lại hướng đến + Kiều nhận lỗi về mình nên muốn Kim
Kim Trọng?
Trọng hiểu lòng mình
Giáo viên: Cái “lạy” này khác
- Kiều gọi Kim Trọng trong đau đớn, mê
trước như thế nào ?
sảng. Đó là tiếng thét thảng thốt, ai oán
Giáo viên: Lời gọi “Kim lang”
của nỗi đau lên đến tột đỉnh khiến nàng
diễn tả điều gì ?
18


“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá
đồng”
Giáo viên: Tại sao có thể xem => Bi kịch trong nội tâm nhân vật. Sự
đây là thời điểm đau khổ nhất giằng xé giữa lí trí và tình cảm, thân phận
của nàng Kiều ?
và nhân cách, thân phận và tình yêu riêng
Giáo viên: Nghệ thuật xây tư.
dựng nhân vật của Nguyễn Du => Nhân vật được khắc họa chủ yếu ở nội
có nét đặc sắc nào?
tâm, có sự đa diện nhiều chiều trong phản

- Ai đã chứng kiến câu chuyện ánh nội tâm nhân vật. Tác giả không
đứng ngoài để kể câu chuyện mà hóa thân
này?
vào nhân vật; cảm nỗi đau thân phận của
- Ai đã cảm được nỗi giày vò
nàng. Điểm nhìn nghệ thuật được đặt ở
đau đớn của Thúy Kiều trong
chính tâm trạng của nhân vật.
cảnh ngộ này?
2. Giá trị đoạn trích
Giáo viên: Đánh giá về giá trị
- Đoạn trích thể hiện rõ nét chủ nghĩa
đoạn trích
nhân đạo
Giáo viên: Cho biết giá trị nội
+ Cảm thương con người trên phương
dung của đoạn trích?
diện nhân bản nhất: hạnh phúc, tình yêu
Giáo viên: Thái độ của Nguyễn
đôi lứa.
Du ra sao? Ông muốn nêu lên
+ Căm giận thế lực tàn bạo đã bày ra cảnh
vấn đề gì?
ngang trái, chia cách đôi lứa
+ Đề cao khát vọng về tình yêu và hạnh
phúc của con người
=> Tác giả nêu lên nỗi đau thân phận con
người. Con người với ý nghĩa cá nhân
nhân bản. Vượt qua mô hình con người
Giáo viên: Cho biết giá trị

đạo lí, tác giả biến nhân vật thành con
19


nghệ thuật của đoạn trích?

người tâm lí.

Giáo viên: So sánh với tác - Đoạn trích cho thấy sự sáng tạo nghệ
phẩm của Thanh Tâm Tài thuật của Nguyễn Du
Nhân, Truyện Kiều có những + Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
sáng tạo độc đáo nào?
+ Hình thức đối thoại dần chuyển vào độc
thoại nội tâm để nhân vật tự bộc lộ, phơi
bày nội tâm tình cảm và khát vọng sâu
kín của mình.
+ Ngôn ngữ tinh tế giàu sức biểu cảm và
kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học và
Giáo viên: Cho biết cảm nhận bình dân.
của em về đoạn trích này?
C- Kết luận
Đoạn trích Trao duyên cho thấy sức
cảm thông lạ lùng của tác giả với những
khổ đau và khát vọng hạnh phúc của con
người. Nguyễn Du thể hiện bút pháp điêu
luyện và sáng tạo độc đáo trong nghệ
thuật miêu tả.

4. Củng cố: Nhân vật Thúy Kiều và khát vọng về hạnh phúc gắn với thân phận con người
mà nhà thơ gửi gắm trong hình tượng nghệ thuật.

5. Dặn dò: Tìm đọc Truyện Kiều và tài liệu về tác phẩm; luyện tập đọc diễn cảm đoạn
trích; học thuộc lòng đoạn trích; chuẩn bị bài Nỗi thương mình - Trích Truyện Kiều Nguyễn Du theo câu hỏi
1. Kiều rơi vào cảnh ngộ nào?
2. Tác giả dùng cách nào để diễn tả tâm trạng của nàng? Đó là tâm trạng gì?
3. Tấm lòng của Nguyễn Du với nhân vật thể hiện như thế nào ?

20


3.2. Kết quả khảo nghiệm
Trước đây, đoạn trích giảng Trao duyên được hướng dẫn theo cách chia bố cục và phân
tích từng đoạn. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân theo bố cục văn bản và hướng
dẫn học sinh tìm hiểu, đánh giá về đoạn trích. Tuy nhiên, phương pháp này làm đoạn
trích chia tách ra nhiều phần nhỏ và học sinh gặp khó khăn với những câu hỏi mang tính
khái quát sau khi học xong bài. Các em có thể hiểu đúng nội dung đoạn trích nhưng chưa
có sự khám phá tác phẩm theo hướng rung động và tiếp nhận. Sau khi thử nghiệm cách
tiếp cận mới, chúng tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn và tích cực trong quá trình học
tập. Sau khi học xong các em có khả năng đánh giá về nhân vật và đoạn trích bằng cảm
nhận của cá nhân một cách khá sâu sắc.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm như trên, chúng tôi đã đưa ra một số câu
hỏi trong phần kiểm tra đánh giá, mục đích nhằm tìm hiểu mức độ tiếp thu, hiểu bài của
học sinh. Đối tượng kiểm tra là 106 học sinh lớp 10 trường THPT Trần Nhật Duật.
Phương thức kiểm tra bằng cách phát phiếu học tập. Với đối tượng 36 học sinh lớp 10B3,
chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích theo bố cục đoạn trích. Kết quả như sau:
TT Nội dung câu hỏi

Mục đích

Trả lời
đúng


Trả lời
sai

1

Kiều Trao duyên trong Kiểm tra năng lực 36/36
trong khung cảnh nào?
nắm bắt kiến thức
về không gian,
thời gian

0/36

2

Thúy Kiều đã dùng cách Kiểm tra năng lực 30/36
nào để Thúy Vân không nắm bắt kiến thức
thể chối từ ?
về ngôn ngữ

6/36

Nhân vật Thúy Kiều
được nhà văn miêu tả ở
những phương diện nào?
đâu là trọng tâm trong
miêu tả nhân vật ?

16/36


3

Kiểm tra sự phát 20/36
hiện, tiếp thu kiến
thức nghệ thuật
xây dựng nhân vật

21

Xác định
sai
Chưa
khái quát
được
kiến


thức
4

5

6

7

Tại sao khi Thúy Kiều
đang nói chuyện với
Thúy Vân lại xuất hiện

hình ảnh Kim Trọng?

Kiểm tra năng lực 20/36
khám phá, phát
hiện của học sinh
về nghệ thuật độc
thoại nội tâm

16/36
Chưa có
sự lí giải
xác đáng

Lời Kiều nói thể hiện Kiểm tra sự tiếp 30/36
tâm trạng nào ?
thu của học sinh
giọng điệu

6/36

Tại sao nói tâm trạng Kiểm tra kiến thức 20/36
của Kiều là bi kịch?
quan niệm nghệ
thuật về con người
của tác giả

6/36

Đóng góp của Nguyễn Kiểm tra sự đánh 25/36
Du qua đoạn trích này? giá của học sinh về

giá trị nội dung và
nghệ thuật của
đoạn trích

11/36

Chưa
hiểu câu
hỏi
không lí
giải
được vấn
đề
Đưa ra
đánh giá
nhưng
không lí
giải
được

Với đối tượng 70 học sinh lớp 10B1, 10B2, tôi sử dụng phương pháp Tiếp nhận theo
hướng Thi pháp. Kết quả như sau:

TT Nội dung câu hỏi

Mục đích

Trả lời
đúng


22

Trả lời
sai


1

Kiều Trao duyên trong Kiểm tra năng lực 70/70
trong khung cảnh nào?
nắm bắt kiến thức
về không gian,
thời gian

2

Thúy Kiều đã dùng cách Kiểm tra năng lực 68/70
nào để Thúy Vân không nắm bắt kiến thức
thể chối từ ?
về ngôn ngữ

2/70

3

Nhân vật Thúy Kiều
được nhà văn miêu tả ở
những phương diện nào?
đâu là trọng tâm trong
miêu tả nhân vật ?


Kiểm tra sự phát 70/70
hiện, tiếp thu kiến
thức nghệ thuật
xây dựng nhân vật

0/36

4

Tại sao khi Thúy Kiều
đang nói chuyện với
Thúy Vân lại xuất hiện
hình ảnh Kim Trọng?

Kiểm tra năng lực 68/70
khám phá, phát
hiện của học sinh
về nghệ thuật độc
thoại nội tâm

2/70

Lời Kiều nói thể hiện Kiểm tra sự tiếp 65/70
tâm trạng nào ?
thu của học sinh
giọng điệu

5/70


Tại sao nói tâm trạng Kiểm tra kiến thức 65/70
của Kiều là bi kịch?
quan niệm nghệ
thuật về con người
của tác giả

5/70

Đóng góp của Nguyễn Kiểm tra sự đánh 68/70
Du qua đoạn trích này? giá của học sinh về
giá trị nội dung và
nghệ thuật của
đoạn trích

2/70

5

6

7

23

Xác định
sai

Chưa có
sự lí giải
đầy đủ


Chưa
hiểu câu
hỏi
Chưa lí
giải đầy
đủ
xác định
đúng
nhưng
chưa đầy
đủ


So sánh số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy cả hai cách tiếp cận đều có thể giúp học
sinh nắm được chuẩn kiến thức của bài học. Tuy nhiên, với cách tiếp cận theo hướng Thi
pháp, các em là người chủ động trong việc hình thành kiến thức của bài học; hiểu vấn đề
sâu sắc hơn và bước đầu có sự đánh giá mang tính cá nhân về tác phẩm.
Trong quá trình giảng dạy thực tế theo hướng này, chúng tôi thu được kết quả khá tốt và
sự phản ứng tích cực từ phía học sinh. So với phương pháp cũ là đi từ nội dung đến hình
thức tác phẩm thì cách khai thác tác phẩm từ hình thức để hiểu nội dung (hay nói cách
khác là khai thác tác phẩm từ yếu tố Thi pháp) là một cách làm bám sát đặc trưng của tác
phẩm văn chương và đem lại kết quả cao. Từ phương pháp này, học sinh khám phá được
vẻ đẹp của ngôn ngữ văn chương với quan niệm “Văn học là nghệ thuật ngôn từ”; khám
phá được đặc trưng thể loại, các thủ pháp tạo dựng nhân vật, qua đó nắm được ý tưởng
mà nhà văn muốn gửi gắm thông qua hình tượng nghệ thuật ấy. Cũng từ yếu tố không
gian, thời gian, nghệ thuật khắc họa nhân vật mà học sinh phát hiện ra giá trị của tác
phẩm và sáng tạo độc đáo của tác giả...
Với hướng khai thác này, học sinh sôi nổi hơn trong giờ học. Các em không bị nhàm
chán bởi những định hướng về nội dung của tác phẩm để sau đó suy ra những kết luận

khái quát về nghệ thuật như cách làm cũ. Học sinh được tham gia vào việc khám phá tác
phẩm, phát huy được sự sáng tạo của mình với hệ thống câu hỏi mở. Các em hiểu bài, tỏ
ra hứng thú và trả lời được những câu hỏi tôi đưa ra nhằm đánh giá kết quả học tập.
Như vậy, theo ý kiến chủ quan của người viết, cách tiếp cận này giúp học sinh tự mình
khám phá, tiếp nhận, thưởng thức cái hay, cái đẹp từ hình thức nghệ thuật. Từ đó, các em
cảm nhận, rung động với thông điệp về cuộc sống gửi gắm trong tác phẩm. Đó cũng là
lúc các em bắt đầu tiếp nhận tác phẩm với tư cách là một độc giả. Tôi cho rằng phương
pháp tiếp cận này giúp các em hiểu, yêu tác phẩm và hứng thú hơn với môn văn trong
nhà trường phổ thông.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Văn học là lĩnh vực của những sáng tạo nghệ thuật. Việc giảng dạy bộ môn này không
thể tách rời đặc trưng nghệ thuật của nó. Bởi vậy, tiếp nhận tác phẩm theo Thi pháp là
một hướng đi phù hợp để khám phá giá trị của văn bản nghệ thuật và đưa học sinh đến
24


với tác phẩm. Mặt khác, tác phẩm chỉ tồn tại khi được bạn đọc tiếp nhận. Như vậy, để
mang được nỗi niềm của Nguyễn Du và tiếng kêu thương của nàng Kiều đến với thế hệ
trẻ ngày hôm nay, cần phải cho các em cơ hội tự mình khám phá, giúp các em có một
công cụ để đến với tác phẩm. Theo tôi, Thi pháp học là một trong những phương thức
tiếp cận có thể đảm nhiệm vai trò đó.
2. Việc dạy học văn theo tinh thần Thi pháp học là một xu hướng chung của thế giới. Ở
Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này. Chúng ta đã có một
đội ngũ các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu: Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn
Đăng Điệp…Việc phổ biến quan điểm Thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày
khoảng 20 năm. Sách giáo khoa ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi
pháp học. Các đề thi và đáp án môn văn gần đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích
hình thức nghệ thuật. Theo chủ quan của tôi, dường như những vấn đề nêu trên vẫn còn
nằm ở dạng lý thuyết. Thi pháp học có vượt qua được lí thuyết sách vở để trở thành vấn

đề của thực tiễn hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực của thầy và
trò trong giờ học văn.
3. Nguyễn Du đã đem sản phẩm tinh thần của mình vượt qua thời gian và rào cản thách
thức của thời đại để đến với người đọc nhiều thế hệ. Mấy trăm năm sau, người đọc còn
được sống trong xúc cảm, tâm trạng xót xa, đau đớn, đồng cảm, yêu thương với nhân vật
của nhà thơ và trăn trở về thân phận con người. Đoạn trích Trao duyên là một phần tuyệt
bút trong một tác phẩm tài hoa của thi hào Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, các yếu tố
về Thi pháp khá nổi bật và tiêu biểu cho sáng tạo của Nguyễn Du như quan điểm nghệ
thuật về con người, nhân vật, không gian và thời gian, ngôn ngữ giọng điệu, nghệ thuật
khắc họa nội tâm qua ngôn ngữ độc thoại… Chính vì vậy, chúng tôi đã đi khai thác, tiếp
nhận đoạn trích Trao duyên từ góc độ Thi pháp học nhằm góp phần làm nổi bật nội dung
và nghệ thuật của đoạn trích, tăng tính sinh động trong giờ giảng văn giúp học sinh có cái
nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về đoạn trích này nói riêng và tác phẩm Truyện Kiều nói
chung.
4. Để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn văn, người viết cho rằng việc bồi dưỡng
chuyên môn về Thi pháp học là vô cùng cần thiết. Dạy học theo hướng đi này là bám sát
đặc trưng của môn học về tác phẩm nghệ thuật. Vận dụng kiến thức về Thi pháp trong
giờ sẽ mang lại sự hứng thú cho học sinh vì các em được tiếp cận với văn bản nghệ thuật,
khám phá nó bằng trực quan sinh động sau đó mới đi đến khái quát vấn đề và trở lại đánh
giá tác phẩm. Hướng đi này giúp các em nhận biết thông hiểu và tiến tới vận dụng kiến
thức trong việc tiếp nhận các tác phẩm khác cùng một Thi pháp sáng tác.
Thi pháp coi trọng văn bản nghệ thuật cho nên dạy học văn được hiểu là đưa học sinh
tiếp nhận trực tiếp, khám phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm bằng cách thưởng thức nó
25


×