Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tham luận cách làm văn nghị luận lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.35 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG
TRƯỜNG THCS QUẢNG TÂM

THAM LUẬN
DẠY HỌC CÁCH LÀM BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 9

THÁNG 3 NĂM 2012



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Văn bản nghị luận là một kiểu văn bản mà việc tạo lập là vô cùng khó đối với học
sinh THCS. Nó không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức chính xác sâu rộng, phong phú; những
suy nghĩ, quan điểm đúng đắn về văn chương, về đời sống xã hội, mà đòi hỏi cả sự tư duy
lôgíc, chặt chẽ, với những cách lập luận sắc sảo, thấu tình đạt lí thì mới có thể hấp dẫn
thuyết phục được người đọc người nghe.
2. Dạng bài mà học sinh phải tạo lập thì nhiều, mỗi dạng lại có những yêu cầu cách
thức nghị luận khác nhau. Nào là nghị luận văn chương, rồi nghị luận đời sống xã hội. Trong
đó, riêng nghị luận văn chương lại có những dạng cụ thể hơn nữa, kiến thức lại phức tạp
hơn.
3.Trong nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 7- tập II, Ngữ văn 8- tập II và
Ngữ văn 9- tập II, có đưa ra những bài học về cách thức tạo lập văn bản nghị luận, nhưng
chưa đầy đủ cụ thể hệ thống để đáp ứng được việc tạo lập các văn bản mà đề ra quá phong
phú, đa dạng. Thời lượng dành cho việc học tập thực hành các dạng bài nghị luận cũng là
quá ít ỏi, không đầy đủ ở tất cả các dạng, nhất là ở lớp 9.
Chương trình: Gồm có 14 tiết, hướng dẫn về về phép lập luận phân tích và tổng hợp,
cách làm bài nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống; về một vấn đề tư tưởng đạo lí; về một
bài thơ đoạn thơ và về một tác phậm truyện hoặc đoạn trích.
So lượng kiến thức bài học tập làm văn với lượng thời gian hướng dẫn học trên lớp cho
học sinh lớp 9 như vậy là quá ít. Mỗi dạng lớn chỉ được học chung chung trong ba bốn tiết


học.
- Sách giáo khoa không có những bài hướng dẫn cụ thể cho cách làm bài văn lập luận
như cảm nhận, phân tích, bình luận, chứng minh…hay cách làm các bài văn với đề mở, đề
có tính chất tổng hợp cho từng đối tượng nghị luận riêng. Đặc biệt, không có bài hướng dẫn
cụ thể cách làm bài lập luận phân tích hay cảm nhận về từng đối tượng cụ thể như: về một
nhân vật văn học, về toàn bộ tác phẩm (đoạn trích), về một phương diện yếu tố nội dung,
nghệ thuật…của tác phẩm (đoạn trích); không có bài học hướng dẫn cách làm bài lập luận
bình luận hay giải thích, chứng minh về một vấn đề tư tưởng đạo lí, chỉ hướng dẫn chung
theo phương pháp bình luận;….
4. Học sinh hiện nay, đa số không ham muốn học tập môn Ngữ văn, nhất là ngại làm
những bài văn. Thời gian các em chủ yếu đầu tư cho việc các môn thuộc khoa học tự nhiên.
Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn quá khó, lại
mất nhiều thời gian. “Công thức” làm văn cho các em lại không được hình thành cụ thể. Các
em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Càng ngày, kĩ năng
tạo lập văn bản của học sinh càng kém hơn, và rất hiếm có những bài văn nghị luận có được
sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận
điểm luận cứ…Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không
sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ, đề bài yêu cầu cảm nhận các em

3


li lm nh mt bi phõn tớch, thiu cm xỳc, thỏi tỡnh cm; bi yờu cu ngh lun v
mt ni dung ca tỏc phm cỏc em li ngh lun v ton b tỏc phm ú; cỏc em khụng
khụng phõn bit c vit nh th no l bi bỡnh ging, vit nh th no l bi phõn tớch
mt on th bi th; hoc khi ngh lun kt hp gii quyt mt ý kin no ú liờn quan ti
tỏc phm, cỏc em li quờn mt vic gii quyt ý kin ú (quờn gii thớch ý kin, quờn xoỏy
vo tỏc phm lm rừ ý kin) m c sa vo ngh lun ton b tỏc phm
Nguyờn nhõn mu cht l hc sinh thiu k nng hoc cũn non kộm v k nng lm bi
vn ngh lun.

Vy nờn, vic nõng cao m rng, luyn tp thờm cho hc sinh k nng lm bi vn ngh
lun l rt cn thit.

B. NI DUNG
RẩN K năng làm các dạng bài văn
nghị luận văn HC
I. Mc tiờu cn t
Giỳp HS:
- Hiu v phõn bit c cỏc phộp ngh lun (thao tỏc ngh lun) thng dựng trong vn
ngh lun: Gii thớch, chng minh, phõn tớch, cm nhn, bỡnh ging, bỡnh lun...
- Bit phõn bit vi phng phỏp lp lun s dng trong mt bi ngh lun c th: quy
np, din dch, tng ng, tng phn, nhõn qu, tng phõn hp,
- K nng s dng cỏc thao tỏc ngh lun v phng phỏp lp lun thụng qua cỏc dng
bi ngh lun c th i vi tng i tng ngh lun vn hc.
II. Ni dung dy hc
1. Cỏc phộp lp lun trong vn ngh lun
* Gii thớch:
- SGK Ng vn 7- tp II vit: Gii thớch trong vn ngh lun l lm cho ngi c hiu
rừ cỏc t tng, o lớ, phm cht, quan hcn c gii thớch nhm nõng cao nhn thc,
trớ tu, bi dng t tng, tỡnh cm cho con ngi.
Ngi ta gii thớch bng cỏch: nờu nh ngha, k ra cỏc biu hin, so sỏnh, i chiu
vi cỏc hin tng khỏc, ch ra cỏc mt li hi, nguyờn nhõn, hu qu, cỏch phũng hoc
noi theoca hin tng hoc vn c gii thớch.
* Chng minh:

4


- SGK Ngữ văn 7- tập II viết: Chứng minh trong văn nghị luận là một phép lập luận
dùng những lí lẽ, bằng chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ luận điểm mới (cần

được chứng minh) là đáng tin cậy.
* Bình luận:
- Từ điển: Bình luận là bàn và nhận định đánh giá về về một tình hình, một vấn đề nào
đó
- SGK Văn 9 (cũ): Bình luận là kiểu bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình, đánh giá
xem vấn đề đúng hay sai, và bàn luận, mở rộng vấn đề để giải quyết một cách triệt để toàn
diện.
* Phân tích và tổng hợp:
- SGK Ngữ văn 9- tập II: Phân tích trong văn nghị luận là phép lập luận trình bày từng
bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật hiện tượng. Để phân
tích nội dung của sự vật, hiện tượng, ngêi ta cã thể sử dụng các biện pháp nêu giả thiết, so
sánh, đối chiếu, …và cả phép lập luận giải thích, chứng minh. Tổng hợp là phép lập luận rút
ra từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp.
* Bình giảng:
Giảng càng thông tuệ bao nhiêu, bình càng dễ thăng hoa bấy nhiêu. Bởi thế trong hai
thao tác này, giảng rất gần với phân tích. Người nào hay lẫn với phân tích là do bình ít mà
giảng nhiều.
* Cảm nhận: - Từ điển: Cảm nhận là nhận biết bằng cảm tính hoặc bằng giác quan.
- Trong văn nghị luận, cảm nhận là phép nghị luận vừa trình bày những nhận thức, hiểu
biết, suy nghĩ về đối tượng bằng cảm tính hoặc bằng giác quan; vừa trình bày những cản
xúc, đánh giá về đối tượng ấy.
Nghĩa là hiểu một cách nôm na rằng cảm nhận là phép lập luận có kết hợp giữa phân
tích và phát biểu cảm nghĩ (học ở lớp 7), nhưng việc phân tích ở đây không đòi hỏi phải chi
tiết cặn kẽ như khi làm bài lập luận phân tích.
Cảm nhận xoáy vào những ấn tượng chủ quan của người viết” về đối tượng nghị luận,
vì vậy yêu cầu người viết phải biết lắng nghe, chắt lọc những cảm xúc, những rung động của
chính mình để viết; Cảm nhận nghiêng về “cảm”, còn phân tích nghiêng về “hiểu”. Nếu
như phân tích tác động vào nhận thức, lí trí thì cảm nhận tác động vào cảm xúc, tâm hồn.
* Trình bày suy nghĩ, ý kiến:
Ý kiến là cách nhìn, cách nghĩ, cách đánh giá riêng của mỗi người về sự vật, sự việc

hay một vấn đề nào đó.

5


- Trình bày suy nghĩ hay ý kiến trong bài văn nghị luận chính là phép nghị luận đưa ra
những hiểu biết, cách nhìn, cách nghĩ, cách đánh giá riêng của mình về đối tượng cần nghị
luận.
Tóm lại, yêu cầu trình bày suy nghĩ hay nêu ý kiến cũng tương tự như yêu cầu bình
luận về đối tượng vậy.
2. PhÐp ph©n tÝch vµ tæng hîp
* Phân tích
- Phân tích là chia hiện tượng sự vật thành những yếu tố, phương diện nhỏ để đi sâu
vào xem xét nội dung và mối quan hệ bên trong của các sự vật hiện tượng.
- Có nhiều sự vật, hiện tượng cần được phân tích: một văn bản, một hành vi, một hiện
tượng trong đời sống, một nhận định, một nhân vật…
- Phân tích là để làm rõ các đặc điểm về nội dung, hình thức cấu trúc, và các mối quan
hệ bên trong của sự vật hiện tượng và từ đó mà thấy được ý nghĩa của chúng.
- Phân tích vừa là một thuật ngữ dùng để chỉ một phép lập luận trong một đoạn văn,
một văn bản; vừa để chỉ một thao tác nghị luận chung. Phân tích có thể kết hợp với những
thao tác nghị luận khác (chứng minh, giải thích, bình luận, bình giảng), những phương pháp
lập luận khác ( tương phản tương đồng, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, tổng phân hợp….) để
làm cho văn bản có sức thuyết phục, dễ hiểu…
Như vậy muốn làm tốt các dạng bài nghị luận cần nắm vững kĩ năng phân tích, vận dụng
phân tích để luận điểm bài nghị luận đưa ra được rõ ràng, cụ thể,thuyết phục.
- Một số lưu ý cho việc phân tích:
a. Đối với một đoạn thơ, bài thơ: Phân tích là thường chia ra từng câu, từng đoạn để
xem xét nghệ thuật, nội dung. Cũng có trường hợp phân tích theo từng phương diện nội
dung của bài thơ, đoạn thơ.
VD: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận)


b. Đối với một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích: Phân tích lại thường chia ra hai
phương diện nội dung và nghệ thuật để xem xét. Khi phân tích từng phương diện ấy lại cần
thiết xem xét kĩ sâu sắc ở từng nhân vật sự việc, từng đặc sắc nghệ thuật…Cũng có khi phân
tích theo bố cục, cuối cùng tổng hợp lại đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
VD: Phân tích đoạn trích “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng)

c. Đối với một nhân vật:
+ Nếu là nhân vật trữ tình: chủ yếu phân tích theo từng biểu hiện của diễn biến tâm
trạng, cảm xúc ( diễn biến này được thể hiện rõ qua cách tổ chức bố cục)
VD:- Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ “Nhớ rừng” ( Thế Lữ)

6


- Tấm lòng của người cha trong bài thơ “Nói với con” ( Y Phương)

+ Nếu nhân vật trong tác phẩm tự sự, thì cần chia ra phân tích trên các phương diện
cơ bản sau: Thứ nhất là cuộc đời, số phận, hoàn cảnh công việc…; thứ hai là những đặc
điểm phẩm chất, tính cách. Khi phân tích đặc điểm phẩm chất cũng nên xem xét ở từng
phẩm chất tiêu biểu một sao cho sâu sắc, cụ thể…Lưu ý đối với những câu chuyện có cốt
truyện tâm lí, nhân vật chủ yếu được xây dựng miêu tả về diễn biến tâm lí thì khi phân tích
có thể men theo các biểu hiện của tâm lí nhân vật đặt trong những hoàn cảnh, tình huống cụ
thể. Và đề bài nhiều khi cũng yêu cầu cụ thể phân tích về diễn biến tâm trạng của nhân vật.
VD1: Phân tích nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” (Nguyễn Du)
VD2: Diễn biến tâm trạng ông Hai (Truyện ngắn “Làng”- Kim Lân) kể từ khi nghe tin
làng chợ Dầu theo giặc.

+ Nếu nhân vật là đối tượng trữ tình: Có thể phân tích như phân tích một nhân vật tự
sự, có thể men theo mạch cảm xúc của bài thơ để phân tích.

VD: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” (Bằng Việt)

d. Đối với một phương diện của tác phẩm đoạn trích: Tuỳ theo nội dung đề yêu cầu
phân tích, mà chia tành từng yếu tố, từng biểu hiện nhỏ để xem xét, chứng minh, làm rõ
* Tổng hợp:
- Là quá trình ngược lại với phân tích, là phép rút ra những điểm chung, khái quát từ
những đặc điểm, phương diện riêng lẻ vừa phân tích.
- Có phân tích thì mới có tổng hợp. Nếu phân tích mà không tổng hợp thì sự phân tích
sẽ mất đi nhiều ý nghĩa. Tổng hợp khái quát mà không dựa vào phân tích thì sẽ thiếu cơ sở,
không thuyết phục. Chỉ có thể rút ra những kết luận đúng khi dựa trên sự phân tích sâu sắc
kĩ càng, xem xét sự vật hiện tượng một cách toàn diện, cụ thể…
- Tổng hợp thường diễn đạt bằng những câu cuối đoạn, những đoạn cuối bài và thường
có thể dùng các từ ngữ chuyển tiếp từ phân tích đến tổng hợp: Tóm lại, như vậy, rõ ràng, nói
một cách tổng quát,…
- Một số cách thức tổng hợp:
+ Tổng hợp sau khi phân tích một đoạn thơ, bài thơ, tác phẩm truyện…: là khái quát lại
toàn bộ những nét giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ đoạn thơ.
VD: Tổng hợp sau khi phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện Kiều Nguyễn Du)
“ Kiều ở lầu Ngững Bích” là một trong những đoạn thơ tả chảnh ngụ tình thành công
nhất trong “Truyện Kiều”. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ đáng thương của Thuý Kiều trong
những ngày đầu sau khi bán mình cho Tú Bà, Mã Giám Sinh, đồng thời ngợi ca tấm lòng thuỷ
chung, hiếu thảo, vị tha của nàng .”

7


+ Tổng hợp sau khi phân tích một nhân vật là khái quát lại về cuộc đời, đặc điểm phẩm
chất của nhân vật.
+ Tổng hợp sau khi phân tích một sự việc hiện tượng thì cần khái quát lại tất cả những
điều đã phân tích một cách ngắn gọn (chú ý ở nguyên nhân, lợi hại).

VD: Phân tích cái hại của việc hút thuốc lá.
“Thuốc lá là một sản phẩm gây độc hại cho sức khoẻ con người. Hút thuốc lá không
những ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn làm sa sút, suy giảm về mọi mặt trong đời sống con
người và xã hội.Hãy không hút thuốc lá và tuyên truyền để mọi người cùng loại bỏ thuốc lá.
Như thế là chúng ta đã tự bảo vệ mình và bảo vệ mọi người.”

- Thường sau khi tổng hợp người ta còn đưa ra những nhận xét đánh giá mang tính
nâng cao, mở rộng về đối tượng phân tích.
+ Phân tích đoạn thơ bài thơ, tác phẩm truyện đoạn trích: Thì có thể đánh giá về vị trí,
sự thành công của nó trong sự nghiệp sáng tác của tác giả hoặc trong một giai đoạn, một thời
kì văn học…
VD: Phân tích đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”…
“Kiều ở lầu Ngững Bích” là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình thành công nhất
trong “Truyện Kiều”. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ đáng thương của Thuý Kiều trong những
ngày đầu sau khi bán mình cho Tú Bà, Mã Giám Sinh, đồng thời ngợi ca tấm lòng thuỷ chung,
hiếu thảo, vị tha của nàng . Qua đoạn thơ, Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng văn chương xuất
chúng của mình. Và quan trọng nhất, giàu tính nhân văn nhất vẫn là tấm lòng nhân đạo cao
cả của nhà thơ dành cho những người bất hạnh.”

+ Phân tích về một nhân vật thì có thể đánh giá về sự điển hình tiêu biểu của nhân vật
cho một tầng lớp, giai cấp hay một thế hệ…Cũng có thể đánh giá về vai trò của nhân vật đối
với sự thành công của tác giả, tác phẩm.
VD: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” (Bằng Việt)
“ Hiện lên qua dòng hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu là hình ảnh người bà với cuộc
đời và những phẩm chất tốt đẹp thật đáng ngợi ca, khâm phục. Hình ảnh bà phải chăng là
hình ảnh của quê hương đất nước. Cháu nhớ bà, trân trọng, biết ơn bà cũng chính là biểu hiện
cụ thể của tình yêu gia đình, tình yêu mảnh đất nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Ai cũng có một
tuổi thơ hạnh phúc bên bà, lớn lên từ chiếc nôi của gia đình và quê hương như thế. Vì vậy, đọc
bài thơ, ta như gặp lại người bà dấu yêu của mình, và được trở về với những ngày xưa tưởng
như đã ngủ quên trong kí ức.”


3 . Phân biệt phép nghị luận và phương pháp lập luận
a. Phép nghị luận (cßn gäi lµ thao t¸c nghÞ luËn):
- Phép nghị luận có thể hiểu là phương pháp bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào
đó. Như đã trình bày ở trên thì mỗi phép nghị luận có những yêu cầu khác nhau về mức độ,

8


tính chất của việc bàn luận đánh giá một vấn đề. Chính phép nghị luận đã chi phối tới ngôn
ngữ, nội dung của bài nghị luận.
- Phép nghị luận thường được thể hiện rõ ngay ở yêu cầu đề bài nghị luận. Đó chính là
những mệnh lệnh đề.
b. Phương pháp lập luận
- Lập luận là một trong ba yếu tố cơ bản của bài văn nghị luận. SGK Ngữ Văn 7- tập 2,
trong bài “Đặc điểm của bài văn nghị luận” có viết: “Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận
điểm, luận cứ và lập luận”. “Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận
phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có tính thuyết phục.”
- Nếu phép nghị luận là yêu cầu chung cho tất cả những bài văn nghị luận có cùng một
dạng, thì phương pháp lập luận lại yêu cầu cụ thể cho từng bài văn, cho từng đoạn văn, và
bài văn đoạn văn nào cũng có thể lựa chọn sử dụng linh hoạt những phương pháp lập luận
(mỗi bài văn, đoạn văn là trình bày một luận điểm). SGK Ngữ Văn 7- tập 2 viết ở bài “Bố
cục và phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận” như sau: “Để xác lập luận điểm
trong từng phần và mối quan hệ giữa các phần ta có thể sử dụng các phương pháp lập luận
khác nhau như suy luận nhân quả, suy luận tương đồng…”. Nghĩa là, ta có rất nhiều cách
trình bày luận cứ để làm thuyết phục luận điểm. Cụ thể:
+ Lập luận theo quan hệ nhân quả
+ Lập luận theo quan hệ tương đồng hoặc tương phản
+ Lập luận theo quan hệ tổng- phân- hợp
+ Lập luận quan hệ diễn dịch hay quy nạp

Như vậy, học sinh cần nắm vững các phÐp nghị luận và các phương pháp lập luận để
làm được bài nghị luận đúng yêu cầu, chặt chẽ và thuyết phục.
II. KĨ NĂNG LÀM CÁC DẠNG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN CỤ THỂ
II.1 Kĩ năng làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
1. Kĩ năng chung
- Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ để nắm được nội dung và nghệ thuật cơ bản
- Nắm được những thông tin xuất xứ: tác giả, hoàn cảnh ra đời bài thơ. Đặc biệt phải
thấy được sự chi phối của phong cách nghệ thuật của tác giả và hoàn cảnh ra đời đến giá trị
bài thơ, đoạn thơ.
- Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ thường phải bám vào các đặc điểm riêng của thơ ca
nhất là đặc trưng về nghệ thuật để khai thác làm rõ nội dung nghị luận. Đó là thể thơ, là hình
ảnh, ngôn từ, giọng điệu, các biện pháp tu từ…Vì vậy, có thể đặt các câu hỏi sau để định
hướng cho việc nghị luận
+ Nội dung chủ yếu của bài thơ, đoạn thơ là gì?

9


+ Có thể chia bố cục của bài thơ, đoạn thơ không?
+ Bài thơ, đoạn thơ sử dụng những từ ngữ nào hay, độc đáo? Giá trị biểu đạt là gì?
+ Biện pháp tu từ nào được sử dụng có hiệu quả và hiệu quả như thế nào?
+ Trong bài thơ, đoạn thơ có những hình ảnh nào cần phân tích? Phân tích ra sao?
+ Giọng điệu chủ đạo của bài thơ, đoạn thơ như thế nào?
+ Bài thơ, đoạn thơ gợi liên tưởng đến đoạn thơ, bài thơ nào?
+…
- Tuỳ theo yêu cầu về thao tác nghị luận và đối tượng nghị luận cụ thể để có cách khai
thác, lập luận và diễn đạt phù hợp. Khi làm bài có thể vận dụng phép so sánh đối chiếu với
những câu thơ, đoạn thơ khác của tác giả hoặc của tác giả khác. Nếu là đề mở, cần vận dụng
linh hoạt các thao tác nghị luận phù hợp, có hiệu quả, nhất là thao tác giảng bình.
2. Kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ

- Khi nghị luận cần đặt đoạn thơ trong mạch cảm xúc chung của toàn bài để có những lí
giải phù hợp.
- Sau khi phân tích, bình giá những khía cạnh nội dung và nghệ thuật, cần đánh giá vẻ
đẹp riêng của đoạn thơ đó và vai trò vị trí của đoạn thơ đối với cả bài. Thậm chí từ một đoạn
thơ, cần bước đầu thấy được phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Dàn bài :
a. Mở bài:
+ Giới thiệu khái quát về tác giả (chỉ nên giới thiệu vị trí văn học của tác giả, không đi
sâu vào các phương diện khác)
+ Giới thiệu về bài thơ
+ Dẫn đoạn thơ cần nghị luận và nêu khái quát những ấn tượng chung về đoạn thơ đó
( hoặc nên khái quát nội dung đoạn thơ)
b.Thân bài: Tiến hành nghị luận về các yếu tố nghệ thuật, các phương diện nội dung
của đoạn thơ. Chú ý làm nổi bật và nhấn mạnh hơn ở những đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật. Mức độ phân tích, đánh giá, nhận xét, và bày tỏ cảm xúc, tình cảm của mình về đoạn
thơ cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu về thao tác nghị luận cơ bản của từng đề
ra.
c. Kết bài: Đánh giá vai trò ý nghĩa của đoạn thơ trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng
của toàn bài. Nêu những cảm nghĩ, ấn tượng sâu đậm nhất về đoạn thơ.
VD : Cho đoạn thơ:
“ Vẫn còn bao nhiêu nắng

10


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
( Sang thu – Hữu Thỉnh)


a. Đặt câu hỏi để định hướng khai thác đoạn thơ
b. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ trên.
c. Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ trên.
Gợi ý:
a. Hệ thống câu hỏi có thể là:
- Đoạn văn có những từ ngữ nào đặc sắc? Tác dụng như thế nào?( Một loạt phó từ : vẫn,
đã, cũng kết hợp với những động từ diễn tả sự tồn tại:còn, vơi, bớt -> sự biến đổi rất tinh tế
của các hiện tượng tự nhiên, của thời tiết, khí hậu lúc sang thu)
- Biện pháp tu từ nghệ thuật có giá trị trong đoạn thơ là gì? ( Biện pháp nhân hoá-ẩn dụ:
Sấm- ẩn dụ cho những vang động, những bất thường, sóng gió của cuộc sống; hàng cây đứng tuổi
ẩn dụ cho những con người đã “sang thu” già dặn, chín chắn,…-> Ý nghĩa triết lí về cuộc
sống…)
- Giọng điệu đoạn thơ như thế nào? ( nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm chất suy tư-> bài học ý
nghĩa càng trở nên thấm thía sâu sắc với người đọc, người nghe)
- Nội dung bao trùm đoạn thơ là gì? ( diễn tả tinh tế những biến chuyển rõ rệt của thời
tiết, khí hậu lúc sang thu và đưa ra bài học triết lí về con người, về cuộc đời).
- Vai trò, vị trí của đoạn thơ đối với bài thơ như thế nào? ( đoạn thơ không chỉ góp phần bổ
sung, hoàn chỉnh bức tranh sang thu của thiên nhiên đất trời và sự sang thu của đời người mà còn
thể hiện những bài học chiêm nghiệm quý giá về cuộc đời con người. Với nội dung ấy đoạn thơ đã
góp phần không nhỏ đối với thành công và giá trị, sức sống lâu bền của toàn bài thơ…)
b. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ trên.
Tham khảo:
“ …Vẫn là nắng mưa, sấm chớp, bão giông như mùa hạ, nhưng mức độ đã khác rồi. Để
ý sẽ thấy cái gì cũng bắt đầu đi vào chừng mực, vào thế ổn định. Và cái “đứng tuổi” của cây
là một cái chốt cửa để mở sang một thế giới khác: Thế giới sang thu của hồn người. Vẻ chín
chắn điềm tĩnh của cây trước sấm sét bão giông hay đó chính là sự từng trải chín chắn của
con người sau những dâu bể của cuộc đời?Ở vào cái tuổi ấy, con người một mặt sâu sắc thêm,
mặt khác lại khẩn trương gấp gáp hơn vì quỹ thời gian không còn nhiều nữa. Thì ra trước mắt
việc đi mãi, ngoảnh đầu thu đến rồi. Bốn mùa luân chuyển vô hình, lặng lẽ: bỗng chợt thu.


11


Đời người vất vả, tất bật bận rộn, lo toan bỗng chốc thấy mái tóc pha sương: sững sờ nhìn
mình cũng đã sang thu. Hiểu như vậy ta càng thấy trân trọng biết bao với tâm hồn nhạy cảm
trước những đổi thay của thiên nhiên đất trời, với tình yêu thiên nhiên, niềm tha thiết yêu cuộc
sống của nhà thơ. Và cũng thực sự cảm ơn nhà thơ đã đem đến cho người đọc chúng ta
những triết lí sâu sắc về sự từng trải của đời người.
b. Phân tích đoạn thơ trên.
Tham khảo:
“ Sang thu, cảnh vật thời tiết thay đổi. Tất cả còn những dấu hiệu mùa hạ nhưng đang
giảm dần mức độ, cường độ từ gay gắt chuyển hoá thành êm dịu. Phép tiểu đối giữa “nắng”
và “mưa”, “vẫn còn” và “đã vơi” “ cũng bớt” thể hiện sự phân hoá mong manh giữa hai
mùa.Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa.
Khi đất trời sang thu, những hàng cây lâu năm không còn bất ngờ trước những tiếng sám
chuyển mùa nữa. “ Sấm” và “ hàng cây đứng tuổi” là những hình ảnh ẩn dụ được nhà thơ sử
dụng một cách có chọn lọc. “Sấm” chỉ những vang động sóng gió của cuộc đời. Còn “hàng
cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải, thường điềm tĩnh hơn, chín chắn thêm trước
những vang động sóng gió cuộc đời. Rõ ràng, từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, khổ
thơ gợi chúng ta liên tưởng đến sự thay đổi của mùa thu đời người, và cũng từ những thay đổi
của đời người mà khổ thơ cho ta bài học triết lí sâu sắc về cuộc đời con người: hãy biết chấp
nhận, bình tĩnh đối mặt với hiện thực cuộc sống để ta dày dạn hơn, có ý chí nghị lực hơn;
đồng thời hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, yêu đất nước con người, yêu cuộc đời
như nhà thơ đã sống và đã yêu.”

3. Kĩ năng làm bài nghị luận về một bài thơ
Các đối tượng của đề bài nghị luận về một bài thơ là rất phong phú đa dạng. Có thể
nghị luận về toàn bộ bài thơ, có thể nghị luận về một phương diện của bài thơ: một nhân vật
trữ tình, một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật tiêu biểu…Mỗi đối tượng ấy cũng có một số
kĩ năng riêng . Cụ thể:

Dạng 1: Nghị luận về toàn bộ bài thơ
- Cần phát hiện mạch cảm xúc của bài thơ và mạch cảm xúc ấy chi phối bố cục bài thơ
như thế nào? Nắm vững nội dung từng phần, từng đoạn một cách cụ thể.
- Vì là nghị luận cả bài nên ở nhiều câu, nhiều đoạn không bắt buộc phải khai thác kĩ
như nghị luận về một đoạn. Người viết cần biết lướt qua, tóm lược ở những đoạn, những câu
không góp phần nhiều vào việc thể hiện giá trị của bài thơ.
- Cần thấy được vị trí của bài thơ đối với sự nghiệp của tác giả, cũng như của cả một
giai đoạn văn học, một thời kì văn học, thậm chí là cả của nền văn học dân tộc.
- Có những bài thơ, nhất là những bài thơ dài, người viết có thể trình bày cách cảm,
cách hiểu của mình theo chiều dọc (về từng phương diện nội dung của bài). Khi khai thác

12


từng phương diện cũng yêu cầu khai thác cả những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc góp phần
diễn đạt nội dung ấy.
- Dàn bài chung:
a. Mở bài
+ Giới thiệu khái quát về tác giả (vị trí văn học, phong cách nghệ thuật của tác giả mà
không đi sâu vào những phương diện khác).
+ Giới thiệu bài thơ, nội dung bao trùm bài thơ
+ Bước đầu đánh giá về bài thơ đó (tuỳ theo đề bài và nội dung cụ thể của bài thơ mà
đưa ra những đánh giá, nêu ấn tượng cho phù hợp…)
b.Thân bài
+ Có thể nêu sơ qua hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
+ Tiến hành thuyết minh, phân tích, bình giảng, nêu cảm xúc về lần lượt từng khổ thơ
đoạn thơ (theo bố cục) các phương diện cụ thể của bài thơ. Chú ý, làm nổi bật được những
đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Trong khi trình bày, có thể liên hệ so sánh với những bài
thơ, đoạn thơ, câu thơ khác để ý được nổi bật, thuyết phục.
c.Kết bài:

+ Đánh giá vai trò vị trí của bài thơ đối với sự nghiệp văn học của tác giả, đối với văn
học dân tộc nói chung
+ Khẳng định lại những cảm xúc, những suy nghĩ tâm đắc nhất về bài thơ.
Ví dụ: Cảm nhận về bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của
Nguyễn Khoa Điềm.
1. Mở bài: Giới thiệu bài thơ và nêu những ấn tượng chung về bài thơ
2. Thân bài:
- Cảm nhận chung về hình thức kết cấu bố cục của bài thơ: chia ba đoạn, với ba khúc ru,
ba khúc ru có sự đan xen lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ dành cho em bé. Ba khúc
ru được lặp lại những câu đầu, được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, với sự mở rộng về không
gian, về tính chất công việc người mẹ làm, đặc biệt về sự nâng cao phát triển trong tình cảm,
ước mơ của người mẹ…Nhờ thế vẻ đẹp của hình tượng người mẹ cũng như tình cảm của tác
giả dành cho mẹ cũng được nhấn mạnh, tô đậm hơn lên.
- Lần lượt cảm nhận cụ thể:
+ Vẻ đẹp của người mẹ Tà Ôi: một người phụ nữ giàu tình yêu thương, giàu ước mơ và
giàu nghị lực… Đó là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống lao động và chiến
đấu, vẻ đẹp của những người mẹ anh hùng.

13


+ Tình cảm thái độ của tác giả dành cho mẹ: sự thấu hiểu, cảm thương, niềm trân trọng,
khâm phục, ngợi ca tự hào…
* Lưu ý: Có thể theo một trong hai cách: Cảm nhận từng khúc ru hoặc cảm nhận về hình
tượng thơ: Người mẹ và tình cảm tác giả…Ở đây hướng dẫn theo cách thứ hai, cảm nhận về
hình tượng thơ. Khi trình bày phải biết dừng lại ở những câu thơ, từ ngữ đặc sắc để cảm nhận
sâu kĩ hơn, làm xoáy trọng tâm…)
3. Kết bài: Khẳng định giá trị của bài thơ về cả nội dung và nghệ thuật; nâng cao, mở rộng.

II.2. Kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích)

1. Kĩ năng chung
- Đối với một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, khi nghị luận ta cần chú ý khai thác
những yếu tố hình thức như nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống truyện, nghệ thuật
miêu tả xây dựng nhân vật ( thông qua ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói, nội tâm…),
việc sáng tạo những chi tiết, những hình ảnh giàu ý nghĩa, hay việc sử dụng các biện pháp tu
từ…Từ đó làm toát lên giá trị nội dung của tác phẩm (nội dung hiện thực, nội dung tư
tưởng).
- Cần đọc kĩ tác phẩm hoặc đoạn trích để khái quát được giá trị nội dung và nghệ thuật cơ
bản. Biết tóm tắt đầy đủ các sự việc, nội dung chính mà tác phẩm (đoạn trích) kể lại, biết hệ
thống các nhân vật và mỗi nhân vật ấy thuộc kiểu loại nhân vật nào. Đồng thời ghi nhớ, thuộc
lòng những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu viết về nhân vật, sự việc…
- Tìm hiểu thêm những thông tin về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm để hỗ trợ cho
việc nghị luận được sâu sát.
- Nghị luận về một tác phẩm văn xuôi thường có đối tượng yêu cầu là:
+ Nghị luận về toàn bộ tác phẩm
+ Nghị luận về một phương diện nội dung (Giá trị nội dung cụ thể, một nhân vật cụ thể
của tác phẩm)
+ Nghị luận về một nét đặc sắc trong nghệ thuật tác phẩm (nghệ thuật miêu tả xây dựng
nhân vật, xây dựng tình huống)
+ Nghị luận về đặc điểm phong cách của tác giả qua tác phẩm.
Mỗi đối tượng nghị luận như thế cần vận dụng phương pháp làm bài phù hợp, tránh sai
lạc, thiếu sót.
2. Kĩ năng làm bài cụ thể đối với từng đối tượng
Dạng 1: Nghị luận về toàn bộ tác phẩm (hoặc đoạn trích)
- Vì là nghị luận về toàn bộ tác phẩm nên cần chú ý nghị luận đầy đủ trên cả hai
phương diện: giá trị nội dung và nghệ thuật (như đã trình bày trên). Thường thì trước khi
nghị luận, cần tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích, rồi nghị luận về giá trị nội dung, nghệ thuật.

14



+ Mỗi tác phẩm phản ánh và thể hiện một nội dung riêng, nên cần nhận ra nội dung
hiện thực của tác phẩm là gì để nghị luận về bức tranh hiện thực đó thông qua việc cảm nhận
phân tích về các nhân vật, sự việc, các chi tiết liên quan. Có thể trình bày thành những đoạn
riêng biệt đối với từng biểu hiện của giá trị hiện thực ( Hiện thực đời sống, số phận con
người, hay hiện thực bức tranh xã hội đất nước…).Từ nội dung hiện thực, chuyển qua nghị
luận về giá trị nội dung tư tưởng (tư tưởng nhân đạo, tư tưởng yêu nước, những triết lí suy
ngẫm của tác giả thể hiện qua tác phẩm, sức sống mãnh liệt của con người…)
+ Cần khái quát được những nét nghệ thuật thành công của tác phẩm, chọn và phân tích
chứng minh một số nét nghệ thuật tiêu biểu nhất như nghệ thuật xây dựng nhân vật, tạo tình
huống… (có dẫn chứng).
Trình tự trình bày giữa các các ý, các đoạn là do người viết lựa chọn sao cho phù hợp,
dễ lập luận…
- Đánh giá khái quát được giá trị, vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của tác
giả và sự đóng góp của tác giả vào nền văn học nước nhà.
- Trong qua trình nghị luận có thể dùng phương pháp so sánh với những tác phẩm tác
giả khác để bài viết sâu sắc hơn.
- Dàn bài chung:
a. Mở bài:
+ Giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích (xuất xứ, giá trị)
+ Nêu ấn tương chung về tác phẩm, đoạn trích
b. Thân bài: Nên lần lượt trình bày các ý cơ bản sau
+ Tóm tắt thật ngắn gọn nội dung hoặc cốt truyện của tác phẩm đề làm nền cho việc
nghị luận về giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm.
+ Nghị luận về giá trị nội dung (thường tiến hành trước): Mỗi nội dung trình bày một
đoạn, có phân tích nhân vật, sự việc để làm rõ.
+ Nghị luận về nghệ thuật: Chỉ cần trình bày một đoạn, tập trung phân tích kĩ ở nét nghệ
thuật thành công nhất, còn những nghệ thuật khác có thể chỉ cần liệt kê ra mà thôi.
c. Kết bài: Khẳng định, nâng cao về giá trị tp, tài năng nghệ thuật, tư tưởng tình cảm
của tác giả cũng như những đóng góp của tác phẩm, tác giả vào văn học nói chung.

Ví dụ: Cảm nhận về “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
a. Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhận xét chung: đây là một tác phẩm rất có giá
trị, để lại nhiều những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc người nghe.
b. Thân bài:
* Tóm tắt tp (theo nhân vật)

15


* Nghị luận về giá trị nội dung
- Nội dung hiện thực
- Nội dung nhân đạo
* Nghị luận về giá trị nghệ thuật
c. Kết bài:Khẳng định nâng cao giá trị tác phẩm…

Dạng 2. Nghị luận về một phương diện nội dung hay nghệ thuật của tác phẩm,
đoạn trích
1. Vì chỉ nghị luận về một phương diện, khía cạnh nào đó trong toàn bộ tác phẩm, đoạn
trích nên chỉ cần dựa vào những chi tiết, sự việc, nhân vật tiêu biểu thể hiện cho phương
diện, khía cạnh đó mà tập trung phân tích, cảm nhận. Tránh sa vào nghị luận toàn bộ tác
phẩm hoặc nghị luận lạc sang đối tượng khác.
2. Dàn bài:
a. Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác phẩm, đoạn trích
- Nêu phương diện vần đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu
b. Thân bài: Tiến hành nghị luận về những biểu hiện cụ thể của vấn đề. Mội biểu hiện
có thể trình bày thành một đoạn văn. Trong quá trình nghị luận phải bám vào tác phẩm, đoạn
trích để dẫn ra những chi tiết, hình ảnh, nhân vật, sự việc tiêu biểu nhằm phân tích làm rõ
vấn đề. (Tránh lan man, đưa dẫn chứng không phù hợp, hoặc sa vào nghị luận vấn đề khác,
hay nghị luận toàn tác phẩm, đoạn trích)

c. Kết bài: Khẳng định, đánh giá ý nghĩa của vấn đề vừa nghị luận đối với thành công,
giá trị chung của toàn tác phẩm; đồng thời nêu ấn tượng cảm nghĩ của bài thân về vấn đề, về
tác phẩm…
Ví dụ 1 (Nghị luận về một phương diện nghệ thuật): Hãy phân tích đoạn trích “Kiều
ở lầu Ngưng Bích” để thấy được ngòi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.
Gợi ý: Phải biết chọn những câu, những hình ảnh tiểu biểu có sử dụng nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình để phân tích chứng minh.
a. Mở bài: Giới thiệu: Tả cảnh ngụ tình là một biện pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn
Du trong “Truyện Kiều” nói chung và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói riêng.
b. Thân bài:
- Giải thích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: Là một biện pháp nghệ thuật mà thông qua việc
tả cảnh, người viết muốn gửi gắm thể hiện tâm tư tình cảm của con người
- Hầu hết các câu thơ tả cảnh trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đều sử dụng biện
pháp nghệ thuật này. Chính Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao

16


giờ”.Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình hay
nhất của tác phẩm.
- Bốn câu đầu đoạn trích, từ việc dùng nghệ thuật liệt kê, đối ngữ, dùng từ ngữ gợi hình
gợi cảm tác giả miêu tả khắc hoạ một khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích thãm đẫm
tâm trạng nhân vật. Hình ảnh cảnh vật thì ngổn ngang “ Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm
kia…” như sự ngổn ngang trăm nỗi tơ vò của Thuý Kiều . Không gian bát ngát bốn bề, sắc
màu đậm như loang ra, hình ảnh con người hiện ra trở nên bé nhỏ…đó chính là khung cảnh
gợi sự cô đơn, lẻ loi, tâm trạng thẫm đẫm nỗi buồn của Kiều trong cảnh ngộ lưu lạc tha
hương, xa người yêu, xa gia đình…Cảnh như thế, lòng người như thế và Nguyễn Du đã khái
quát thật chính xác trong câu cuối đoạn: “ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
- Tám câu cuối: Cảnh được miêu tả dưới cái nhìn rất buồn của Thuý Kiều, cho nên cảnh
mang đậm nỗi buồn nhân vật.Đặc biệt qua mỗi hình ảnh thiên nhiên khác nhau,tác giả gợi

một cảnh ngộ, một nỗi buồn riêng của nàng Kiều.
Ở đây cảnh được miêu tả xa đến gần, sắc màu nhạt đến đậm, từ tĩnh đến động…với
nhiều từ láy, nhiều tính từ rất gợi tả gợi cảm, nhiều hình ảnh giàu sức gợi liên tưởng…Mỗi
đặc điểm của cảnh là một nét cảnh ngộ, tâm trạng nhân vật.
Cảnh được vẽ thành một bộ tranh tứ bình thì đó cũng là bộ tứ bình liên hoàn về tâm
trạng Thuý Kiều. Nỗi buồn nhân vật được thể hiện mỗi bức một sâu sắc hơn. Cảnh ngộ nhân
vật mỗi bức cũng một đáng thương hơn…
c. Kết bài: Khẳng định lại sự thành công của tác giả trong nghê thuật tả cảnh ngụ tình
và tác dụng của nghệ thuật này trong giá trị của tác phẩm “Truyện Kiều”.
Ví dụ 2 (Nghị luận về một phương diện nội dung): Suy nghĩ về tình cha con trong
đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Gợi ý :
a. Mở bài: Giới thiệu “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là truyện ngắn viết về tình
cha con của người cán bộ kháng chiến đã hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.
b.Thân bài: Trình bày, phân tích được 2 luận điểm sau
+ Tình cảm của bé Thu dành cho cha thật cảm động và sâu sắc
- Bé thu là cô bé có tình cảm son sắt, thuỷ chung với ba của mình
- Khi chia tay, phút giây nó kịp nhận ra ông Sáu là người cha trong bức ảnh, nó vừa
hạnh phúc, vừa lưu luyến không muốn rời xa, vừa yêu thương tự hào về ba của mình
+ Tình cảm của ông Sáu dành cho con vô cùng lớn lao, bất tử
- Ông Sáu yêu con, nhớ con, khao khát được gặp con
- Mấy ngày về phép, ông luôn tìm cách gần gũi, thương yêu vỗ về, chăm sóc con mong
bù lại cho con những tháng xa cách nhưng con bé bướng bỉnh khiến ông chạnh lòng, khổ tâm.

17


- Phút giây ông được hưởng hạnh phúc thật ngắn ngủi và trong hoàn cảnh hết sức éo
le là phải lên đường đến căn cứ nhận nhiệm vụ.
- Khi ở chiến khu ông dồn hết tất cả tình yêu thương, nỗi nhớ nhung để làm cây lược

tặng con gái. Và khi bị thương trong một trận càn, trước lúc nhắm mắt ra đi, ước nguyện lớn
nhất của ông Sáu là nhờ đồng chí của mình chuyển cây lược ấy tới tận tay con, như thể gửi
trao tấm lòng, trái tim mình cho con vậy.
+ Suy nghĩ về tình cảm cha con nói riêng và những mất mát của nhân dân ta trong
hoàn cảnh chiến tranh éo le; suy nghĩ về tình cảm gia đình, tình cha con trong cuộc sống thời
hiện đại.
c. Kết bài: Khẳng định tình cảm cha con sâu sắc, thiêng liêng, bất tử; rút ra bài học về
tình cảm gia đình…

Dạng 3. Nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm, đoạn trích
- Phải xác định được nhân vật cần nghị luận thuộc kiểu loại nhân vật nào (nhân vật
chính hay phụ, có phải là nhân vật tư tưởng không…), có vai trò như thế nào trong tác
phẩm?
- Tuỳ từng kiểu loại nhân vật để khai thác phân tích cho phù hợp; nhưng cơ bản đều
dựa vào những biểu hiện về nguồn gốc lai lịch, về hoàn cảnh cuộc sống, về ngoại hình, ngôn
ngữ, hành động, và nội tâm để phát hiện ra những đặc điểm tiêu biểu về cuộc đời, phẩm
chất…
- Khi nghị luận về nhân vật, chú ý khái quát, nâng cao nhân vật ấy xem nhân vật có đại
diện, tiêu biểu cho tầng lớp, thế hệ nào không.
- Dàn bài:
a. Mở bài:
+ Giới thiệu nhân vật
+ Nêu ấn tượng chung về nhân vật (tránh nêu ra cả những đặc điểm của nhân vật khi
trong đề bài không giới hạn trước).
b.Thân bài:
* Lần lượt nghị luận làm rõ những đặc điểm tiêu biểu của nhân vật về
+ Hoàn cảnh cuộc sống, công việc…
+ Hình dáng diện mạo (nếu có)
+ Phẩm chất, tính cách: Mỗi nét của phẩm chất tính cách tiêu biểu có thể viết thành một
đoạn . Chú ý bàm vào tác phẩm, đoạn trích tìm những chi tiết, hình ảnh cụ thể miêu tả việc

làm, hành động, lời nói, suy nghĩ nhân vật để phân tích làm rõ đặc điểm phẩm chất, tính
cách…

18


* Nâng cao, khái quát về những đặc điểm của nhân vật cho cả thế hệ, tầng lớp…
Khái quát chung về nghệ thuật miêu tả xây dựng nhân vật cũng như tình cảm thái độ
của tác giả đối với nhân vật.
c. Kết bài: Khẳng định, khái quát về nhân vật và nêu cảm nghĩ của bản thân đối với
nhân vật…
Dạng 4. Nghị luận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm
- Nắm được khái niệm về chi tiết nghệ thuật: Chi tiết trong tác phẩm văn học được hiểu
rất rộng rãi: một hình ảnh, một hành động, một dáng đi, một nụ cười, một ánh mắt, một
giọng nói, một cảnh sắc thiên nhiên, một đồ vật trong phòng...thậm chí là một nhan đề của
tác phẩm về cách gọi tên nhân vật…
- Ý nghĩa vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm:
+ Nếu so sánh tác phẩm văn học là một cây xanh thì cốt truyện là gốc, là cành; còn chi
tiết lầ nhánh là lá là hoa. Cốt truyện tạo nên rường cột, tạo nên cái khung, còn chi tiết làm
phong phú sống động, xanh tươi cho tác phẩm.
+ Không có chi tiết nghệ thuật, tác phẩm sẽ trở nên khô khan, đơn điệu tẻ nhạt. Mọi
tác phẩm văn học đều cần có chi tiết, muốn tác phẩm hay thì chi tiết nghệ thuật phải độc
đáo, ý nghĩa, có khả năng gợi mở, tạo sự liên tương thú vị, đặc biệt là có giá trị thể hiện tư
tưởng tác phẩm. Nhà văn M. Gorki nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là vì thế.
- Cách phân tích chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự
Khi gặp đề thuộc loại phân tích chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự, ta cần phải
thực hiện các công đoạn chính sau đây:
+ Giới thiệu chi tiết nghệ thuật: Nêu xuất xứ của chi tiết, tái hiện chi tiết, và có thể nói
qua tác động của chi tiết đó đối với diễn biến của truyện.
+ Phân tích ý nghĩa của chi tiết (ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa nhân văn) trong quan hệ

với diễn biến của truyện, trong quan hệ giữa các nhân vật, trong quan hệ với chính bản thân
nhân vật ( số phận và tính cách nhân vật).
+ Phân tích giá trị nghệ thuật của chi tiết (nghệ thuật xây dựng hình tượng, nghệ
thuật điển hình hoá, nghệ thuật kết cấu…)
Tất cả những điều trên phải được phân tích trên cơ sở nắm được văn bản nghệ thuật và
hiểu biết về tác phẩm, tác giả, không nói chung chung hoặc áp đặt vô căn cứ.
Khi làm bài có thể kết hợp giữa phân tích với giải thích, bình luận ở mức độ làm sáng
tỏ thêm, sâu sắc thêm sự phân tích.
Ví dụ: Nhận xét về chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết nhỏ
làm nên nhà văn lớn". Chi tiết chiếc bóng trong "Chuyện người con gái Nam Xương" đã
thể hiện rõ điều đó.

19


Em hãy trình bày hiểu biết của mình về vấn đề trên.
Gợi ý
1- Nêu được vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện:
- Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ nhất tạo nên tác phẩm. Để làm nên một chi tiết
nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật.
- Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù: Tầm vóc của người nghệ sĩ có thể được làm nên từ
những yếu tố nhỏ nhất. Nhà văn lớn có khả năng sáng tạo được những chi tiết nhỏ nhưng giàu
giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
2- Đánh giá giá trị của chi tiết nghệ thuật chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam
Xương”
* Giá trị nội dung:
- Chiếc bóng tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò người vợ
người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thủy chung son sắt, ước muốn đồng nhất "xa mặt nhưng
không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận. Đó là tấm lòng người mẹ muốn khỏa lấp sự
trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con thơ bé bỏng.

- Chiếc bóng là một ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ
Phong kiến nam quyền. Họ có thể gặp bất cứ một nguyên nhân vô lí nào mà không lường
trước được. Với chi tiết này người phụ nữ hiện lên là nạn nhân của bi kịch gia đình, bi kịch xã
hội.
- Chiếc bóng xuất hiện ở cuối tác phẩm "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ
dần rồi biến mất" khắc họa giá tri hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
- Chi tiết này còn là bài học về hạnh phúc muôn đời: Một khi đánh mất niềm tin thì hạnh
phúc chỉ còn là chiếc bóng hư ảo.
* Giá trị nghệ thuật:
- Tạo sự hoàn chỉnh chặt chẽ cho cốt truyện: Chi tiết chiếc bóng tạo nên nghệ thuật thắt
nút mở nút mâu thuẫn bất ngờ, hợp lí. Bất ngờ vì một lời nói của tình mẫu tử, một cử chỉ đầy
tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt, với nỗi khát khao được đoàn tụ lại đẩy Vũ Nương vào
vòng oan nghiệt khổ đau. Hợp lí vì nó làm cho mối nhân duyên khập khiễng cộng với bao lí do
khác nữa có cơ hội để bùng phát mâu thuẫn.
- Tạo kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho truyện
- Là sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với truyện cổ tích làm cho tác phẩm có vẻ đẹp lung
linh, có kết thúc có hậu nhưng lại nhấn mạnh hơn bi kịch người phụ nữ.

20


C. KÕt luËn
Để việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận văn chương như đã trình bày ở trên một
cách hiệu quả, người giáo viên cần biết chọn thời gian, phân chia nội dung kiến thức hướng
dẫn rèn luyện cho cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh. Ở đây vừa có kiến thức ôn
luyện, vừa có kiến thức mở rộng, nâng cao, bài tập nghị luận lại rải đều ở nhiều văn bản học
tập từ đầu năm đến cuối năm lớp 9, nên càng không thể vận dụng máy móc.
- Khi dạy học, cần hướng dẫn kĩ cho học sinh cả kĩ năng diễn đạt luận điểm, kĩ năng
chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần, các đoạn.
- Cần thiết rèn luyện kĩ năng bình giảng, kĩ năng so sánh văn học, kĩ năng giải quyết

các đề bài lí luận văn học, kĩ năng nghị luận về một chi tiết nghệ thuật đối tượng học sinh dự
thi học sinh giỏi các cấp, còn các kĩ năng khác thì rèn luyện cho mọi đối tượng.
- Kiến thức các kĩ năng có thể cung cấp, củng cố vào các buổi học thêm, song song với
chương trình học tập buổi sáng.
- Đặc biệt, vào giai đoạn ôn luyện cho học sinh thi chuyển cấp đạt kết quả, giáo viên
nên có thao tác hệ thống lại tất cả các kĩ năng, và ra hệ thống bài tập rèn luyện theo từng
dạng bài nghị luận cụ thể sao cho học sinh rèn luyện thành thạo kĩ năng và nắm vững kiến
thức về tác phẩm văn chương để có thể tự tin khi tạo lập một văn bản nghị luận văn học bất
kì.
Tháng 3 năm 2012

21



×