Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.95 MB, 105 trang )

LUẬN VĂN:

Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu
Hàng không AIRIMEX


Lời nói đầu

Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện
đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay
trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện
đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình
trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa
cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì
mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt công tác xuất nhập khẩu là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà
nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước
ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại,
cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh
tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói
riêng của mỗi Doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao.
Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh. Điều
đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các Doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển


trên thị trường.
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những
Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ
chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh
doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới,
chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài


ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh
doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ
tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn
đến hiệu quả không cao.
Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh
doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu
hiệu quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất
cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích
kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS Phạm
Công Đoàn, các cô, chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hàng không- AIRIMEX, tôi đã
chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất
nhập khẩu Hàng không AIRIMEX“. làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình và
hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng
cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xuất nhập khẩu Hàng không nói riêng và các Doanh
nghiệp thương mại nói chung.
-Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn trình bày những lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Sau đó là đi đến phân tích thực trạng hoạt động của Công ty từ đó tìm ra những mặt
mạnh, mặt yếu và những nguyên nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Cuối cùng là đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để giúp Công ty
đưa ra những chính sách hữu hiệu nâng cao hiệu quả kinh doanh.



-Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy hoạt động xuất nhập khẩu trong ba năm (1999-2001)của Công ty xuất
nhập khẩu Hàng không AIRIMEX làm tài liệu để nghiên cứu.
-Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: “Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh
nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường “.
Chương II: “Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu
Hàng không AIRIMEX “.
Chương III: “Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX “.


Chương I một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương
mại trong nền kinh tế thị trường.
I. kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm về kinh doanh - kinh doanh Thương mại.
1.1. Kinh doanh: là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời.
Kinh doanh được phân biệt khác với hoạt động khác bởi các đặc điểm chủ yếu sau:
- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện được gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể
kinh doanh có thể là một cá nhân, hộ gia đình hoặc một Doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường, không có thị trường thì không có khái
niệm kinh doanh.
- Kinh doanh phải gắn liền với đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà
còn phải biết cách vận động vốn không ngừng.
- Cuối cùng mục đích chủ yếu của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận.

1.2. Kinh doanh thương mại: là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện dịch vụ
lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Kinh doanh thương mại trước
hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh – vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền, tài sản có
khác. Có thể lúc đầu vốn là khoản tích lũy, vốn góp, vốn huy động hoặc vốn vay... tất cả
các điều đó là thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá. T - H - T’ trong đó T’ = T + t.
Kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán (buôn bán). Xét
trên toàn bộ và cả quá trình hoạt động kinh doanh thương mại là thực hiện hành vi mua
hàng (ở đây không phải mua hàng để dùng) mà mua hàng để bán lại cho người khác. Đó là
hoạt động buôn bán.
Kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) và hoạt động kinh doanh để thực
hiện hành vi mua bán, nhưng sau mỗi kỳ kinh doanh thì phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có
như vậy mới mở rộng và phát triển được hoạt động kinh doanh.
2. Các loại hình kinh doanh thương mại.
Đổi mới quản lý từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị
trường cũng như theo chủ chương của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành
phần đã như một đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển hoạt động sản xuất kinh


doanh thật sự sẽ sôi nổi hơn rất nhiều. Các loại hình kinh doanh hiện nay cũng trở nên
phong phú đa dạng hơn. Nhưng có thể quy về 3 loại hình kinh doanh cơ bản sau:
2.1. Kinh doanh chuyên môn hoá: Doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại hàng hoá
nhất định cùng công dụng tính năng kỹ thuật. Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là mặt
hàng mà Doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, mặt hạn
chế đó là việc Doanh nghiệp rất khó khăn khi chuyển đổi mặt hàng kinh doanh.
2.2. Kinh doanh tổng hợp: Doanh nghiệp tổ chức kinh doanh rất nhiều loại hàng
hoá khác nhau. Trong khuôn khổ luật pháp cho phép thì Doanh nghiệp có thể kinh doanh
bất kỳ loại hàng hoá nào mà đem lại lợi nhuận.
Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là Doanh nghiệp có thể tận dụng được tối đa
tiềm lực từ cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, luôn mở rộng phạm vi hoạt động. Loại
hình kinh doanh này luôn thích ứng được các thay đổi về nhu cầu thị trường có thể chuyển

hướng kinh doanh nhanh, đồng thời hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Nhưng hạn chế của loại hình kinh doanh này là không chuyên môn hoá sâu sắc được
mặt hàng kinh doanh, tính nhạy bén với thị trường nào đó bị giới hạn bởi sự dàn trải năng
lực Marketting. Ngoài ra, do tính chuyên dụng không cao nên hạn chế sức cạnh tranh trên
thị trường.


2.3. Đa dạng hoá kinh doanh trên cơ sở ngành hàng chiến lược và lĩnh vực kinh
doanh.
Khi nói đến đa dạng hoá kinh doanh thì chúng ta phải hiểu đa dạng hoá kinh doanh
trên hai mặt: đa dạng hoá về mặt hàng kinh doanh và đa dạng hoá về lĩnh vực kinh doanh.
Kinh doanh theo loại hình này Doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở một ngành hàng chiến
lược, một lĩnh vực cơ bản. Vấn đề ở đây là phải xác định được mặt hàng chiến lược phù
hợp với khả năng của Doanh nghiệp mình và có sức cạnh tranh cao. Đây là loại hình kinh
doanh tiến bộ có thể khắc phục được nhược điểm của hai loại hình mà ta vừa nghiên cứu ở
trên. Nhưng loại hình này đòi hỏi rất cao về năng lực khả năng kinh nghiệm và chuyên
môn của đội ngũ lãnh đạo, quản lý và sự năng động nhạy bén trước những biến đổi nhu
cầu của thị trường.
3. Doanh nghiệp thương mại và đặc điểm của Doanh nghiệp thương mại.
3.1. Khái niệm Doanh nghiệp thương mại .
Doanh nghiệp thương mại ra đời do sự phân công lao động xã hội và chuyên môn
hóa trong sản xuất: một bộ phận những người sản xuất tách ra chuyên đưa hàng ra thị
trường để bán, dần dần công việc đó được cố định vào một số người và hình thành các đơn
vị các tổ chức kinh tế chuyên làm nhiệm vụ bán hàng hoá đó để thu lợi nhuận, những
người đó được gọi là thương nhân. Đầu tiên Doanh nghiệp thương mại được xem như là
Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các công việc mua bán, sau này do sự cạnh tranh và phát
triển đa dạng phức tạp hơn thì xuất hiện các dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại do
đó Doanh nghiệp thương mại được hiểu như là Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt
động thương mại.
Các hoạt động thương mại bao gồm:

Mua bán hàng hoá.
Dịch vụ thương mại (vận chuyển, đại lý..).
Xúc tiến thương mại (quảng cáo, hội chợ...).
Tùy theo từng mô hình tổ chức mà các Doanh nghiệp thương mại có thể được phân
thành các trung tâm, các xí nghiệp, các hãng. Bài luận văn của tôi đi sâu vào nghiên cứu
Doanh nghiệp thương mại là Công ty.
3.2. Các đặc điểm chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại.


+ Đối tượng lao động của Doanh nghiệp thương mại là các sản phẩm hàng hoá hoàn
chỉnh (hàng hóa đã kết thúc sản xuất đi vào lưu thôngđể tiêu dùng). Bởi vậy, ta thấy Doanh
nghiệp thương mại là trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, do vậy mà nhiệm vụ của
Doanh nghiệp thương mại không phải là việc tạo ra giá trị sử dụng, giá trị mới mà là thực
hiện giá trị thông qua trao đổi. Từ những đặc trưng này mà Doanh nghiệp thương mại có
vai trò đưa vào tiêu dùng những sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, nó đã hạn chế được những
hàng hoá kém phẩm chất và hàng giả.....
+ Trong quá trình kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại nhân vật trung tâm là
khách hàng. Nhiệm vụ của Doanh nghiệp thương mại là mua hàng hóa để bán lại, do vậy
nếu không có khách hàng thì Doanh nghiệp không thực hiện được chỉ tiêu H - T’ không
thực hiện được giá trị hàng hoá. Bởi vậy, mọi hoạt động của Doanh nghiệp thương mại đều
tập trung vào khách hàng, đáp ứng tối đa độ thỏa mãn nhu cầu. Điều này khác với Doanh
nghiệp sản xuất ở chỗ mọi hoạt động của Doanh nghiệp sản xuất đều hướng vào phục vụ
người lao động (giảm nhẹ cường độ lao động, đảm bảo an toàn lao động, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho người lao động...) và hướng vào sản phẩm (đảm bảo chất lượng
sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, sáng chế ra những sản phẩm mới....) để hàng hoá tung
ra thị trường được chấp nhận.
+ Doanh nghiệp thương mại là loại hình Doanh nghiệp phải sử dụng lao động sống.
Do vậy khách hàng là nhân vật trung tâm trong hoạt động kinh doanh nên nhu cầu của họ
là rất đa dạng. Nó không chỉ đơn thuần là việc bày hàng ra bán và thu tiền mà phải tiếp xúc
với khách hàng, chỉ dẫn, tư vấn nên cần phải có nhiều nhân viên hướng dẫn. Do đó dẫn

đến việc tốn nhiều chi phí tiền lương do sử dụng nhiều lao động làm giảm lợi nhuận kinh
doanh. Như vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải tiếp cận cách quản lý, phương thức,
công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, văn minh thương mại, hoạt động kinh
doanh có hiệu quả, nâng cao được lợi nhuận và uy tín cho Công ty.
+ Doanh nghiệp thương mại có đặc thù liên kết tất yếu với Doanh nghiệp khác theo
luật lệ thị trường. Trên phương diện tổ chức liên kết kỹ thuật, sự liên kết giữa các Doanh
nghiệp trong ngành thương mại có vẻ khá lỏng lẻo, không như ngành sản xuất. Nhưng xét
trên góc độ kinh tế xã hội chúng lại có sự liên kết với nhau khá chặt chẽ thông qua luật
thành văn và không thành văn. Sự liên kết này có tính phường hội hết sức chặt chẽ và


nghiêm minh. Liên kết này chống lại các thế lực cạnh tranh, co ép giá hay nói cách khác
không bị phá giá trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Tổ chức hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
Hiểu một cách đơn giản, Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp chủ yếu thực
hiện hoạt động mua bán hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và cho
xã hội. Do vậy ta có thể đưa ra mô hình sau:
Hàng

Hàng
DNTM

Người
bán

Tiền

Tiền

Cung ứng


Tiêu thụ

Người
mua

Như vậy có thể xem hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại qua hai
hoạt động đặc trưng là tiêu thụ hàng hoá và cung ứng hàng hoá.
4.1. Cung ứng hàng hoá.
Cung ứng hàng hoá là việc tổ chức nguồn hàng nhằm phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của Doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại được bắt đầu từ việc tổ chức
mua hàng, kết thúc là việc bán hàng. Như vậy muốn có hàng để bán trên thị trường thì
Doanh nghiệp luôn luôn phải được cung ứng hàng hoá.
Đối với Doanh nghiệp thương mại, việc tổ chức nguồn hàng nhằm tạo điều kiện vật
chất cho lưu chuyển hàng hoá, để lưu thông được tiến hành thường xuyên liên tục, góp
phần thực hiện chức năng và mục tiêu của Doanh nghiệp. Đồng thời còn thể hiện sức mạnh
kinh tế của Doanh nghiệp để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác trên thị trường.
Tổ chức nguồn hàng tạo điều kiện thoả mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về
mặt số lượng, chất lượng để nâng cao mức sống của mọi thành viên trong xã hội, đồng thời
góp phần ổn định giá cả thị trường.
Nếu tổ chức tốt cung ứng hàng hoá thì:
+ Luôn đảm bảo tính thường xuyên đều đặn của Doanh nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của Doanh nghiệp.
+ Thực hiện các mục tiêu các thành phần tham gia Doanh nghiệp.


Như vậy tổ chức nguồn hàng được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các Doanh nghiệp
thương mại nhằm tạo ra nguồn hàng dồi dào về mặt số lượng, cơ cấu đảm bảo, thời gian phù
hợp, giá cả hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường.

4.1.1. Mua hàng trong Doanh nghiệp thương mại.
Mua hàng nhằm cung cấp hàng cho Doanh nghiệp một cách thường xuyên đều đặn
và kịp thời. Với hoạt động mua hàng cần nắm chắc tình hình biến động cung cầu trên thị
trường nhằm dự đoán một cách chính xác số lượng cần mua. Nhờ đó mà Doanh nghiệp có
thể tránh được những trường hợp như mua quá tải dẫn đến ứ đọng hàng hóa... Hoặc mua ít,
không đủ lượng hàng bán làm gián đoạn thời gian lưu thông, ảnh hương tới kết quả hoạt
động kinh doanh của Doanh nghiệp.
4.2.2. Dự trữ hàng hoá.
Hoạt động này nhằm phục vụ bán hàng được liên tục, không bị gián đoạn kinh doanh.
Dự trữ hàng hoá là rất cần thiết nhưng nó lại mang tính hai mặt. Nếu dự trữ ít không đủ
hàng để bán dẫn đến tình trạng “sốt hàng “ thì lúc này sẽ mất đi một khoản lợi nhuận rất
lớn. Ngược lại, nếu dự trữ nhiều quá sẽ gây ứ đọng hàng dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn
không thu được hồi được vốn nhanh làm quá trình quay vòng vốn chậm và sẽ làm mất
thêm một khoản chi phí cho việc bảo quản hàng hoá. Vì vậy cần có số lượng và cơ cấu dự
trữ hợp lý, góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và quay vòng vốn.


4.2. Tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá là hoạt động đặc trưng, chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại, là
khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Tiêu thụ hàng hoá được thực hiện
thông qua hoạt động bán hàng của Doanh nghiệp nhờ đó hàng hoá được chuyển thành tiền,
thực hiện vòng chu chuyển vốn trong Doanh nghiệp và chuyển tiền tệ trong xã hội.
Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu và chiến
lược mà Doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy vòng quay của quá trình tái sản xuất, qua đó tái
sản xuất và tái sản xuất sức lao động được mở rộng góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Tiêu thụ hàng hoá theo nghĩa đầy
đủ là quá trình gồm nhiều hoạt động: Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng,
lựa chọn kênh phân phối, các chính sách và các hình thức bán hàng, tiến hành quảng cáo,
các hoạt động xúc tiến bán hàng... Nhưng ở bài này ta chỉ nghiên cứu những vấn để cơ bản
cụ thể như sau:

4.2.1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là những xuất phát điểm của kế hoạch kinh doanh của các
Doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là việc phân tích mặt lượng và mặt chất của thị
trường. Tức là cung, cầu thực thụ hoặc tiềm tàng của một sản phẩm, một dịch vụ để soản
thảo những quyết định thương mại. Nghiên cứu thị trường để làm rõ các yếu tố cấu thành
nên thị trường như cung, cầu, giá cả và cạnh tranh để tìm ra phương thức kinh doanh có
hiệu quả nhất. Nghiên cứu thị trường giúp phát hiện những cơ hội, tăng khả năng thành
công giảm được những nguy cơ rủi ro. Nghiên cứu thị trường thực hiện 3 mục tiêu cụ thể
hay nói cách khác là giúp Doanh nghiệp giải đáp được 3 câu hỏi: Kinh doanh cái gì? Kinh
doanh như thế nào? Đáp ứng nhu cầu của ai?
4.2.2. Xác lập kênh phân phối.
Kết quả tiêu thụ hàng hoá trong Doanh nghiệp thương mại phụ thuộc vào việc sử
dụng các hình thức phương pháp và nghệ thuật bán hàng, thiết lập và sử dụng hợp lý các
kênh phân phối, có chính sách đúng đắn thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của
Doanh nghiệp.
Việc lựa chọn kênh phân phối là do tính đặc thù của hàng hoá, tính chất thị trường,
tập quán, thói quen tiêu dùng và dựa vào quy mô, năng lực của Doanh nghiệp. Để từ đó
Doanh nghiệp thương mại xác lập kênh tiêu thụ dài hay ngắn, trực tiếp hay gián tiếp.


Phương thức bán hàng cũng được nghiên cứu và lựa chọn sao cho thích hợp đảm bảo
tiêu thụ hàng hoá nhanh nhất có thể. Doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức bán buôn,
bán lẻ hoặc cả hai.
4.2.3. Bán hàng.
Bán hàng là khâu cuối cùng của tiêu thụ hàng hoá, nó gồm 3 giai đoạn: chuẩn bị bán,
tiến hành bán và những công việc sau bán. Đây là khâu rất quan trọng liên quan đến quyết
định mua của khách hàng. Việc bán hàng là rất quan trọng, nhưng công việc sau bán hàng
cũng rất quan trọng. Đó là việc cung cấp những dịch vụ cho khách. Đây là yếu tố thu hút
khách hàng quay lại với Doanh nghiệp và đó là một vũ khí trong cạnh tranh.
Để tổ chức tốt tiêu thụ hàng hóa, Doanh nghiệp không những phải làm tốt mỗi khâu

công việc mà còn phải phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu kế tiếp giữa các bộ phận tham
gia trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tiêu thụ hàng hoá của Doanh nghiệp.
Mở rộng tiêu thụ hàng hoá là điều kiện cơ bản để Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả
kinh doanh, thực hiện tốt các mục tiêu của Doanh nghiệp.
II. thực chất hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Khái niệm về hiệu quả.
Trước tiên để hiểu được thấu đáo về hiệu quả kinh doanh thì ta hãy xem xét những lý
luận cơ bản của nó. Mặc dù đã có sự thống nhất về phạm trù hiệu quả kinh tế song lại có
rất nhiều những lý luận khác nhau do đứng trên góc độ nghiên cứu khác nhau. Ta có thể
nghiên cứu qua một số quan điểm sau đây:
- Có quan điểm cho rằng kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong
tiêu thụ hàng hoá. Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
của viên nghiên cứu kinh tế thuộc Viện LX (cũ) đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu
nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ
tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó.
Ngày nay quan niệm như vậy là không còn phù hợp. Vì theo quan điểm này thì hiệu quả
kinh tế chỉ đạt được trong tiêu thụ hàng hóa hay là tốc độ tăng thu nhập quốc dân không
phản ánh được bản chất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì hiệu quả kinh tế của Doanh
nghiệp đạt được là do nhiều yếu tố tạo thành có thể là do trình độ sử dụng nguồn lực của
Doanh nghiệp do tiết kiệm được chi phí hay là do mở rộng quy mô kinh doanh.... Hơn nữa,
kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí hoặc mở rộng các nguồn lực sản xuất. Nếu


cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này là chưa hợp
lý.
- Nhưng có quan điểm khác cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ
tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi các nhịp độ tăng
các chỉ tiêu đó cao nhưng nếu như chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng
nhanh hơn thì sao? Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với năm trước. Các yếu
tố bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế có những ảnh hưởng khác nhau, việc chọn

năm gốc có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau thì lại có mức
hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu. Theo quan điểm này đã phần nào đề
cập tới mối tương quan so sánh giữa các thời kỳ để thấy được hiệu quả kinh tế. Nhưng
chưa đầy đủ chưa nói được cụ thể thế nào là hiệu quả. Do vậy trong quá trình nghiên cứu
đứng trên góc độ thương mại tôi thấy rằng hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh là sự
mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà Doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để
đạt được lợi ích đó.
Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động của mình
trong từng thời kỳ. Đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là mục tiêu kinh tế của
chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để đạt các mục tiêu đó với chi phí
thấp nhất. Đó là hiệu quả.
- Hiệu quả của Doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận:
+) Hiệu quả kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
+) Hiệu quả kinh tế: Thực chất của hiệu quả kinh tế là thực hiện yêu cầu của quy
luật tiết kiệm thời gian nó biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của Doanh nghiệp để
thực hiện các mục tiêu đã xác định. Quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật tồn tại trong
nhiều phương thức xã hội khác nhau. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật
đó. Nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất. Vậy tóm lại, hiệu quả kinh tế
là phạm trù khách quan phản ánh trình độ và năng lực quản lý đảm bảo thực hiện có kết
quả cao những nhiệm vụ kinh tế xã hội đặt ra trong từng thời kỳ với chi phí nhỏ nhất. Hiệu
quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các Doanh nghiệp.
Xét trên góc độ tuyệt đối thì hiệu qủa kinh tế được thể hiện thông qua sự chênh lệch
giữa kết quả và chi phí.


Công thức:
HQ = KQ - CF
Trong đó: HQ là hiệu quả đạt được trong một thời kỳ nhất định.
KQ là kết quả đạt được trong thời kỳ đó.

CF là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả.
Đây là hiệu quả tuyệt đối cho thấy mức chênh lệch giữa kết quả và chi phí, mức
chênh lệch này càng cao thì hiệu quả càng lớn. Cách so sánh này rất đơn giản và dễ tính
nhưng nó chỉ cho ta thấy một cách tổng quát chung nhất mà nó không đánh giá được chất
lượng hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Thứ hai là không so sánh được giữa các
thời kỳ với nhau, không đáp ứng được yêu cầu lý luận ta nghiên cứu ở phần trên. Thứ ba là
không phản ánh được tiềm năng nội lực để nâng cao hiệu quả.Thứ tư là khó tách biệt được
giữa hiệu quả và kết quả trong tính toán.
- Xét trên góc độ tương đối thì hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua tỉ lệ so sánh
giữa kết quả với chi phí theo công thức:
HQ =

KQ
CF

Cách tính này cụ thể hơn so với cách tính trên. Nó phản ánh được hiệu quả ở mọi góc
độ khác nhau. Tuy nhiên cách đánh giá này khá phức tạp nên đòi hỏi phải có quan điểm
thống nhất khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả.
Như vậy suy cho cùng khi đánh giá hiệu quả của một Doanh nghiệp thì ta cần phải
xem xét cả hai mặt đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội một cách đồng bộ. Vì hiệu
quả kinh tế không đơn thuần là các thành quả kinh tế vì trong kết quả và chi phí kinh tế có
các yếu tố nhằm đạt hiệu quả xã hội. Tương tự hiệu quả xã hội tồn tại phụ thuộc vào kết
quả và chi phí nảy sinh trong hoạt động kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả xã hội là một đại lượng phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt
được đối với xã hội và môi trường. Thực chất đó là sự tác động tích cực hay tiêu cực từ
các hoạt động của con người trong đó có các hoạt động kinh doanh. Hiệu quả xã hội
thường được biểu hiện thông qua mức độ thoả mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của



người dân, cải thiện điều kiện lao động, nghỉ ngơi, nâng cao trình độ nhận thức văn minh
cho người lao động, cải tạo và bảo vệ môi sinh góp phần tích cực cho sự bền vững xã hội.
- Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau như hai mặt
của một vấn đề. Hai mặt này phản ánh những khía cạnh khác nhau của một vấn đề kinh
doanh nhưng lại không tách rời nhau. Không thể có hiệu quả xã hội mà không có hiệu quả
kinh tế và ngược lại hiệu quả kinh tế là cơ sở nền tảng cho hiệu quả xã hội. Bất kỳ một quá
trình hiện tượng kinh tế nào cũng bao hàm hai mặt: Tính xã hội và tính kinh tế. Do vậy
chúng ta cần phải xem xét tính hiệu quả xã hội của Doanh nghiệp. Bàn về mối quan hệ
khăng khít giữa hai phạm trù này V.I.Lênin đã viết: “Tôi cương quyết không hiểu sự khác
biệt này có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ có thể có tính kinh tế bên ngoài xã hội “.
Trong kinh doanh thương mại hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh sự đóng góp của
Doanh nghiệp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân
biểu hiện thông qua việc thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động, góp
phần làm cho sự lưu thông hàng hoá được thuận tiện, lành mạnh.
2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt
được từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần
phân biệt rõ giữa hiệu quả và kết quả.
- Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà Doanh nghiệp thu
được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều
đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh kết quả cần đạt
được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của Doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong
đếm như sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận.... và cũng có thể là các đại lượng phản
ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm.
Nhưng đối với Doanh nghiệp thì kết quả đó không cho thấy trình độ quản lý, trình độ sử
dụng các yếu tố đầu vào của Doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm hiệu quả.
- ở công thức trên ta thấy hiệu quả kinh doanh bao gồm tất cả kết quả và chi phí đều
được tính bằng cả hai loại đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo bằng đơn vị hiện vật thì
khó xác định do tính không đồng nhất về đơn vị đo lường nên người ta thường tính hiệu
quả theo đơn vị giá trị được biểu hiện bằng tiền tệ.



Như vậy hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với
nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao
hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo quan trọng là “đồng tiền “.
Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả lao động xã hội. Nó
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó cũng là thước
đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội.
Mở rộng hơn lý luận về hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại quốc tế ta
thấy rằng:
Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định
để chúng ta tham gia vào phân công lao động quốc tế nhằm thâm nhập vào thị trường nước
ngoài.
Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu sẽ đem lại lợi
ích cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng
giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân. Mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ thu
được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài tạo thêm tích luỹ cho quá trình sản xuất
trong nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân trong nước.
3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp thương mại.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị
trường như hiện nay chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Hoạt động sản xuất
kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại là một hoạt động rất đa dạng và phong phú. Vì
vậy muốn đánh giá tốt các vấn đề về hiệu quả kinh doanh thì phải phân tích cụ thể các chỉ
tiêu vì thông qua các chỉ tiêu đó người ta có thể rút ra được tính hiệu quả kinh doanh của
Doanh nghiệp. Khi phân tích và đánh giá hiệu quả phải căn cứ vào mục tiêu của Doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động của mình các nhà Quản trị Doanh nghiệp thường đạt ra
nhiều mục tiêu hoạt động đó là các kết quả mà Doanh nghiệp phải phấn đấu để đạt được.

Như vậy mục đích chính trong kinh doanh của Doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận, lợi nhuận
là số tiền thu được lớn hơn chi phí bỏ ra. Nhưng lợi nhuận ở đây chưa phản ánh đầy đủ
được lợi ích mà Doanh nghiệp đạt được(đối với nền kinh tế quốc dân). Đối với một Doanh


nghiệp lợi nhuận là một tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế. Nhưng ở đây khi nói đến
hiệu quả của một Doanh nghiệp là phải nói đến hai mặt tồn tại song song đó là hiệu quả xã
hội và hiệu quả kinh tế. Do đó đối với hiệu quả kinh tế thì lợi nhuận là một phần của giá trị
mới mà Doanh nghiệp tạo ra được trong kinh doanh – Giá trị gia tăng .
Vậy đối với hiệu quả xã hội thì chính bộ phận giá trị gia tăng đó dùng để trả lương
cho người lao động, hình thành nên nguồn thu nhập cho xã hội, là bộ phận quan trọng
trong thu nhập quốc dân như: nộp thuế, trả lãi tiền vay...
Bởi vậy, khi phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế của các Doanh nghiệp thì phải đặt nó
trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp với hiệu quả của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
Bất cứ một Doanh nghiệp nào muốn thành đạt trong sự nghiệp kinh doanh đều phải
quan tâm đến năng suất, chất lượng và hiệu quả. Song làm thế nào để đạt được điều đó?
Nâng cao hiệu quả kinh doanh đó chính là việc đưa ra các biện pháp hợp lý dựa trên
việc nghiên cứu môi trường kinh doanh và thực trạng nhằm đưa hoạt động kinh doanh của
Doanh nghiệp nghiệp phát triển. ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở nước ta đã xuất
hiện không ít những nhà Doanh nghiệp đầy tài năng. Mỗi Doanh nghiệp đều có những triết
lý phong cách quản lý riêng. Nhưng tất cả họ đều chung một mục tiêu đó là: Phát triển
không ngừng Doanh nghiệp của mình. Vì vậy, họ luôn tìm mọi cách để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Bởi vậy, hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng hoạt động
kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của Doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao
Doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư mua sắm trang
thiết bị. Hơn nữa Doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao, sẽ thực hiện đầy đủ hơn nữa
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và người lao động.
- Đối với Nhà nước: Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp Doanh nghiệp thực hiện

đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước bằng các khoản thuế, lệ phí... Như chúng ta đã
biết mỗi Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế và 80% ngân sách Nhà nước là lấy từ
thuế, do đó để có một xã hội phồn vinh dân giàu nước mạnh thì việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp là điều kiện không thể thiếu.
- Đối với bản thân Doanh nghiệp: Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện
cơ bản để Doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình trong suốt thời gian hoạt động, nó tạo


điều kiện để mở rộng quy mô, tăng lợi nhuận, tăng uy tín cho Doanh nghiệp, tăng vị thế
cạnh tranh của Doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc
của Doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
- Đối với người lao động: Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp họ đảm bảo công ăn
việc làm, công việc ổn định tăng thu nhập, tạo điều kiện cải thiện đời sống tinh thần vật
chất, điều kiện làm việc được tốt hơn và đạt được những vinh quang trong nghề nghiệp.
- Đối với người cung ứng: Cũng nhận được một phần lợi ích thông qua hoạt động
cung ứng cho Doanh nghiệp góp phần tăng cường được các mối quan hệ bạn hàng, hạn
chế được những rủi ro nhờ các mối liên kết kinh doanh tin cậy và bền vững.
Tóm lại, việc nghiên cứu hiệu qủa kinh doanh và nắm bắt được các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh là tiền đề tốt cho mỗi Doanh nghiệp thương mại tự đánh
giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình một cách thực chất và định hướng cho tương
lai đúng đắn nhằm quyết tâm khai thác tối đa mọi tiềm lực để nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Trên cơ sở tăng cường tích luỹ để đầu tư tái sản xuất kinh doanh cả chiều sâu lẫn
chiều rộng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho toàn nền kinh tế quốc dân.
* ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại.
+ Đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp: Kinh doanh là một quá trình
bao gồm nhiều khâu từ nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường cho đến việc phân phối tiêu
thụ hàng hoá và dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì nhà lãnh đạo cần nhận thức
mình nên kinh doanh gì? Kinh doanh như thế nào? Với chi phí là bao nhiêu? Lợi nhuận
thu về là bao nhiêu?.... sẽ không có vấn đề gì nếu nguồn lực là vô hạn. Người ta có thể sử
dụng nguồn lực một cách bừa bãi và lãng phí. Nhưng trên thực tế, nguồn lực là một phạm

trù hữu hạn trong khi đó nhu cầu của con người là vô hạn. Do vậy, của cải đã khan hiếm
lại càng khan hiếm hơn theo cả nghĩa tương đối lẫn nghĩa tuyệt đối. Từ đó bắt buộc con
người phải tìm những phương án kinh tế tối ưu.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc nhường lại cho
sự phát triển kinh tế theo chiều sâu để đạt được điều đó là vào việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
Như vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là việc sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý
nhưng kết quả đem lại là cao nhất. Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm việc nâng cao
hiệu quả kinh doanh lại càng trở nên quan trọng đối với bất kỳ loại hình Doanh nghiệp


nào. Tuy nhiên, sự lựa chọn mục tiêu kinh tế của các Doanh nghiệp trong các cơ chế kinh
tế khác nhau là không giống nhau. Cụ thể là: Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các
Doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu là hoàn thành kết hoạch Nhà nước giao cho, còn trong
nền kinh tế thị trường như hiện nay mục tiêu của các Doanh nghiệp là không những hoàn
thành kế hoạch một cách suất sắc mà còn đem lại lợi nhuận cao.
Mặt khác, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện giúp cho các Doanh nghiệp bảo
toàn và phát triển vốn kinh doanh thực hiện tốt các mục tiêu và nhiệm vụ kinh doanh của
Doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là một yếu tố phát triển bền vững. Vì vậy,
nó mang ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
+ Đối với sự phát triển xã hội: Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ
góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế chính trị của đất nước: Tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng như các tệ nạn xã hội.
Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển văn minh tiêu dùng từ đó phát triển văn hoá xã hội. Từ
đó tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội của Doanh nghiệp
cũng như các chủ trương chính sách mà Đảng và Nhà nước đề ra.
III. Hệ thống chỉ tiêu đo lường đánh giá hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệ p
thương mại.
1. Yêu cầu đối với hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Để đảm bảo tính đúng đắn và tính thống nhất của việc đánh giá và đo lường hiệu quả

hoạt động kinh doanh người ta đưa ra một hệ thống chỉ tiêu đánh giá và đo lường hiệu quả
hoạt động kinh doanh. Về phương diện tính toán thống kê chỉ tiêu đánh giá và đo lường là
chỉ tiêu tương đối. Nó phản ánh một đơn vị đầu vào thì sẽ cho ra bao nhiêu đơn vị đầu ra.
Mức độ hiện tượng mà ta cần nghiên cứu trình độ phổ biến được đạt ở tử số, còn mức độ
của hiện tượng có quan hệ được đặt ở mẫu số. Kết quả kinh doanh của hoạt động kinh
doanh gồm nhiều đại lượng và đầu vào của nó cũng có nhiều chỉ tiêu. Vì vậy hiệu quả kinh
doanh được xác định bằng một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu
cầu sau:
+ Các chỉ tiêu của hệ thống phải phản ánh hiệu quả kinh doanh của đơn vị một cách
tổng quát cũng như riêng biệt từng yếu tố tham gia vào hoạt động kinh doanh. Do đó trong
hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận.


+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải đảm bảo tính hệ thống và tính
toàn diện. Tính toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ các chỉ tiêu phải nêu được các yếu tố, các
khâu, các bộ phận trong quá trình kinh doanh.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải thể hiện mối quan hệ giữa
kết quả kinh tế và việc thực hiện chức năng của đơn vị.
+ Các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải có sự liên hệ với nhau, có phương
pháp tính toán cụ thể thống nhất. Các chỉ tiêu phải có phạm vi sử dụng nhất định của công
tác đánh giá.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải hình thành trên cơ sở những
nguyên tắc chung có hiệu quả, nghĩa là phản ánh được trình độ sử dụng lao động sống và
lao động vật hoá thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí. Trong đó, các đại lượng
kết quả và chi phí phải có khả năng đo lường được thì mới có thể so sánh và tính toán
được.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đáng giá hiệu quả phải đảm bảo kế hoạch hoá được
kết quả của Doanh nghiệp, phải so sánh và đánh giá giữa kế quả đạt được với kế hoạch đề
ra để từ đó có biện pháp cải thiện thích hợp nếu như kết quả không được như mong muốn.
2. Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả kinh doanh.

Để đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp ta thiết lập chỉ tiêu trên
cơ sở phân loại hiệu quả.
2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp.
Là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực của Doanh nghiệp nghĩa là trong
một thời gian nhất định Doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra( doanh thu
bán hàng) trên một đồng chi phí đầu vào bao gồm trị giá vốn hàng bán và chi phí kinh
doanh để đạt được doanh thu đó.
Công thức biểu diễn:
M
H
Q

=

GV +
F

Trong đó: HQ là hiệu quả kinh tế.
M là doanh thu thuần đạt được trong kỳ.


GV là trị giá vốn hàng hoá đã tiêu thụ.
F là chi phí kinh doanh đã bỏ ra để đạt được doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này càng lớn nghĩa là trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình
hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại chỉ tiêu này càng nhỏ thì trình độ sử dụng các
yếu tố chi phí sẽ kém hiệu quả.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
HQLN(Tỷ suất lợi

LN


=

nhuận)

M

*100

Trong đó: LN: Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ(Lợi nhuận trước thuế)
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu
quả kinh tế của doanh nghiệp càng cao.
- Ngoài ra còn có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí.
HQL

LN

=

GV + F

N

*100

Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận của doanh nghiệp thu được trên một đồng chi
phí bỏ ra.
2.2. Chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả bộ phận.
2.2.1. Hiệu quả sử dụng lao động: Đượcđo lường và đánh giá bằng chỉ tiêu năng suất

lao động.
W

=

M
NV

Trong đó: W: năng suất lao động của một nhân viên.
NV: số nhân viên bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả có ích của một lao động trong quá trình hoạt động kinh
doanh, nó được biểu hiện bằng doanh thu bình quân của một lao động hoặc lượng hao phí
lao động bình quân cho một đơn vị mức lưu chuyển doanh thu. Năng suất lao động là một
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả lao động. Qua chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá một
cách chung nhất hiệu quả sử dụng lao động trong toàn đơn vị. Cũng từ chỉ tiêu năng suất lao
động trong kỳ ta có thể so sánh với năng suất lao động ở kỳ trước hoặc năng suất lao động ở


các đơn vị khác trong ngành để đánh giá được chất lượng công tác sử dụng lao động ở đơn
vị. Năng suất lao động của Công ty chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố thay đổi theo từng thời
kỳ. Nên để đánh giá chính xác chất lượng sử dụng lao động ta cần loại trừ các nhân tố ảnh
hưởng lượng hoá được.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương.
Công thức biểu diễn:
M

HQT

=
QL


L

Trong đó: QL: Tổng quỹ lương của Công ty trong một kỳ kinh doanh.
M: Doanh thu thuần đạt được trong kỳ.
Chỉ tiêu này trong một thời kỳ nhất định đơn vị bỏ ra một đồng chi phí tiền lương thì
thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao thì lao động sử dụng càng có
hiệu quả.
Ngoài ra, ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất tiền lương để đánh giá hiệu quả sử dụng lao
động sống.
Công thức:
Tỷ suất tiền lương

QL

=

M

* 100

Tỷ suất tiền lương là tỷ lệ % so sánh giữa tổng quỹ lương và tổng mức doanh thu
trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này cho biết để thực hiện 100 đồng tổng mức doanh thu thì
phải chi phí bao nhiêu đồng để trả lương, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng lao
động sống càng tốt.
2.2.3. Hiệu quả sử dụng chi phí: Chỉ tiêu này phản ánh mức doanh thu đạt được
trên một đồng chi phí bỏ ra. Đây là chỉ tiêu thuận nghĩa là HQF càng cao thì hiệu quả sử
dụng chi phí càng cao.
Công thức:
HQ

F

M
=
F

Trong đó: HQF : Hiệu quả sử dụng chi phí.


F: Chi phí kinh doanh trong kỳ để đạt được doanh thu thuần.
* Hiệu quả sử dụng chi phí còn có thể đo lường bằng chỉ tiêu tỷ suất chi phí (ký hiệu
F’) ta có:
F


F
=

* 100
M

Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu cần có bao nhiêu đồng chi phí. Đây
là chỉ tiêu nghịch có nghĩa là tỷ suất chi phí càng cao thì hiệu quả sử dụng chi phí càng
thấp và ngược lại.
Ngoài ra, hiệu quả sử dụng chi phí có thể được đánh giá bằng chỉ tiêu lợi nhuận thuần
trên chi phí kinh doanh. Đây là chỉ tiêu phản ánh Doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận thuần khi bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh.
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần trên chi phí kinh
doanh


Lợi nhuận thuần
=

* 100
F

2.2.4. Hiệu quả sử dụng vốn:
Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại là số tiền ứng trước về các tài sản cần
thiết nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của kinh doanh trong kỳ, bao gồm tiền ứng cho
tài sản lưu động và tài sản cố định. Thông thường hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua
hai bước:
Bước1: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung: Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của
Doanh nghiệp được đánh giá bằng hai chỉ tiêu.

HQ
V

M
=
V

L
HQ
V

= N
V

Trong đó: V là số vốn bình quân sử dụng trong năm và được tính bằng công thức
bình quân điều hoà.



V1/2 + V2 + V3 + ................. +
V

Vn/2

=

n-1
Bước2: Đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn.
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Được đánh giá bằng chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
M
L

VLĐ

=

N =
VLĐ

m

Trong đó: VLĐ: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
L: Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ.
N: Số ngày chu chuyển vốn lưu động trong kỳ.
m: Doanh thu thuần bình quân một ngày.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Được đánh giá bằng chỉ tiêu sức sản xuất vốn cố

định.
Sức sản xuất của vốn cố định

=

M
VCĐ

Trong đó: VCĐ là vốn cố định bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định được sử dụng trong kỳ mang lại bao
nhiêu đồng doanh thu.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể được đánh bằng chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận
trên vốn cố định.
LN
Sức sinh lời của vốn cố định

=

* 100
VCĐ

IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Ta có thể nhận thấy Doanh nghiệp thương mại như là một thể tồn tại trong môi
trường kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan
tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố
khác nhau. Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết Doanh


nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và đến hiệu quả kinh
doanh nếu không làm được điều này thì Doanh nghiệp không thể biết được hiệu quả hình

thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Việc kinh doanh tiến triển tốt phụ thuộc vào sự am
hiểu tường tận các điều kiện môi trường mà Doanh nghiệp phải đương đầu. Có rất nhiều
yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh, nhưng chúng ta có thể nghiên cứu môi trường
tổng quát của Doanh nghiệp thành hai nhân tố chính: Nhân tố bên trong Doanh nghiệp
(hoàn cảnh nội bộ) và nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp (môi trường vĩ mô và môi trường
tác nghiệp). Sau đây ta đi vào phân tích cụ thể tác động theo 2 nhóm này.
1. Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp.
Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp chính là những nhân tố thuộc hoàn cảnh nội
bộ của một Doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp phải cố gắng phân tích một cách cặn kẽ các
yếu tố nội bộ đó nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của Doanh nghiệp qua đó xác
định được năng lực và những lợi thế cạnh tranh của Doanh nghiệp. Trong guồng máy hoạt
động chung của Doanh nghiệp mỗi nhân tố đóng một vai trò nhất định mà nếu thiếu nó thì
toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả. Dưới đây tôi xin đưa ra một số nhân tố ảnh
hưởng chính đến hiệu quả kinh doanh:
1.1. Mặt hàng kinh doanh và cơ cấu mặt hàng kinh doanh.
Luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiêu thụ. Câu hỏi đầu tiên khi Doanh nghiệp
bắt tay vào kinh doanh là Doanh nghiệp sẽ bán cái gì? Cho đối tượng nào? Đưa ra thị
trường những sản phẩm nào? Nên tập trung vào một loại hàng hay đưa ra nhiều loại hàng?
Và cách thức đưa ra thị trường như thế nào? Hàng hoá là đối tượng kinh doanh của Doanh
nghiệp thương mại. Việc chọn đúng mặt hàng kinh doanh có ý nghĩa quan trọng to lớn đối
với sự thành công hay thất bại của Doanh nghiệp. Mặt hàng kinh doanh là lời giải đáp cho
Doanh nghiệp về một nhu cầu đã được lượng hoá thông qua nghiên cứu nhu cầu của
người tiêu dùng và thị trường. Cần phải nhận thức được rằng mọi mục tiêu của Doanh
nghiệp chỉ có thể đạt được nếu hàng hoá mà họ lựa chọn tiêu thụ được.
1.2. Yếu tố nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự thành công của Doanh
nghiệp. Con người là tài sản có giá trị nhất của Doanh nghiệp và là dạng rất linh hoạt của
vốn. Con người thu thập xử lý dữ liệu thông tin để hoạch định mục tiêu phân tích bối cảnh
và lựa chọn thực hiện các kết hoạch của Doanh nghiệp. Như vậy lực lượng lao động của



×