Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản VN trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.49 KB, 28 trang )

Lời nói đầu
Hội nhập kinh tế và tự do hoá thơng mại là xu hớng tất yếu và là vấn đề
bất khả kháng của mọi quốc gia nếu không muốn nền kinh tế của nớc mình kém
phát triển và tụt hậu. Tuy nhiên khi hoà nhập để tránh những cú xốc cho sản
xuất kinh doanh trong nớc, mỗi quốc gia phải tuỳ thuộc vào thực lực của nền
kinh tế mà định ra tiến trình mức độ và thời điểm hoà nhập của riêng mình.
Những năm vừa qua dù chúng ta mở cửa ở mức độ hạn chế, một số ngành hàng,
ngành sản xuất vẫn đợc bảo hộ, song sự cạnh tranh diễn ra khá gay gắt; sự trao
đảo về giá cả lợng hàng của gạo cà phê cao su...là minh chứng của sự cạnh tranh
này. Tạo ra hiệu quả cao nhất cho các mặt hàng, giảm thiểu thua thiệt trong sự
cạnh tranh là công việc to lớn phức tạp đang đợc Đảng và Nhà nớcđang rất quan
tâm.
Xuất phát từ thực tế đất nớc ta đợc thiên nhiên u đãi về thời tiết, khí hậu
nhiệt đới, đất đai phì nhiêu, nguồn nhân lực dồi dào, nhân dân ta cần cù chịu
khó. Nông sản là ngành hàng có tính chiến lợc trong kế hoạch phát triển kinh tế
hiện nay. Vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng phải đợc đặt lên
hàng đầu.
Với kiến thức đợc học tập và nghiên cứu tại trờng, trên cơ sở một số tài
liệu nghiên cứu đề tài của em là: Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
của nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập, hy vọng sẽ đóng góp đợc
những giải pháp để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng.
Qua đây em xin chân thành biết ơn cô giáo GV- Phan Tố Uyên đã tận tình
giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài.

Đề tài: Biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nông
sản Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
I/

Hội nhập và năng lực cạnh tranh:

1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế


a) Khái niệm:
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động
và hợp tác sản xuất vợt ra khỏi biên giới quốc gia, vơn tới quy mô toàn thế giới,
đạt trình độ và chất lợng mới.
1


Đây là xu thế tất yếu của kinh tế thế giới và là hệ quả của phát triển lực lợng sản xuất đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ.
Đặc trng nổi bật cuả toàn cầu hoá kinh tế là kinh tế thế giới tồn tại và phát
triển nh một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tơng
tác với nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia vào toàn cầu
hoá kinh tế các quốc gia hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội. Vẫn là những
chủ thể tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đờng phát triển của mình.
Toàn cầu hoá làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào vốn, kỹ thuật, công
nghệ, nguyên liệu và thị trờng. Đến nay toàn cầu hoá đã thu hút các quốc gia ở
các châu lục, có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời. Cuộc sống ngày
càng chứng tỏ không một nớc nào dù lớn hay giầu có đến đâu, cũng không thể
tự mình sản xuất đợc những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu
của mình. Toàn cầu hoá, mặc dù tới nay vẫn có nhiều quan điểm trái ngợc nhau
xong rõ ràng là một xu thế phát triển của thời đại không thể khác đợc. Chỉ
những quốc gia nào bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội và vợt qua thử
thách mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khớc từ toàn cầu hoá tức là tự
gạt mình ra khỏi lề của sự phát triển.
Từ những năm 80 của thế kỷ này xu hớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế diễn ra ở mức độ cao, tác động bởi các nhân tố mới.
- Công nghệ thông tin với những tác động rất sâu sắc và toàn diện đến
sản xuất kinh doanh, và mọi lĩnh vực hoạt động của con ngời (giáo dục, văn
hoá,...).
- Thị trờng tài chính toàn cầu hoạt động 24 giờ/ngày, đầu t theo lợi nhuận
ngắn hạn. Bên cạnh những tác động tích cực cũng phát sinh nhiều vấn đề cha

kiểm soát đợc.
- Các công ty xuyên quốc gia (TNC Transnational corporaration) có vốn,
công nghệ, thị trờng.
Và những tác nhân mới:
- Các tổ chức kinh tế khu vực: E.U, ASEAN, APEC, NAFTA,
MERCOSUR, ...
- Các tổ chức kinh tế quốc tế mà quan trọng nhất là WTO.
- Các tổ chức phi chính phủ (NGOS) có vai trò ngày càng tăng về các vấn
đề xã hội, môi trờng.
b) Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Toàn cầu hoá kinh tế đa đến hệ quả tất yếu là các quốc gia phải mở cửa để
hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào xu
thế này, từng bớc ký kết các hiệp định xong phơng, khu vực và đa phơng. Đến
nay ta đã là thành viên của tổ chức khu vực thơng mại tự do ASEAN (AFTA) và
của diễn đàn kinh tế Châu á-Thái Bình Dơng (APEC) là thành viên sáng lập của
ASEM ký kết hiệp định thơng mại song phơng với Hoa Kỳ, chuẩn bị ra nhập tổ
chức thơng mại thế giới (WTO). Các quan hệ thơng mại với Nhật Bản, EU, Nga,
Trung Quốc, ...tiếp tục đợc mở rộng.
Là một nớc đang phát triển tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế nớc ta
sẽ có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển:

2


Tạo khả năng mở rộng thị trờng ra nớc ngoài, có thể bổ xung cho
những hạn chế của thị trờng nội địa, trên cơ sở các hiệp định thơng mại đã ký
kết với các nớc, trong khu vực và toàn cầu. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết
trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ ở nớc ta sẽ
tiêu thụ trên toàn bộ thị trờng các nớc ASEAN với doanh số trên 500 triệu ngời
và GDP là 700 tỷ đôla. Nếu ra nhập WTO ta sẽ đợc hởng những u đãi cho các nớc đang phát triển theo quy chế tối hậu quốc trong quan hệ với 132 nớc thành

viên của tổ chức này. Nh vậy hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nớc một cách dễ
dàng hơn.
Cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn đầu t từ nớc ngoài tham ra vào
hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trờng nớc ta đợc mở rộng, điều này sẽ
hấp dẫn các nhà đầu t nớc ngoài. Họ sẽ chuyển vốn công nghệ kỹ thuật vào nớc
ta - tiếp thu các thành tựu khoa học hiện đại của thế giới, sử dụng lao động và
tài nguyên vốn có của nớc ta, làm ra các sản phẩm tiêu thụ trên thị trờng khu
vực và thế giới với các u thế mà nớc ta có. Cơ hội mở rộng thị trờng kéo theo cơ
hội thu hút vốn đầu t.
Tranh thủ đợc kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nớc đi trớc để đẩy
mạnh ytiến trình CNH - HĐH, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây
dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đờng khai thông thị trờng nớc ta
tạo ra môi trờng đầu t hấp dẫn và có hiệu quả, qua đó công nghệ kỹ thuật mới có
đợc điều kiện du nhập vào nớc ta đồng thời tạo cơ hội cho chúng ta lựa chọn kỹ
thuật công nghệ nớc ngoài nhằm phát triển năng lực kỹ thuật - công nghệ quốc
gia.
Tạo cơ hội mở rộng giao lu nguồn lực của nớc ta với các nớc, có thể
khai thác các nguồn nguyên liệu mới khan hiếm rẻ hơn cho phép các công ty
chọn đợc nơi sản xuất với chi phí thấp nhất và đạt hiệu quả quy mô.
Xong bên cạnh những cơ hội trên hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nớc ta
trớc những khó khăn và thách thức.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thơng mại
tức là chấp nhận t cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nớc. Nhng
hiện nay nớc ta còn lạc hậu xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu
nhập bình quân) so với nhiều nớc trong các tổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham
gia. Chẳng hạn, so với các nớc tham gia vào AFTA thu nhập bình quân đầu ngời
của ta cha bằng 1/3 của Indônêxia, Philipin; 1/9 Thái Lan; 1/15 Malaixia và
1/100 của Singapore. Đây là một thách thức bất lợi lớn đòi hỏi chúng ta phải nỗ
lực nhiều.
Trên thị trờng nội địa do kỹ thuật, công nghệ và trình độ quản lý của nớc

ta còn yếu kém nên nhiều sản phẩm của ta thiếu sức cạnh tranh với các sản
phẩm cùng loại về chất lợng, giá cả ví dụ: giá sắt thép trong nớc sản xuất bình
quân 300 đola/1tấn nhng nhập khẩu chỉ 285 đola/1tấn giá xi măng Việt nam 840
ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu của Thái Lan chỉ 640 nghìn đồng/ tấn.
Trên thị trờng thế giới ta xuất khẩu chủ yếu là các nguyên liệu và sản
phẩm sơ chế nh dầu thô, gạo, cà phê, cao su, ...sản phẩm ít chế biến, sức cạnh

3


tranh yếu trong khi đó giá của nó bấp bênh hay bị tác động bất lợi cho xuất
khẩu.
Tham gia vào toàn cầu hoá tức là ta chấp nhận những chấn động có thể
xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Trong khi năng lực quản lý của nớc ta
còn yếu kém, hệ thống tài chính ngân hàng lạc hậu, tệ tham nhũng và quan liêu
hoành hành, không chủ động phòng vệ tích cực nền kinh tế của chúng ta khó
tránh khỏi sụp đổ.
Nh vậy hệ quả tất yếu mở rộng thơng mại, thúc đẩy tăng trởng khoa học
công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, xoá nhà biên giới quốc gia cạnh tranh trở nên
thờng xuyên và rất quyết liệt.
2. Năng lực cạnh tranh
Tất nhiên mỗi sự lựa chọn đều có mặt đợc và mặt mất của nó. Chúng ta
không thể khẳng định xu thế hội nhập là tối u nhất đối với Việt Nam, xong cũng
không thể phủ nhận vai trò to lớn của nó. Trớc cơ hội thách thức đặt ra, chúng ta
phải đón bắt cơ hội, phát huy nội lực, vợt qua mọi thử thách. Trong bề bộn các
vấn đề, thì cạnh tranh của Việt Nam đợc đặt lên hàng đầu. Song không phải
ngâũ nhiên gần đây nhiều cuộc hội thảo diễn ra, mà phần lớn nội dung đều đề
cập tới sự hạn chế trong khả năng cạnh tranh của Việt Nam và biện pháp nâng
cao nó nh là Toạ đàm bàn tròn: Làm thế nào để nâng cao cạnh tranh của hàng
hoá dịch vụ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập - 30/3/2001, Hà Nội.

Cuộc gặp gỡ giữa thủ tớng Phan Văn Khải với các tham tán thơng mại ở
nớc ngoài cũng nh đối với doanh nghiệp Việt Nam để giải quyết các bức xúc,
vấn đề khó khăn từ phía các doanh nghiệp.
a) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Tính cạnh tranh, đầu tiên là một khái niệm trong lý thuyết tổ chức công
nghiệp, hiện nay nó đã mở rộng đến các ngành sản xuất và tổng thể cả nền kinh
tế.
Báo cáo toàn cầu năm 2000 về cạnh tranh của diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) đã định nghĩa cạnh tranh đối với quốc gia là một bộ phận các thể chế và
chính sách kinh tế ủng hộ những tỷ lệ tăng trởng kinh tế cao trong trung hạn.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế OECD đã định nghĩa cạnh tranh kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và
quốc gia, nh sau: khả năng của các doanh nghiệp ngành quốc gia và vùng trong
việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Hàng năm kể từ năm 1997, WEF là tổ chức quốc tế quy tụ các chuyên gia
kinh tế hàng đầu trên thế giới có uy tín trong việc nhận xét đánh giá tính cạnh
tranh quốc tế của các quốc gia đã đa ra bản báo cáo về tính cạnh tranh toàn cầu
tập trung vào 59 quốc gia.

4


b) Các chỉ tiêu cạnh tranh:
Theo WEF thì tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây đã giảm sút nghiêm trọng. Trong báo cáo năm 2000, WEF dùng
hai chỉ số chính để đánh giá tính cạnh tranh
1/ Chỉ số tính cạnh tranh: dùng để đo lờng các nhân tố tạo sự tăng trởng
trong tơng lai của nền kinh tế
2/ Chỉ số cạnh tranh hiện hành (chỉ số tính cạnh tranh kinh tế vi mô)
dùng chủ yếu để đo lờng tính cạnh tranh vi mô liên quan đến các doanh nghiệp.

- Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: cạnh tranh của doanh
nghiệp là năng lực tồn tại và vơn lên trên thị trờng cạnh tranh, duy trì đợc lợi
nhuận và thị phần trên thị trờng trong nớc và quốc tế về một hay nhiều sản phẩm
- dịch vụ của doanh nghiệp.
- Yếu tố quyết định là tỷ lệ lợi nhuận trên một sản phẩm.
- Các yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
+ Năng suất:
. Lao động
. Total Factor Productivity.
+ Công nghệ:
.Trình độ công nghệ quyết định cấp độ của sản phẩm, chất lợng và
năng xuất lao động.
.Khả năng thay đổi và tiếp cận công nghệ mới.
.Chi phí cho nghiên cứu và phát triển.
+ Sản phẩm:
. Chất lợng sản phẩm.
. Tính độc đáo hay sự khác biệt của sản phẩm.
+ Chi phí đầu vào:
. Giá các đầu vào chủ yếu.
. Hệ số chi phí hay cơ cấu giá thành.
+ Mức độ tập trung của thị trờng:
. thị trờng với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp hay đợc quyết
định bởi một số doanh nghiệp.
+ Các điều kiện về cầu trên thị trờng:
. Sức mua, tính thời vụ của cầu.
+ Độ liên kết giữa ngời mua và ngời bán:
. Công nghệ thông tin cho phép tạo mối liên kết giữa ngờimua và
ngời sản xuất.
- Doanh nghiệp có thể chủ động tác động đến năng lực cạnh tranh thông
qua:

+ Chiến lợc đầu t và kinh doanh.
+ Lựa chọn sản phẩm và dịch vụ.
+ Công nghệ và nghiên cứu khoa học công nghệ.
+ Đào tạo lực lợng lao động.
+ Tổ chức quản lý.
5


+ Liên kết liên doanh.
3/ Chỉ tiêu xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
Để hội nhập có hiệu quả, một trong những phơng hớng chính mà Đảng và
Nhà nớc ta đang tiến hành là tích cực thực hiện điều chỉnh cơ cấu sản xuất và
đầu t của các ngành kinh tế. Để làm đợc điều này thì việc xác định các năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm là cần thiết, vì rằng chỉ có xác định đợc tính cạnh
tranh của các sản phẩm thì mới có cơ sở tiến hành điều chỉnh các cơ cấu, đồng
thời xây dựng các chính sách hỗ trợ và điều tiết thích hợp đối với các ngành
kinh tế và lựa chọn đợc chiến lợc hội nhập phù hợp với khả năng của từng
ngành. Chính vì vậy, mà việc xác định tính cạnh tranh của các ngành kinh tế là
một vấn đề đợc các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Sau đây, ta xác định tính cạnh
tranh của sản phẩm đợc đánh giá từ khía cạnh nguồn lực trong nớc và khả năng
cạnh tranh của chúng so với các nớc trên thế giới. Với phơng pháp định lợng đợc sử dụng để xác định khả năng cạnh tranh của các ngành hàng thông qua việc
tính các hệ số sau: hệ số chi phí nguồn lực trong nớc (DRC), hệ số bảo hộ hữu
hiệu (EPR), hệ số lợi thế so sánh trông thấy (RCA).
a) Hệ số chi phí nguồn lực trong nớc (Domestic Resource Cost - DRC)
DRC là hệ số phản ánh chi phí thực sự mà xã hội phải trả để sản xuất một
loại hàng hoá nào đó. Hệ số DRC có đặc điểm là thờng chỉ thay đổi theo lợi thế
so sánh dài hạn của quốc gia chứ không bị ảnh hởng bởi các tác động nhất thời,
do vậy nó mang tính ổn định tơng đối và ngày nay nó thờng đợc sử dụng để
đánh giá cạnh tranh của ngành hàng. Việc tính DRC của một ngành hàng (hay
sản phẩm) đợc thực hiện theo nguyên tắc: giá trị chi phí sản xuất của các đầu

vào trung gian đợc tính theo mức giá thế giới, còn giá trị của các nhân tố sản
xuất đợc tính theo chi phí cơ hội.
Công thức tính DRC nh sau:
DRCj = (DCj) / IVAj
Trong đó:
- DCj là chi phí trong nớc cho các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội để
sản xuất ra sản phẩm j
- IVAj là giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới.
Nếu hệ số DRC < 1 nghĩa là cần một lợng tài nguyên trong nớc < 1 để tạo
ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế.
Nếu DRC > 1 thì ngợc lại. Hệ số DRC càng cao thì ngành hàng đó ngày
càng không có lợi và tính cạnh tranh rất kém.
b) Hệ số bảo hộ hữu hiệu (Effective Protection Rate - EPR):
Trong thực tế để đánh giá mức độ bảo hộ thực tế ngời ta sử dụng hệ số
EPR là mức bảo hộ thực tế đối với cả quá trình sản xuất, chứ không dùng hệ số
xác định chỉ mức bảo hộ đối với các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất nh
hệ số bảo hộ danh nghĩa.
c) Hệ số lợi thế so sánh trông thấy (Revealed Comparative Advantage - RCA)
Việc tính toán hệ số DRC giúp chúng ta xác định đợc trong số các sản
phẩm sản xuất ra trong nớc sản phẩm nào có lợi thế cạnh tranh hơn. Tuy nhiên
khi so sánh lợi thế cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại, đợc sản xuất ra từ
các quốc gia khác nhau thờng sử dụng hệ số đơn giản hơn đó là hệ số lợi thế so

RCA1

=

X IJ
X WJ


X
X

IJ

J

WJ

J

6


sánh trông thấy RCA. Nh vậy hệ số RCA đợc xác định nh là phần của nhóm sản
phẩm chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia chia cho phần của
nhóm sản phẩm đó trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới.
Công thức:
Trong đó:
i là nớc i, w là thế giới và j là hàng hoá j
Xij là xuất khẩu mặt hàng j của nớc i
Xwj là xuất khẩu mặt hàng j của toàn thế giới
Trong công thức nếu tỷ trọng Xij / Xwj > Xij / Xwj tức là hệ số RCA1> 1
thì nớc i đợc cho là có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Hệ số này càng cao chứng
tỏ lợi thế so sánh càng cao. Và ngợc lại.
c) Thực trạng cạnh tranh của Việt Nam
Xét về cả hai chỉ số này Việt Nam có sự giảm sút mạnh trong năm 2000.
Về chỉ số tính cạnh tranh tăng trởng, trong số 59 nớc đợc đánh giá năm
1997 Việt Nam xếp thứ 48, năm 1998 là 39 năm 1999 lại tụt xuống 48.
Đặc biệt năm 2000 thì chỉ số cạnh tranh của Việt Nam xuống 53/59 nớc. Đây là

dấu hiệu đáng lo ngại bởi vì chỉ số này phản ánh tiềm năng cạnh tranh và tăng
trởng của nền kinh tế trong trung và dài hạn.
Về chỉ số tính cạnh tranh hiện hành thứ hạng của Việt Nam năm 2000 đã
tụt xuống 53/56 nớc và thứ 43 năm 1998.
Nh vậy tính cạnh tranh của nên kinh tế Việt Nam, xét cả mặt trớc mắt và
lâu dài, đều ở vị trí thấp và trong những năm gần đây có xu hớng giảm dần.
Để xây dựng nên hai chỉ tiêu chính trên WEF đã tính một loạt các chỉ tiêu
cấu thành tính cạnh tranh của các quốc gia. Sau đây là xếp hạng của Việt Nam
về một số các chỉ tiêu (số chỉ tiêu có điểm càng cao thì càng tốt). Có thể thấy
rằng ở hầu hết các chỉ tiêu về cạnh tranh của Việt Nam có thứ bậc thấp và xu hớng giảm dần.
Năm 2000 là lần đầu tiên WEF đa ra chỉ số sức sáng tạo kinh tế quốc gia.
Mỹ là nớc có chỉ số sức sáng tạo kinh tế (2.02) vợt xa nớc đứng thứ hai là Phần
lan (1.73). Chỉ số này của Việt Nam là (- 0.6) đứng thứ 50/53 các quốc gia đợc
xếp hạng.
Chỉ số công nghệ đạt - 0.53 đứng thứ 48/53 quốc gia trong khi của Trung
Quốc là - 0.35, Inđônêxia - 0.32, Thái Lan - 0.11, Philipin là 0.03.
Chỉ số về luật pháp kinh doanh (gồm nhiều chỉ tiêu nhỏ nh: tình trạng
tham nhũng, bạo lực, vô luật pháp, trốn thuế) của Việt Nam đạt 3.83, xếp thứ
43/59, Trung Quốc xếp thứ 46, Inđônêxia 53, Nga 59.
Chỉ số tăng trởng của Việt Nam năm 1999 xếp thứ 47, chỉ số về sự phát
triển của thị trờng tài chính xếp thứ 55
d) Tính cạnh tranh không còn là :
- D tài nguyên
- Lao động rẻ
- Đồng tiền giá trị thấp
Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trờng mở, thơng mại quốc tế trở
thành phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ
7



của nớc khác, các quốc gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái (hối suất). Đây là một
công cụ kinh tế vi mô chủ yếu điều tiết cán cân thơng mại quốc tế (TMQT) theo
mục tiêu đă đặt trớc của nhà nớc. Bởi tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới xuất
nhập hàng hoá, vốn, giá cả trong nớc. Nó có tác dụng không nhỏ đến nền kinh
tế quốc dân. Có hai cánh tính tỷ giá hối đoái: Trực tiếp (tỷ gía hối đoái giảm ngợc chiều với giá trị đồng tiền trong nớc); Gián tiếp (tỷ giá hối đoái tăng giảm
cùng chiều với tỷ giá đồng nội tệ). Khi tỷ giá (gián tiếp) giảm thì giá trị nội tệ
giảm, nên giảm giá cả xuất khẩu tính bằng tiền nớc ngoài, sức cạnh tranh của
hàng hoá xuất khẩu trên thế giới tăng, đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời việc giảm
tỷ giá làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tăng dẫn đến hạn chế nhập khẩu ngoài ra
khi tỷ giá giảm giá t liệu sản xuất và t liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng hay đầu
vào của quá trình sản xuất nông nghiệp (phân bón thuốc bảo vệ thực vật,...) tăng
làm lợi thế cạnh tranh nông nghiệp giảm.
Việc sử dụng hàng rào bảo hộ thuế quan, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu
không hợp lý làm cho nguồn lực đầu t trong và ngoài nớc không đợc phân bố
một cách tối u mà tập trung vào một số lĩnh vực không có tiềm năng, lợi thế so
sánh. Đây là một sự đầu t lãng phí sẽ để lại hậu quả nặng nề về nguồn lực tài
chính. Bảo hộ sản xuất công nghiệp đa đến giá thành công nghiệp cao, sức cạnh
tranh công nghiệp kém, hậu quả nguồn lực sản xuất nông nghiệp không tối u, tất
yếu sức cạnh tranh nông nghiệp giảm.
Tài nguyên, lao động rẻ tuy là một trong những lợi thế quan trọng của các
nớc đang phát triển, xong trớc xu thế hội nhập tính quyết định của thành công
không còn nữa mà trí tuệ công nghệ mới là nhân tố chiến lợc trong thiên niên kỷ
mới - một kỷ nguyên của cách mạng thông tin, sinh học.
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp:
Hiệp định khung về tăng cờng hợp tác kinh tế ASEAN nhằm thành lập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm và hiệp định về ch ơng trình u đãi hế quan có hiệu lực chung (CEPT) ngày 27,28/1/1992 tại
Singapore đã khởi động và tác động ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam
cùng với việc tham gia APEC, ASEM, chuẩn bị tham gia WTO
Lời giải đáp cho doanh nghiệp Việt Nam chính là: tính kế thừa + sáng tạo
Muốn tồn tại và phát triển trong môi trờng cạnh tranh ngày càng khốc liệt

cái ô bảo hộ dần dần phải dỡ bỏ, buộc các doanh nghiệp không còn con đờng
nào khác là phải vơn lên, tự mình khẳng định chính mình bằng các chiến lợc và
các chính sách phù hợp. Chính điều này đã tạo cho doanh nghiệp tính năng
động, tính tự chủ cao, dễ dàng hoà nhập trong một cộng đồng lớn - khu vực và
thế giới - đầy khó khăn.
Đứng từ góc độ bảo hộ, các doanh nghiệp không còn là infant nó ngày
càng lớn mạnh. Xét về mặt lâu dài thì đây là sự đầu t không lãng phí nguồn lực
của xã hội và doanh nghiệp.
Tránh nguy cơ tụt hậu, doanh nghiệp không ngừng đổi mới trang thiết bị
công nghệ, nâng cao trình độ quản lý khoa học và hiệu quả. Tạo ra các sản
phẩm chất lợng cao, giá rẻ. Nhãn hiệu Việt Nam có chỗ đứng và uy tín.

8


Xác định đợc lợi thế cạnh tranh dài hạn, tập trung các nguồn lực để có sức
mạnh tổng hợp. Muốn vậy cần phải có chiến lợc tốt nhất cho doanh nghiệp. Thu
đợc hiệu quả cao, lợi nhuận lớn, tích luỹ nhiều, mở rộng quy mô sản xuất thu đợc hiệu quả cao theo quy mô. Hơn thế nữa mở rộng các quan hệ bạn hàng, có
thể liên doanh liên kết tạo sức mạnh làm chủ đợc thị trờng, cải thiện đợc điều
kiện hiện nay của Việt Nam là một nớc sản xuất nhỏ và phải chấp nhận giá.
Phát triển đợc hệ thống kênh phân phối toàn cầu với mạng lới thôngtin
nhanh nhạy, xúc tiến thơng mại một cách lhiệu quả, cung cấp đầy đủ thông tin
kịp thời cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ đó có thể tạo ra thế phát triển sạnh mà Việt Nam cha có đợc.
II/ Thực trạng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt
Nam
1. Tổng quan chung của sản xuất nông sản Việt Nam:
Việt Nam với đặc trng là một nớc nông nghiệp, điều kiện khí hậu thổ nhỡng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghành sản xuất nông sản phát triển Cách
đây 10 - 15 năm sản xuất nông nghiệp là một vấn đề thực sự nóng hổi. Những
con số vợt ngỡng 20, 25 đến 30 triệu tấn lơng thực làm nức lòng cả nớc. Vài

năm trở lại đây sự quan tâm lo lắng trên mặt trận nông nghiệp tựu chung lại một
mối nâng cao khả năng cạnh tranh để tiêu thụ nông sản.
Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam có hai vai trò lớn:
Thứ nhất: đáp ứng nhu cầu an toàn lơng thực của dân c trong nớc và phát
triển các ngành khác nh chăn nuôi, chế biến.
Thứ hai: phục vụ cho xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 1995 chiếm
tới 32.9% tổng giá trị nông phẩm và tăng 40% vào năm 1999. Đặc biệt là giá trị
xuất khẩu gạo tới 50% giá trị gạo trong cả nớc. Kim ngạch xuất khẩu nông sản
trong cả nớc tăng bình quân 12.5%.
Theo đánh giá sơ bộ tổng diện tích dgieo trồng cây lơng thực năm 1999
đạt 8668 ngàn ha tăng
so với năm 1998 sản lợng lơng thực quy thóc là 32,8
triệu tấn tăng gần 1 triệu tấn so với năm 1998 và đạt tỷ lệ tăng tr ởng 2,9%.
Riêng diện tích lúa năm 1999 đạt 7488 ngàn ha tăng
và sản lợng đạt 30
triệu tấn, tăng 850 ngàn tấn và đạt tốc độ tăng gần
so với năm 1998.
Diện tích và sản lợng các loại cây hoa màu đều tăng so với năm 1998 diện
tích và sản lợng ngô tăng 1,6% và 2,3%, khoai tăng 4,9% và 5,3%. Về sản xuất
cây công nghiệp, rau quả, đậu lạc sản lợng giảm và diện tích giảm 4,2%, còn lại
đều tăng so với năm 1998. Đó là:
Mía đạt 310 nghìn ha, tăng 9,5% và sản lợng đạt 15,5 triệu tấn tăng 12%
so với năm 1998.
Cà phê diện tích đạt 380 nghìn ha tăng 5,9%, sản lợng cà phê nhân đạt
370 nghìn ha, giảm 9,6% do bị hạn hán trong năm 1998.
Cao su diện tích đạt 390 nghìn ha tăng 2,8% và sản lợng mủ khô đạt 240
nghìn tấn tăng 6,3% so với 1998. Tuy nhiên, do giá cao su trong năm 1999 bị
giảm mạnh nên đã có nhiều hộ nông dân chặt phá cao su để trồng cà phê và các
loại cây trồng khác.


9


Tiêu diện tích gieo trồng đạt 130 nghìn ha, tăng 1,7% so với 1998 và sản
lợng đạt 150 nghìn tấn, tăng 5%.
Chè diện tích đạt 80 nghìn ha, tăng 3,5% và sản lợng búp chè khô đạt 60
nghìn tấn, tăng 17,6% so với 1998.
Điều diện tích đạt 220 nghìn ha, tăng 12,4% so với 1998, sản lợng đạt 80
nghìn tấn giảm 17,2% chủ yếu là do bị hạn hán.
Cây ăn quả diện tích đạt 450 nghìn ha, tăng 2,8% và sản lợng đạt 4,5 triệu
tấn, tăng 12,5% so với 1998.
Nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
tham gia xuất nhập khẩu nên kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 1999 đã tăng
2,9% so năm 1998 và đạt 2,75 tỷ đôla. 13/15 mặt hàng nông lâm sản chủ lực
xuất khẩu đều có mức tăng về lợng từ 5,4 đến 12,6% trong đó gạo tăng 12%,
cao su 10%, cà phê 5% đặc biệt rau quả tăng tăng 30%.
Năm 1999 giá hàng nông lâm sản xuất khẩu giảm mạnh, bình quân tới
8,4%, trong đó có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta giá đều giảm 10%.
Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng nông sản còn phải chịu tác động của giá trong nớc
giảm, nổi cộm nhất là các loại hoa quả giảm mạnh do sản lợng tăng nhanh nhng
tiêu thụ khó, khả năng bảo quản và chế biến còn thấp, riêng đối với mặt hàng
gạo, do chính phủ đã có các biện pháp tích cực hỗ trợ cho tiêu thụh xuất khẩu
nên giá thóc ở Đồng bằng sông Cửu Long ổn định ở mức 1750 đến 1900
đồng/1kg.
đầu t vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng nông
sản(năm -1999)

Nguồn số

Dự án


Số vốn đầu t

ODA

130

1,5 Tỷ USD

WB

6

465 triệu USD

FDI

363

3 tỷ 766 triệu USD
Nguồn Bộ kế hoạch và đầu t

Xuất khẩu hàng nông sản năm 1999
Mặt hàng
Lợng (1000 tấn)
1999
2000

Trị giá (tr USD)
1999

2000

Giá BQ (USD/tấn)
1999
2000

10


Gạo

4200

4200

989

1050

235,467

250

Cà phê

390

400

555,8


560

1392,982 1400

Cao su

212

230

125,4

135

591,509

Chè

34

35

43,3

52

1420,588 1486

Lạc nhân


62

120

36,23

135

584,355

Hạt điều

17

30

101,3

165

5958,824 5500

592

3857

Nguồn: Bộ thơng mại

2. Thực trạng sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam:

tăng trởng bình quân xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đạt 21%
năm trong suốt 10 năm. Gạo, cà phê, cao su, chè là bốn mặt hàng chủ lực, năm
1999 đạt 1,8 tỷ USD chiếm 16,63% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc.
2.1 số lợng và kim ngạch xuất khẩu của bốn mặt hàng nông sản chủ yếu của
Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh (xem bảng)
Có thể thấy rằng cả bốn mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam có tốc độ tăng trởng cao hơn tốc độ tăng trởng bình quân của thế giới và
cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh nh Thái Lan (trong mặt hàng gạo và
cà phê), Inđônêxia (cà phê, cao su), Malaixia (cao su),... kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam so với Thái Lan tăng từ dới 30% (trớc năm 1998) lên 44%
năm (1998).
Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với Braxin đã tăng từ
9,44% (năm 1992) lên 25,4% (năm 1998).
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng
từ 4,3% (năm 1992) lên 9,32% (năm 1998).
Kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng có tăng
nhng so với tốc độ chậm hơn từ 5,87% (năm 1992) lên 8,81% (năm 1998).
Các số liệu trên chứng tỏ rằng mức chênh lệch mặt hàng gạo và cà phê đợc thu hẹp nhiều nhất trong bốn mặt hàng so với đối thủ cạnh tranh chính. Điều
đó cũng cho thấy rằng, thời gian qua, sức cạnh tranh của bốn mặt hàng nông sản
chủ yếu của Việt Nam có đợc cải thiện đáng kể. Tuy nhiên nếu đi sâu vào phân
tích thì quả thực chúng ta không khỏi băn khoăn về sức cạnh tranh thực sự của
hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.
Tốc độ kim ngạch nhỏ hơn tốc độ tăng sản lợng xuất khẩu (17,1% so với
20,2% ở gạo; 15,1% so với 19% ở chè; 14,25% so với 17,67% ở cao su).

11


Sản lợng và kim ngạch xuất khẩu các hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam
giai đoạn 1990-1999.

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

Sản lợng XK (1000 tấn)
Kim ngạch XK (triệu USD)
Gạo Cà phê Cao su Chè
Gạo Cà phê Cao su Chè

1624 89,6
75,9
10,8 305
76,16 75,3
12,96
1033 93,8
62,9
10,5 235
74
50
14
1940 116,2 81,9
13
418
92
66,9
16
1722 122,6 96,7
20,6 362
110,6 74,7
26
1983 177
135,5 21,2 424
328,2 135,4 26,5
2058 248,1 138,1 18,8 530
595,5 193,5 26,5
3047 281,4 194,5 21
868
420
163,3 29

3682 391,6 195
32,3 801
497,5 194,6 48
3800 382
197
33,2 1100 593,8 127,5 50,5
4500 487,5 265
37
1080 592
145
46
3500 649
280
44,7 840
842,76 153,2 56
Nguồn: Vụ thơng mại-dịch vụ-Bộ kế hoạch và đầu t

So với đối thủ cạnh tranh tốc độ tăng sản lợng của họ thấp hơn nhng tốc
độ tăng kim ngạch lại cao hơn Việt Nam. Chẳng hạn, trong khi sản lợng xuất
khẩu của Thái Lan chỉ gấp 1,6 lần của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu lại
gấp những 2,27 lần.
Sản lợng cà phê xuất khẩu của Braxin chỉ gấp 2,6 lần Việt Nam thì kim
ngạch xuất khẩu lại gấp 3,93 lần kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều mặt
hàng khác cũng trong tình trạng tơng tự.
Trừ mặt hàng gạo, còn ba mặt hàng còn lại có sự chênh lệch quá lớn về số
lợng so với đối thủ cạnh tranh chính: cà phê chỉ bằng 1/3 của Inđônêxia của
Côlômbia, chè chỉ bằng 1/6,7 của ấn Độ, 1/8 của Stilanca; cao su chỉ bằng 1/5
của Malaixia và 1/9 của Thái Lan,...Nh vậy, mời năm qua tuy đã có sự phát
triển vợt bậc xong nhìn chung nông sản xuất khẩu của Việt Nam (trừ gạo) còn
chiếm lợng nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh, cha đủ sức để chi phối đến sự biến

đổi về giá cả trên thị trờng thế giới và nông sản Việt Nam vẫn phải chịu tác
động của giá cả trên thế giới và lấy đó làm tiêu chuẩn phấn đấu cho mình.
2.2 Về chất lợng nông sản xuất khẩu có đợc cải thiện đáng kể ở hầu hết các
mặt hàng:
Chẳng hạn tỷ lệ gạo chất lợng cao (5 đến 10% tấn) đã tăng từ 1% (năm
1999) lên 85% (năm 200) tỷ lệ gạo chất lợng thấp (25% tấn) chỉ còn 22%. Tuy
nhiên, đó chỉ là tiến bộ trong cải thiện độ gẫy của gạo. Gạo 5% của Thái Lan
hơn hẳn ta về mùi vị, hình dáng, kích thớc và tỷ lệ thuỷ phân.
Cũng với gạo, chất lợng các hàng nông sản cũng có tiến bộ đáng kể. Nh
mặt hàng cà phê, tỷ trọng cà phê loại 1 tăng từ 2% (vụ 95-96) lên 16% (vụ 9899), loại 2b giảm từ 80% (vụ 95-96) xuống còn 5% (vụ 99-00), xong tỷ lệ thuỷ
phân cao quá 13% thậm chí có cả hạt đen mốc, vỡ, lẫn nhiều tạp chất, quy cách,
mầu sắc, độ bóng, độ đồng đều cha đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

12


Tỷ lệ cao su thợng hạng tăng từ 89,3% (1995) lên 91,04% (1998), lên tới
94,04%( 2000) Tuy đã tăng đợc tỷ trọng hàng hoá phẩm chất cao nhng mẫu mã
đơn điệu nên cha thâm nhập vào phần thị trờng cao cấp và do đó giá bán luôn
thấp hơn của đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù nông sản Việt Nam có chất lợng khá tốt nhng các loạI có chất lợng không đồng đều, tỷ lệ phế phẩm còn cao. Hầu hết trong những năm gần
đây, một số dây truyền chế biến nông sản đợc nhập ngoạI có quy trinh công
nghệ tiên tiến song còn rất ít. Nhìn chung khoảng 70% sản lợng nông sản hàng
năm đợc sơ chế tạI các hộ gia đình chất lợng không cao, gần 30% tạI các cơ sở
công nghiệp có dây chuyền nhng phần lớn đã lạc hậu.
Tóm lạI cần phảI nâng cao chất lợng của nông sản Việt Nam nhằm nânng
cao khả năng cạnh tranh trên trờng quốc tế.
2.3 Giá nông sản xuất khẩu có tăng lên nhng vẫn thấp hơn giá của các đối
thủ cạnh tranh và giá của thế giới
Giá một số hàng nông sản thời kỳ 1991-1998

Giá MH
1. Giá cà phê
Giá VN
Giá Braxin
Giá thế giới
2. Giá gạo
Giá VN
Giá Thái Lan
Giá thế giới
3. Giá cao su
Giá VN
Giá Thái Lan
Giá thế giới
4. Giá chè
Giá VN
Giá Thái Lan
Giá thế giới

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
791 792 902 1854 2401 1479 1270 1554
1263 953 1105 2548 2733 2211 3162 2343,5
1520 1254 1334 2503 3100 2317 2907 2583
227 215 210 214 258 285 242 289
276 276,7 261 320,7 315 367 387,5 393,3
234 332 302,4 344 311 373,7 379 347
795 817 773 999 1360 1350 980
803,4 803,3 825,7 1016 1506 1304 992,8
829 838,7 841,8 1037,3 1059 1332,3 1058

700

787
768

1333 1240 1262 1250 1410 1394 1486 1521
2490 2312 2166 2044 2025 2012 2389 2407
2091 1996 1918 1943 2000 2024 2232 2350

Nguồn:FAO year book 1992-1995-1998, có đối chiếu với Vụ thơng mại Bộ kế hoạch đầu t

2.4 Thị phần xuất khẩu của bốn mặt hàng nông phẩm chủ lực của Việt Nam
cũng tăng đáng kể:
Từ năm 1991-1998 thị phần gạo đợc mở rộng hơn 10%, cà phê hơn 5%,
cao su 2,2%, chè cũng đợc mở rộng trên 1,5%. Thị phần gạo của Việt Nam là
18,44%, so với Thái Lan là 22,2%; cà phê đạt thị phần 7,18%, so với Inđônêxia
là 6,72%, Braxin là 18,72% và Colômbia là 11,97%. Thị phần các hàng hoá
nông sản của Việt Nam tăng lên cùng với số thị trờng đợc mở rộng. Hiện nay
hàng nông sản Việt Nam đã có mặt ở trên 80 quốc gia trên thế giới, ở khắp các
châu lục và bớc đầu đã thâm nhập các thị trờng khó tính nh Anh, Thuỵ Sỹ, Pháp,
Hông Kông, Nhật Bản, Đài Loan...
Tuy nhiên, dù số lợng thị trờng xuất khẩu có nhiều nhng các thị trờng
nhập khẩu quy mô lớn và ổn định thì ít, chỉ tập chung vào 9 đến 10 quốc gia ở
13


Châu á nh Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore và một số nớc khác trong ASEAN.
Mặt khác, mức độ thâm nhập vào thị trờng chính ngạch của nông sản Việt
Nam rất thấp. Đây là thị trờng nhập khẩu chủ yếu và đòi hỏi tiêu chuẩn chất lợng cao từ nguyên liệu và chế biến sâu nh gạo đặc sản, cà phê chè, cà phê hoà
tan và bánh kẹo...
Tóm lại, trong các hàng hoá nông sản của Việt Nam trong thời gian qua
chỉ có gạo và cà phê là chiếm thị phần tơng đối cao, hai mặt hàng còn lại đạt thị

phần quá nhỏ (tuy rằng vẫn tăng so với trớc đây) mức độ thâm nhập vào các thị
trờng chính ngạch còn rất kém. Nhìn chung chúng ta cha vận hành chiến lợc
cạnh tranh hàng nông sản.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế ,các mặt hàng nông sản Việt
Nam kể cả nội tiêu và xuất khẩu đã và đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt.
Nh trên đẵ nói việc xác định năng lực cạnh tranh của các sản phẩm là cần thiết.
Một trong các chỉ tiêu nêu trên - trong khuôn khổ bài viết này - xác định tính
cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản đợc đánh giá từ khía cạnh nguồn lực
trong nớc: Hệ số chi phí nguồn lực trong nứơc (DRC).

Hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC)của một số nông sản
xuất khẩu chủ lực

Gạo
Cà phê
Chè
Cao su

1995
0.500
0.250
0.678
0.6

1996
0.474
0.437
0.695
0.608


1997
0.500
0.472
0.530
0.8

1998
0.400
0.329
0.451
1.2

1999
0.500
0.453
0.604
1.6

1995-99
0.467
0.388
0.591
0.960

Qua phân tích tính cạnh tranh trong thời gian qua cho thấy ,mặc dù một
số nông sản xuất khẩuViệt Nam có lợi về hệ số chi phí nguồn lực nội địa nhng
vẫn không mang tính chắc chắn cha kể tính cạnh trạnh của một số mặt hàng còn
có xu thế giảm nh cao su..
Cũng phục vụ cho việc đánh giánăng lực cạnh tranh sử dụng chỉ số năng
lực cạnh tranh (C1)

Biến động chỉ số khả năng cạnh tranh về giá một số nông sản xuất khẩu
chủ lực
Mặt hàng
Gạo
Cà phê Chè
Cao su
Biến động chỉ số năng lực cạnh tranhvề giá
(C!), trong đó:
-1.45
-7.88
-1.49 -7.25
Do tỷ giá hối đoái thực
-1.65
-1.55
-1.65 -1.75
Do giá cả thế giới
2.25
-0.06
-3.06 -7.87
Do chính sách thơng mại nghành -2.05
-6.26
-2.98 2.36
Từng mặt hàng có những nguyên nhân khác nhau nhng ảnh hởng của tỷ
giá hối đoái có tính tác động tiêu cực hơn cả. Sự duy trì đồng tiền nội địa cao so
với các nớc trong khu vực cũng là nguyên nhân làm cho nông sản Việt Nam ít
cạnh tranh hơn. Tuy nhiên giá cả thế giới giảm trong thời gian qua làm cho
những mặt hàng này kém hấp dẫn hơn nh với cà phê và cao su.

14



3. Nguyên nhân
a) Cha biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh
Hội nhập kinh tế xét lợi ích lâu dài mang lại cho mỗi quốc gia là khó có
thể phủ nhận. Tuy nhiên hội nhập là quá trình không đơn giản và không hoàn
toàn thuận chiều. Để có thể hội nhập một cách có hiệu quả vấn đề cốt lõi là làm
sao có thể xác định đợc lợi thế so sánh, tập trung nguồn lực và tạo đòn bẩy
nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp. Từ đó có thể biến lợi thế so sánh thành lợi
thế cạnh tranh mới có thể thực hiện sách lợc Biết ngời, biết ta trăm trận trăm
thắng.
Trớc ngỡng cửa đầy gian nan ,chúng ta có lợi thế gì đối với các sản phẩm
nông nghiệp. Nhìn chung so với hàng công nghiệp tiêu dùng nh dệt may, da giầy
hay cơ khí, điện tử.. trong cùng một lợng kim nghạch xuất khẩu nh nhau, tỷ lệ
chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông phẩm rất thấp, do đó thu
nhập ngoại tệ ròng của nông phẩm xuất khẩu cao hơn nhiều.Ví dụ nh: chi phí
sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ chỉ chiếm khoảng 15% giá trị kim
nghạch xuất khẩu gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra 85% thu
nhập ngoại tệ thuần cho đất nớc, chỉ số này đối với hạt điều vào khoảng 27% và
73%.
Nông nghiệp là nghành sử dụng lao động cao, trong điều kiện hàng năm
Việt Nam cần giải quyết thêm việc làm cho 1.4 triệu ngời bớcc vào độ tuổi lao
động. Ví dụ để trồng một ha dứa hay 1 ha dâu nuôi tằm, mỗi năm sử dụng 20
lao động. Trong khi đó giá nhân công ở Việt Nam rẻ hơn các nớc khác trong
khu vực ở mức 1 - 1.2 đôla/ngày công lao động nh trong sản xuất cà phê lúa. Cá
biệt giá nhân công mới ở mức2 - 2.5 đôla/ngàycông lao động thu hoạch mía,
lúa. Nhìn chung giá nhân công của Thái Lan cao hơn so với Việt Nam là 2 - 3
lần. Tuy nhiên lợi thế này không tồn tại lâu do sự phát triển của nớc ta và thế
giới
Điều kiện sinh thái tự nhiên trong sản xuất nông sản là một u thế, tạo ra
các vùng chuyên canh sâu các loại rau quả nhiệt đới, một số loại rau quả vụ

đông nh cà chua, bắp cải rất thuận lợi ở đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó cả
vùng Viễn Đông của LB Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết bao
phủ nên không thể trồng trọt đợc nhng lại là thị trờng tiêu thụ lớn và tơng đối dễ
tính. Còn các đối thủ cạnh tranh của chúng ta nh Thái Lan, Philippine kém lợi
thế so sánh với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên cũng nh kỹ năng, kinh nghiệp
và tính cần cù của ngời lao động trồng các loại rau ôn đới .
Với các lợi so sánh đó, trong điều kiện bớc đầu tham gia hội nhập đây có
thể nói là vũ khí cạnh tranh sắc bén mà ngành hàng nông phẩm nên biết tận
dụng. Vậy tại sao Việt Nam cha chuyển đợc nhiều lợi thế so sánh thuận lợi của
mình thành lợi thế cạnh tranh cụ thể cuả nghành hàng. Đây là câu hỏi lớn cần đợc phân tích một cáh cẩn thận và toàn diện. Trong các nguyên nhân chủ yếu là :
b) Môi trờng đầu t thiếu tính cạnh tranh
Chi phí đầu t tại thị trờng Việt Nam khá cao so với các nớc trong khu vực
và thờng bao gồm cả những chi phí bất hợp lý đợc gọi là giao dịch phí ,tiêu cực
phí.

15


* Giá cung cấp các dịch vụ kết cấu hạ tầng quá cao đã ngăn cản tốc độ
phát triển kinh tế và hạ thấp khả năng cạnh tranh của Việt Nam
+ Cớc phí vận tải container bằng đờng biển từ Nhật về các cảng ở Việt
Nam thờng cao gấp hai, ba lần so với đến cảng Singapore, Thái Lan và
Philippine. Chẳng hạn cớc phí vận chuyển một container 20 feet từ Tokyo đến
Singapore khoảng 500 đôla, đến Băng cốc khoảng 450 đôla, trong khi tơí cảng
Đà Nẵng của Việt Nam lên dến 1500 đôla, tại cảng Hải Phòng 1000 - 1500
đôla. Nguyên nhân là kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ của cảng ở Việt Nam
kém, không thể đón các tàu lớn nên phải trung chuyển qua các cảng nớc ngoài.
Tơng tự, cớc phí vận tải hàng không cũng vào loại cao trong khu vực.
+ Về giá dịch vụ viễn thông, giá cớc điện thoại quốc tế cao gấp khoảng
hai lần so với giá trung bình thế giới. Điều này làm tăng gánh nặng cho các

nghành đang cố gắng cạnh tranh trên thi trờng, đặc biệt là những nghành định hớng xuất khẩu nh nghành hàng nông phẩm. Các chi phí viễn thông cao của Việt
Nam một phần do trình độ quản lý của Tổng công ty bu chính viễn thông
(VNPT). Mặc dù VNPT có mạng viễn thông hiện đại nhng số nhân viên tính
trên 1000 máy điện thoại của Việt Nam cao gấp 6 lần so với Philippine và 7 lần
so với Singapore.
+ Giá điện dùng cho kinh doanh (0.07 đôla/kwh) cao gấp 2 lần so với Thợng Hải (0.35 đôla/kwh) và Băng cốc, gấp 5 lần so với Giacacta (0.17
đôla/kwh).
+ Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam (mức cao nhất là 50%)và cao nhất
khu vực, trên cả Thợng Hải.

So sánh chi phí đầu t tại một số thành phố lớn ở châu á
(tháng 12-19999)

Hà Nôi TP-HCM Thợng Singapore Băng kok Kualar Jacarta Manila
Hải
Lumpur
Phíthuêphòng/tháng
23
16
24
42
13
17
19
28
Phí thuê nhà cho đại diện 1850
1800
1500
2285
1420

920 2000 1970
ngời nớc ngoài/tháng
Phí điện thoại quốc tế(3ph 8.52
8.52
4.3
2.23
3.11
2.61 2.59 3.78
gọi sang Nhật)
Tiền điện dùng cho kinh 0.07
0.07
0.0035
0.05
0.03
0.06 0.0177 0.09
doanh/kwh
Vận chuyển container40 ft 1825
1375
880
670
1466
895 1252 994
từ nhà máy đến cảng gần
nhất của Nhật
Giá xăng dầu(1 lit)
0.31
Thuế thu nhập cá nhân 50%
(mức cao nhất)

0.310

50%

0.3
45%

0.74
29%

0.34
37%

0.29
29%

0.138 0.35
30% 33%

Nguồn :JETRO, trích từ Tạp chí Phát triển kinh tế,

Mặc dù giá cao nhng chất lợng kết cấu hạ tầng của Việt Nam lại ở mức
thấp nhất khu vực
Chỉ số chất lợng đờng ở Việt Nam khá thấp, mới chỉ có khoảng 30% có
chiều rộng trên 10 m. Đến nay vẫn còn trên 40% quốc lộ và 70% tỉnh lộ còn
mặt bằng đất, trên hệ thống quốc lộ vẫn còn 1000 cây cầu yếu chiều dài
45000m. Hiện nay vẫn còn 600 xã cha có đờng ô tô đến trung tâm xã. Theo bộ

16


giao thông vận tải, các dịch vụ liên quan dến container và đại lý tàu biển cùng

các loại hoạt động cung ứng xuất khẩu đều cha có hiệu quả và không có tính
cạnh tranh quốc tế. (Báo Đầu t,#/8/99). Hiện nay ở Việt Nam mới có 51% gia
đình đợc cấp điện. Chỉ có 2.9% số xã ở Lai Châu có điện, ở Cao Bằng khá hơn
với 7. 1% và Lào Cai là 9.9%. Theo tổng cục Bu điện, đến năm 2000 vẫn còn
19% số xã cha có điện thoại. (Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn 6-7-2000).
Bảng so sánh chất lợng kết cấu hạ tầng của các nớc ASEAN
Nớc
Sân bay Cảng biển Giao thông
Singapore
4.9
4.9
4.6
Brunây
3.3
3.0
3.3
Malaisia
3.1
3.1
2.7
Thai lan
3.1
2.5
1.6
Philippine
2.3
2.4
1.9
Inđônêsia
3.0

2.4
2.3
Việt Nam
1.9
2.0
1.9
Myanmar
1.6
1.5
1.6

Điện lực
4.4
3.6
2.6
2.7
2.2
2.6
1.9
1.4

Viễn Thông Bình quân
4.7
4.7
3.5
3.3
3.2
2.9
3.0
2.6

2.7
2.3
2.7
2.6
2.2
2.0
1.4
1.5

Nguồn :Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 5/2000, trích từ Dailly
economices News, Đài Loan.

* Việt Nam đang mất dần lợi thế về chi phí nhân công
* Hệ thống dịch vụ công phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh mặc
dù đã có nhiều cố gắng nhng cũng là nơi phát sinh thêm chi phí cho các doanh
nghiệp. Các cơ quan công quyền ở mọi cấp tự đặt ra nhiều loại phí khi cung cấp
dịch vụ công dẫn đến tình trạng loạn phí và lệ phí. Theo Cục thuế TPHCM,
căn cứ vào báo cao của cấp dới thì thành phố tồn tại 122 khoản phí và lệ phí mà
ngời dân và doanh nghiệp phải nộp (Thời báo kinh tế Sài Gòn 24/8/2000). Cùng
các khoản phí chính thức, các doanh nghiệp còn phải chi thêm các khoản hoa
hồng, giao dịch phí khác cho các quan chức. Để giải quyết các vấn đề kinh
doanh, doanh nghiệp phải chi một khoản không nhỏ và biến báo tận cùng vào
giá thành sản phẩm hoặc cắt giảm lợi nhuận, phúc lợi. Điều này dờng nh trở
thành một thông lệ một nếp, thói quen rất khó bỏ trong môi trờng kinh doanh
của Việt Nam.
c) Chính sách vĩ mô của nhà nớc
* Tỷ giá: Nh trên đã nói, tỷ giá hối đoái là một vấn đề rất nhạy cảm với
hoạt động xuất nhập khẩu. Một chế độ tỷ gía thế nào là hợp lý, tối u đối với một
nền kinh tế nh Việt Nam. Có thể nói đây là một bài toán khó cho các nhà hoạch
định chính sách cũng nh với các nhà quản lý tài chính. Thực tế cho thấy cách

niêm yết tỷ giá của các ngân hàng thơng mại đều khác thờng so với các nớc. Tỷ
giá mua vào ngang bằng với tỷ giá bán ra. Có phải các ngân hàng thơng mại
không biết kinh doanh hay không. Đơn giản vì giá ngoại tệ ở thị trờng liên ngân
hàng luôn luôn đợc chỉ đạo một cách duy ý chý, thấp hơn giá thị trờng tự do. Đó
là tình hình lên giá của tiền ta mà trong tiếng Anh gọi là đánh giá quá cao đồng
tiền trong nóc (money overvaluation). Rõ ràng khi USD nhà nớc đặt nó cao hơn
giá thị trờng là muốn kéo nó lên, u tiên cho xuất khẩu, hay đặt thấp hơn giá thị
trờng tự do là muốn kéo nó xuống, u ái cho nhập khẩu, cho trả nợ vay nớc
ngoài. Báo tuổi trẻ5/7/2000 cho biết thị trờng tự do cao hơn tỷ giá liên ngân
17


hàng từ 80 đến 100đ và tự nhiên nhập khẩu đợc trợ giá mỗi USD là 90đ. Tính
theo kim nghạch nhập khẩu năm 1999 là 11.532 tỷ thì số trợ giá cho nhập khẩu
là rất lớn, trái với định hớng u tiên cho xuất khẩu hiện nay của Việt Nam .
* Cơ chế chính sách:
Vấn đề đặt ra cho cơ chế quản lý nghành hàng nông phẩm là phải giải
quyết đợc mục tiêu: ngời sản xuất có lợi, doanh nghiệp hoạt động trong nghành
có hiệu quả, bình ổn giá cả - giữ vững an ninh lơng thực quốc gia. Giải quyết
mục tiêu trên là giải quyết lợi ích ba mặt: ngời lao động, doanh nghiệp, và xã
hội .
+ Việc định giá sàn bảo đảm cho nông dân một sự lựa chọn khi tiến hành
sản xuất.Tuy nhiên, nguồn vốn đầu t cho nông sản của nhà nớc hạn hẹp, nên nhà
nớc mới chỉ áp dụng giá sàn cho cây lúa nhng hiệu quả của nó rật thấp.Vì sao
vậy? Nguyên nhân là đối tợng đợc hởng là doanh nghiệp mua thóc, doanh
nghiệp xuất khẩu gạo. Nh vậy, tuy giữ hay có thể nâng đợc mức giá mua thóc song mục đích để ngời nông dân có lợi, khi điều kiện tiêu thụ thóc khó khăn giá mua thấp không thực hiện đợc. Điều đó mục tiêu đặt ra cho cơ chế không
thực hiện đợc. Đặc biệt, khi sự quản lý không chặt chẽ nh tròng hợp xảy ra
những tháng đầu năm 2001 là một ví dụ điển hình: Nhà nớc đã hỗ trợ lãi suất
cho các doanh nghiệp thu gom thóc dự trữ khoảng 1 triêụ tấn, các doanh nghiệp
không mua hay mua với số lọng không đủ, số vốn còn quay trở lại ngân hàng

với lãi suất cao hơn. Vậy nỗ lực của nhà nớc là không hiệu quả.
+Về cơ chế quản lý xuất khẩu gạo: điều hành hoạt động xuất khẩu gạo
ban hành gắn với cơ chế điều hành nhập khẩu phân bón, do một đầu mối điều
hành. Điều tiết lợng gạo xuất khẩu: tiến độ xuất khẩu gạo qua hạn nghạch, đầu
mối xuất khẩu gạo và biện pháp tạm dừng xuất khẩu. Số lợng gạo xuất khẩu
phân bố hàng năm thực hiện theo hớng giảm dần sự độc quyền của doanh
nghiệp đầu mối. Mặc dù với cơ chế này đã thúc đẩy tiến độ xuất khẩu rất nhiều,
cơ chế quy định chỉ có hiệu lực trong vòng một năm. Do đó doanh nghiệp luôn
bị động, thiếu ổn định, không muốn đầu t dài hạn. Hơn nữa, dẩy việc giải quyết
vấn đề mang tính sự vụ của doanh nghiệp lên cấp chính phủ, vừa mất thời gian
trong kinh doanh, bỏ mất thời cơ, mà chính phủ lại rơi vào sự vụ. Một điểm cần
lu ý, duy trì điều hành xuất khẩu theo đầu mối nhiều khi bỏ mất thời cơ xuất
khẩu nhất là khi tham gia đấu thầu các hợp đồng mua gạo của nớc ngoài. Sự
kiện thất bại của đầu mối chỉ định tham gia đấu thầu gạo năm 1998 - 1999 cho
thấy sự hạn chế của việc chỉ định doanh nghiệp tham gia đấu thầu.
c)Kỹ thuật - công nghệ sản xuất, chế biến lạc hậu cha theo kịp trình độ thế giới;
cơ cấu cây trồng ,cơ cấu sản phảm cha hợp lý với nhu cầu thị trờng:
Trên thị trờng thế giới, chất lợng và uy tíncác loại nông sản Việt Nam
vẫn thuộc loại 2. Vì sao vậy? Các chuyên gia cho rằng, chất lợng và uy tín
nông phẩm phụ thuộc vào 4 yếu tố: giống, kỹ thuật canh tác, năng suất, chế biến
thì Việt Nam yếu ...cả 4.
Theo đánh giá củă WEF năm 2000, chỉ số công nghệ của Việt Nam đạt
0.51, đứng thứ 48/59 quốc gia. Một thực trạng cảnh báo với nền kinh tế nói
chung và nghành hàng nông phẩm nói riêng.

18


Chè: hiện ở Việt Nam trồng nhiều giống địa phơng trồng lâu đờỉ Việt
Nam chiếm khoảng 90% diện tích. Gần đây có nhập một số chè của Trung

Quốc, Đài Loan, Nhật khẩu nh giống Bát tiên, VânXơng, Yabuki....có chất lợng
cao, diện tích trồng còn nhỏ chiếm khoảng dới 10% diện tích. Điều này ảnh hởng rõ ràng đến chất lợng chè xuất khẩu. Không nói đến chỉ tiêu cảm quan này,
chỉ xét về hình thức, kích thứơc lá, búp chè của ta không đồng đều. Có khách
hàng tởng ta trộn lẫn nhiều loại chè với nhau. Theo các chuyên gia, năng suất
chè phải đạt từ 4tấn/ha trở lên ngời trồng chè mới có lãi. Thống kê chính thức
của Vinatea cho thấy có 75% số tỉnh trồng chè năng suất bình quân dơí 4 tấn
/ha, trong đó có nhiều vùng trồng chè lâu đời nh Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà
Giang, Tuyên Quang.. bình quân cả nớc đạt 3.68 tấn /ha. Nếu lấy giá bình quân
năm 1998 là 2259x3.68 thì ngời trồng chè chỉ thu về 8313120 đồng /ha. Trong
khi mức đầu t chuẩn theo yêu cầu cho 1ha chè là phải...15 triệu đồng. Nh vậy
ngời trồng chè chỉ còn cách giảm đầu t nh phân bón không đủ, mật độ trồng trên
1ha thấp, không làm hệ thống tới tiêu...Qua khảo sát của Vinatea, ngời trồng
chè chỉ đâù t 6 - 7 triệu đồng cho1ha (bằng 40% yêu cầu. ở những vùng nghèo
tỷ lệ này còn ít hơn. Thậm chí nhiều vùng chè hiện nay, không đựoc bón phân.
Cái vòng luẩn quẩn trong sản xuất chè hiện nay là: đầu t thấp - năng suất thấp chất lợng thấp - thu nhập thấp.
Sự lạc hậu của công nghệ chế biến chè là một nguyên nhân đã lâu cho
nghành chè, hiện cha đến hồi kết thúc. Công nghệ chế biến chè nhập từ Liên
Xô (cũ) vào những năm 1957 - 1977 đợc sửa chữa và thay thễ bằng các phụ tùng
nhiều lần, tuy đang hoạt động nhng bộc lộ nhiều nhợc điểm ở các khâu lên men,
sấy, hút bụi, phân loại...ảnh hởng xấu đến chất lợng sản phẩm. Những năm 1980
nhập khẩu của ấn Độ 6 đây chuyền nhng không đồng bộ nên không hiệu quả.
Năm 1996 nhập 2 dây chuyền của Ân Độ nhng chỉ một dây truyền của An phú
là hoạt động. Ngoài ra các nhà máy chế biến công nghiệp với công suất lớn còn
có nhiều cơ sở chế biến nhỏ cũng tham gia sản xuất chè đen xuất khẩu, nhng
thiếu thiết bị và không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp làm giảm chất lợng và uy tín chè Việt Nam.
* Gạo :Theo tiêu chuẩn của thế giới là hạt dài (trừ thị trờng Nhật Bản) cần
giống đáp ứng theo yêu cầu hạt gạo dài 7mm, chiều dài /chiều rộng phải >3, gạo
phải trong có nấm bạc bụng cho phép từ 0 đến 1mm. Nhng công nghệ chế biến
còn mang tính thô sơ, kỹ thuật đánh bóng còn khoảng cách xa so với Thái Lan.
Hệ thống kho trạm dự trữ còn yếu kém dãn đến gạo có độ ẩm cao, dễ bị mốc

không đáp ứng nhu cầu. Và một nguyên nhân sâu xa nữa là nhà sản xuất còn
chạy theo số lợng hơn là chất lợng, cha tạo ra đợc các vùng chuyên canh năng
suất cao hơn chất lợng cao hơn về tỷ lệ độ gẫy của hạt gạo, mùi thơm...
* Cà phê: Về cơ cấu giống cây trồng phù hợp với thổ nhỡng cũng nh nhu
cầu của thị trờng rất quan trọng. Hiện tai cả nớc có 375 nghàn ha cà phê phân
bố đều trên địa bàn từ bắc tới nam. Khu vực phía bắc diện tích không nhiều,
năng suất không cao, điều kiện thổ nhỡng không phù hợp với giống cà phê vối
nhng cà phê chè phát triển tốt ở đây. Khu vực Tây Nguyên và vùng Miền Đông
Nam bộ, là vùng trọng điểm của cà phê Việt Nam, có điều kiện khí hậu thổ nh-

19


ỡng phù hợp cho cà phê đặc biệt là giống và phê vối. Do nhu cầu cà phê, chè
trên thế giới cao hơn so với cà phê vối nhng diện tích trồng hiện tại ở Việt Nam
là 95% cà phê vối chỉ 5% cà phê chè. Đây là một bất cập lớn đối với nghành cà
phê. Công nghệ chế biến tạo ra sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam chất lọng
cao là cha có.
* Cao su: hiện tại Việt Nam có khoảng 400 nghàn ha diện tích cao su, đến
cuối tháng 9/2001 tổng công ty cao su Việt Nam thông báo còn ứ đọng 300
nghàn tấn mủ cao su. Do nhu cầu của thị trờng thế giới cần loại mủ cấp thấp,
trong khi sản phẩm của Việt Nam mủ cấp cao chiếm tỷ trọng lớn. Công nghệ
cao lại bất cập với nhu cầu, là vấn đề tơng đối dễ giải quyết. Vậy tại sao cao su
lại ứ đọng. Theo chủ tịch hiệp hôi cao su Việt Nam cho biết: thực tế trồng, tiêu
thụ là phía hiệp hội, còn công nghệ chế biến lại do nghành công nghiệp quản lý.
d) Hệ thống thị trờng-kênh phân phối còn yếu kém:
e) Do sự biến động khách quan trên thị tròng thế giới:
Thị trờng tiêu thụ là vấn đề cốt lõi để đảm bảo cho sản xuất phát triển. Trớc đây, đã có thời gian dài chúng ta dùng thị trờng nh một sự áp đặt nhu cầu cho
sản xuất; chỉ sản xuất những thứ chúng ta có nhu cầu, sử dụng theo khối lợng và
địa chỉ sẵn. Ngày nay, các nhà sản xuất phải tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu của thị

trờngđòi hỏi; với ý nghĩa đó thị trờng có vai trò quyết định với với sản xuất và
kinh doanh hàng hoá đặc biệt là thị trên thế giới.
Giá cà phê đã giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử vào cuối năm
2000. Đó là một năm đầy khó khăn cho nghành cà phê thế giới và cũng là một
năm giá cà phê cứ giảm dần đêù. Giải thích điều này, có rất nhiều lý do nh sau:
sự suy thoái kinh tế thế giới ảnh hởng tới nền kinh tế mỗi nớc theo nhu cầu tiêu
dùng giảm vì thu nhập bình quân đầu ngời thấp ,vấn đề thời tiết ở những nớc sản
xuất cà phê lớn trên thế giới và đặc biệt là các câc cung cầu cà phê. Trong năm
2000, sản lợng cà phê thế giới tăng mạnh trong khi nhu cầu giảm, và nguồn dự
trữ ở các nớc tiêu thụ lại quá cao. Giá cà phê vào đầu năm 2000 đã đợc xem nh
là quá thấp nhng vẫn cao hơn nhiều với mức giá hiện nay. Ngày 7/1/00 hợp đồng
kỳ hạn cà phê robusta tháng 1/00 và cà phê arabica tháng 3/00 có mục giá tơng
ứng 1490USD/tấn và 114,15cent/lb, so với 1814USD/tấn và119.65 cent/ibcùng
kỳ năm 1999. Vào những ngày đầu năm 2001, giá rosbuta hợp đồng tháng 1/01
ở mức 665 USD /tấn và arabica hợp đồng tháng 3 ở mức 63.45cent/lb.
Năm 2000 - nghành cao su thế giới còn nhiều nhức nhối
Từ sau cuộc khủng hoảng thế giớichâu á tháng 7/97,thị trờng cao su thế
giới đã trải qua gần 4 năm suy yếu - qua dài so với một chu kỳ bình thờng một
năm rỡi. Sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng, giá cao su giảm khoảng 40% so với
trớc đó do sự mất giá tiền tệ của các nớc sản xuất cao su tự nhiên, đặc biệt là
đồng rupiad của Inđonêsia đã giảm hơn 70% so với USD, còn đồng bạt Thái
Lan, đồng ringgit của Malaixia giảm giá khoảng 30%. Năm 2000, thị trờng cao
su dờng nh đứng yên ở mức thấp nh năm 1999 (mức thấp sau 30 năm); đặc biệt
sau sự tan rã của INRO - tổ chức duy nhất có chức năng bình ổn giá thị trờng
cao su thế giới - từ 13/10/99. Vấn đề tồn đọng của tổ chức này là giải quyết số
cao su dự trữ 138000 tấn mà họ đã mua của các nớc trớc đó. Dù hội đồng INRO

20



đã quyết định sẽ bán hết cao su dự trữ hết 30/6/01. Giá cao su RSS3 Thái Lan
trung bình trong năm 2000là 65 - 67 cents/kg và mức cao nhất là 71 cents/kg, tơng đơng với giá cuối năm 99, đầu năm 2000. Tuy nhiên cao su SIR20của
Inđônêsia và SMR20 của Malaisia lại giảm nhiều so với mức trung bình 70 72cents/kg cuối năm 1999 còn khoảng 60 - 62 cents cuối năm 2000. Giá cao su
kỳ hạn Tokyo đã từng tăng tới mức trên 93yên/kg, cao hơn nhiều so với năm 99
nhờ hoạt động đàu cơ nhng cuối năm lại giảm còn khoảng75 - 76 yên/kg. Thị trờng cao su thế giới trông chờ nhiều vào thị trờng cao su Trung Quốc.
Nhìn lại thị trờng gạo thế giới năm 2000
Năm 2000 là một năm đầy sóng gió trên thị trờng gạo. Giá gạo tất cả các
xuất xứ đều giảm, mặc dù các nớc xuất khẩu rất nỗ lực tìm kiếm thị trờng. Nhu
cầu gạo của các nớc nhập khẩu lớn nh Inđônêsia, Bănglađét, Brax..hạn chế nhập
bởi sản lợng gạo của các nớc này đã phục hồi sau hai năm mất mùa và các chơng trình hỗ trợ gạo của các nớc đó. Các nớc này đã tuyên bố có khả năng tự
cung cấp. Ngoài Thái Lan và Việt Nam, Trung Quốc nổi lên là một đối thủ đáng
gờm. Gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng tên thị trờng Châu Phi và Nhật Bản.
Không chỉ có Thái Lan và Việt Nam, gạo Mỹ cũng đang trong tình trạng bị cạnh
tranh gay gắt. Achgentina, Braxin và Urugoay đều tham gia vào thị trờng thế
giới. Chính phủ ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo dự trữ vào cuối năm
2000 để lấy kho dự trữ gạo mới. Việc này càng gây sức ép tới thị trờng thế giới.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam rơi vào thế bí trong những tháng cuối năm 2000.Vì
mặc dù giá gạo quốc tế giảm, song nông dân không chịu giảm giá vì chi phí sản
xuất cao mà lợng dự trữ không nhiều. Xuất khẩu gạo đã giảm nhiều trong năm
2000 so với năm 1999, chỉ đạt 3.5 triệu tấn .
III/ Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nông
sản Việt Nam trong quá trình hội nhập
1. Giải pháp về chiến lợc sản phẩm:
Nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả sản xuất
nông sản là do chất lợng còn thấp, khối lợng không ổn định, chất lợng không
đồng đều, phân tán nhỏ bé, mẫu mã cha hấp dẫn và giá còn cao.
Cần xác định và quy hoạch đầu t đồng bộ các vùng sinh thái sản xuất, tập
trung tạo ra nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu: vùng lúa gạo chất lợng cao
khoảng 1 triệu ha ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 300 ngàn ha ở Đồng bằng
sông Hồng sẽ tạo ra 70% gạo xuất khẩu có chất lợng cao. Tiếp đến là vùng cà

phê thâm canh ở Tây Nguyên, Đông nam bộ và Trung bộ khoảng 300 ngàn ha;
vùng cao su Đông nam bộ, Tây Nguyên và Trung bộ khoảng 700 ngàn ha; vùng
chè phía Bắc khoảng 700 ngàn ha; vùng điều duyên hải miền Trung, Đông nam
bộ khoảng 300 ngàn ha...Trên cơ sở quy hoạch các vùng sinh thái này mà tiến
hành xây dựng các dự án phát triển từng mặt hàng, ngành hàng để thu hút vốn
đầu t, và trên từng vùng cụ thể cần có chính sách u tiên sát thực để khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế vùng. Phát triển sản xuất

21


nông sản hàng hoá theo vùng sinh thái có ý nghĩa nâng cao phẩm cấp, chất lợng
sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh.
Mặt khác, nâng cao đầu t và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trớc
mắt cũng nh lâu dài cần nghiên cứu lai tạo giống. Hiện nay đã đa trên 100 loại
giống lúa khác nhau vào gieo trồng. Do yêu cầu của thị trờng thế giới là hạt dài
(trừ trờng hợp Nhật Bản mua hạt tròn nhng không nhiều) nên cần có giống đáp
ứng theo tiêu chuẩn hạt gạo dài 70 mm; chiều dài/chiều rộng > 3; nấm bạc bụng
cho phép từ 0 đến 1mm. Đối với cà phê cần thực hiện thay thế cơ bản các số cây
cho năng suất thấp, quả nhỏ và bị bệnh gỉ sắt bằng cây đầu dòng đã đợc đánh
dấu tốt. Trong vòng 10 năm nữa phải tạo ra đợc cơ cấu 2 cà phê vối - 1 cà phê
chè cải thiện điều kiện hiện nay là 95% cà phê vối mà chỉ có 5% cà phê chè.
Tiếp tục tạo giống cà phê arabica và giống lai mới. Đối với cao su, quan trọng là
cải tạo vờn cao su đã già, thanh lọc giống đồng thời tuyển chọn giống cao su
cho vùng trồng mới. Trớc mắt cần nâng cao độ đồng đều sản xuất của các hộ
trong vùng vì sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất của chất lợng sản phẩm. Ước tính
tác động của sự nâng cao đồng đều sản xuất của các hộ sẽ nâng cao hiệu quả
sản xuất xuất khẩu lên tới 15 đến 20%. Đa đến hiệu quả theo quy mô, các vùng
chuyên canh thiết lập một hệ thống thu mua hiệu quả, giảm chi phí một trong
những cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của nông phẩm hiện nay.

2. Giải pháp tiêu thụ sản phẩm:
Dới sức ép của toàn cầu hoá, các nớc ít nhiều phải tái tạo cấu trúc thị trờng theo hớng mở, giảm hàng rào thuế quan, cắt giảm bảo hộ...Lúc này yếu tố
cạnh tranh sẽ quyết định yếu tố tiêu thụ sản phẩm. Do đó, để tăng sức cạnh
tranh chúng ta cần có một giải pháp thị trờng đồng bộ cho việc tiêu thụ nông
phẩm hiện nay. Đây là điều rất cần thiết cho sự duy trì phát triển và đa vị trí
vững chắc cho nông phẩm Việt Nam.
a) Giải pháp liên quan đến vốn đầu t cho sản xuất:
Từ lý luận tuần hoàn chu chuyển t bản của Marx cho thấy quá trình vận
động của bất kỳ hình thái giá trị nào đều phải trải qua 3 giai đoạn: mua, sản xuất
và bán, với 3 chức năng: chuẩn bị cho các yếu tố của các quá trình sản xuất - tạo
ra giá trị thặng d - thực hiện giá trị thặng d, với 3 hình thái tiền tệ - hình thái sản
xuất - hình thái hàng hoá, rồi quay lại hình thái ban đầu với số lợng lớn hơn. Để
cho lhình thái giá trị đó có thể vận động trôi chảy thuận lợi và quay trở về với
hình thái ban đầu với số lợng lớn hơn thì nhất thiết trong quá trình vận động nó
phải lần lợt thực hiện 3 giai đoạn với 3 chức năng chứ không dừng lại ở một giai
đoạn nào, hay thiếu một giai đoạn nào cả. Yêu cầu của quá trình tuần hoàn là
làm cho việc thực hiện phải chia vốn đầu t làm 3 phần để tiến hành 3 giai đoạn.
Tuy nhiên trong thực tế sản xuất hàng nông nghiệp ở nớc ta, bà con nông dân
với số vốn ít ỏi của mình, thờng chỉ đảm bảo vốn cho 2 giai đoạn đầu còn ở giai
đoạn bán thờng là thiếu vốn hay không tính toán trớc, không dự liệu trớc. Vì thế
hàng hoá nông sản thờng bị ứ đọng, không tiêu thụ kịp thời, hoặc bị t thơng ép
giá, hoặc không có thị trờng tiêu thụ.

22


Giải quyết vấn đề này tất yếu liên quan đến cơ cấu vốn và cách thực cho
nông dân vay vốn. Việc cho vay theo các món hiện nay dựa trên dự án sản xuất.
Nay cần phải mở rộng vay ở 3 giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn bán phaỉ dựa vào
phơng án tiêu thụ sản phẩm. Các chi phí cho tiêu thụ sản phẩm nh: quảng cáo,

bao bì, vận chuyển, thuê kho... cần đợc hoạch toán và trở thành đối tợng cho
vay. Có nh vậy vốn bỏ ra cho sản xuất mới quay về điểm xuất phát với khối lợng
lớn hơn.
b)Giải pháp về thị trờng:
Sản xuất hàng hoá phát triển phụ thuộc nhiều vào thị trờng tiêu thụ. Muốn
có thị trờng tiêu thụ đặc biệt là thị trờng ngoài nớc, phải đổi mới công nghệ chế
biến, nâng cao chất lợng sản phẩm nhằm đảm bảo đợc tính cạnh tranh của nông
sản. Có nh nông sản mới bán đợc, ngợc lại sẽ bị ế. Vì thế, giải pháp cơ bản là
nghiên cứu thị trờng, nắm chắc thị trờng tiêu thụ hớng vào xuất khẩu. Giả pháp
này nằm ngoài khả năng của bà con nông dân, nên nhà nớc và các cơ quan xuất
khẩu có trách nhiệm tìm kiếm thị trờng ổn định, kí thác hợp đồng dài hạn, nhất
là các hợp đồng cho cây công nghiệp dài ngày, có nh vậy bà con nông dân mới
yên tâm sản xuất. Bằng cách đa dạng hoá các kênh và các cấp độ lu thông, để
hàng hoá lu chuyển nhanh nhất, chi phí thấp nhất từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng.Thơng mại trung gian cần hớng dẫn sản xuất (bao gồm: trợ vốn, khoa học
- công nghệ cho sx, bao tiêu sản phẩm). Trong cấu trúc thị trờng đa dạng nói
trên, coi trọng mô hình đặc thù - tụ điểm thơng mại ở nông thôn. Sự gắn kết các
chợ nông thôn, các tụ điểm kinh tế để từng bớc hiện đại hoá thị trờng thông qua
hình thức phát triển các cụm kinh tế - văn hoá - kỹ thuật - thơng mại - dịch vụ
cho các vùng sản xuất hàng hoá và các cơ sở chế biến bảo quản.
Đối với vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu thì tổ chức xây dựng
mô hình gắn kết cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu.
Mặt khác cần bảo vệ thị trờng trong nớc, vì đại đa số sản lợng hàng hoá
tiêu thụ trong nớc. Đối với hàng nông sản phải nhập khẩu về với số lợng cần
thiết để tránh tình trạng nhập ồ ạt và quá nhiều dẫn đến rối loạn thị tr ờng trong
nớc, hoặc chèn ép nông sản trong nớc. Chẳng hạn việc nhập đờng, muối, trứng
gà Trung Quốc làm cho bà con nông dân thiệt hại về giá, thấp hơn chi phí sản
xuất, có nơi bà con bị vỡ nợ bỏ đi nơi khác làm ăn.
c) Giải pháp hỗ trợ sản xuất đối với sản xuất nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp xa nay vốn phải chịu nhiều rủi ro khách quan: thiên

tai, dịch hoạ, sâu dày, sự khăc nghiệt của thời tiết. Vì thế, hơn bất cứ nghành nào
khác, nông nghiệp rất cần sự hỗ trợ của nhà nớc trong nhiều tình huống. Trong
những năm qua, nhà nớc đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp
nh: miễn thuế nông nghiệp hay gia hạn nộp thuế khi có thiên tai, áp dụng lãi
suất u đãi với một số cay con, xác định giá sàn thu mua lúa cho nông dân trên
cơ sở bù đắp chi phi và có lãi hợp lý. Biện pháp định giá sàn bảo đảm cho nông
dân một sự an tâm trong khâu tiêu thụ và giúp họ sự lựa chọn khi tiến hành sản
xuất.Tuy nhiên, nguồn vốn ngân sách nhà nớc còn hạn hẹp nên nhà nớc mới chỉ
áp dụng với cây lúa song hiệu quả cha cao. Vì nguồn lợi lớn rơi vào tay trung
gian. Cần huy động vốn từ nhiều hớng, nhiều thành phần kinh tế để xây dựng

23


các quỹ bảo hiểm sản xuất cho nông dân. Quỹ này giúp cho nông dân thêm
nguồn vốn khi gặp rủi ro. Chẳng hạn quỹ bảo hiểm cho xuất khẩu đợc hình
thành từ việc đóng góp của doanh nghiệp xuất khẩu có lãi và sự hỗ trợ ban đàu
từ ngân sách nhà nớc. Quỹ dùng để hỗ trợ trực tiếp cho ngời sản xuất và ngời
xuất khẩu khi gặp khó khăn. Đây là loại hình hợp lý cần đợc mở rộng
d) Giải pháp về mô hình tiêu thụ nông sản:
Từ mô hình sản xuất mía đờng của Lam Sơn (Thanh Hoá) và sản xuất
xuất thu mua bông của Tổng công ty Bông Việt Nam, chúng ta cần phát huy u
điểm và hạn chế nhợc điểm, sau đó nhân rộng mô hình này.
Tại Thanh Hoá, đã thành lập Hiệp hội mía đờng Lam Sơn, gồm có các
nhà máy sản xuất đờng, các nông trờng và các hộ nông dân trồng mía ở nhứng
vùng xung quanh. Quỹ của hiệp hội chủ yếu do nhà máy đờng, các nông trờng,
các hộ nông dân trồng mía đóng góp, nhà nớc chỉ hỗ trợ một phần. Quỹ này
dùng hỗ trợ các thành viên khi gặp rủi ro. Thông qua hiệp hội mà gắn liền quyền
lợi và trách nhiệm của các bên. Đó chính là nhân tố quan trọng góp phần đa đến
thắng lợi của những ngời trồng mía và nhà máy đờng Lam Sơn trong những năm

gần đây.
Tổng công ty Bông Việt Nam đã thực hiện sự liên kết chặt chẽ giữa ngời
trồng bông và sản xuất. Công ty đã ký hợp đồng ứng trớc giống phân bón cho
nông dân, sau đó đến vụ thu hoạch nông dân sẽ bán bông cho công ty với giá tối
thiểu là 5000 đồng/kg, nếu giá thị trờng xuống dới 5000 đồng/kg thì công ty vẫn
đảm bảo giá đó cho ngời nông dân, nếu giá thị trờng cao hơn thì công ty mua
theo giá thị trờng, nếu công ty không mua thì công ty đợc quyền bán ra thị trờng. Tổ chức mô hình tiêu thụ này nông dân yên tâm sản xuất và hàng hoá nông
sản có thị trờng tiêu thụ đảm bảo.
Trong thực tế, chúng ta đã xây dựng, quy hoạch sản xuất chuyên canh,
góp phần nâng cao năng suất, tăng nhanh sản lợng hàng hoá nông sản, nhng còn
bỏ trông khâu tiêu thụ khiến nông dân gặp nhiều khó khăn sau thu hoạch. Vì thế
việc xây dựng các mô hình tiêu thụ gắn liền với phân vùng, quy hoạch trong sản
xuất nông nghiệp là việc làm hết sức cần thiết.
e) Phát triển giao thông phục vụ tiêu thụ nông sản:
Giao thông nông thôn nớc ta còn kém phát triển, nhất là các vùng sâu
vùng xa. Hậu quả của nhiều vùng thiếu phơng tiện giao thông vận chuyển khó
khăn, bà con nông dân phải bán lúa non với giá thấp, hay để thóc tại ruộng
không bảo quản đợc khi gặp ma thóc nảy mầm, gây ra thua lỗ. Để giải quyết
việc này, nhà nớc và nông dân cùng nhau góp vốn và công sức theo phơng thức
(nhà nớc và nhân dân cùng làm) để xây dựng phát triển giao thông tạo điều kiện
giao lu hàng hoá, liên kết kinh tế giữa các vùng, nhờ đó mà mở rộng thị trờng
tiêu thụ.
f) Phát triển các loại hình công biến chế biến nông sản:
Việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản góp phần nâng cao sản lợng hàng hoá nông sản, kéo dài điều kiện tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho
nông dân có thể đa nông sản hàng hoá đến đợc thị trờng xa hơn lớn hơn. Tuy
nhiên, công nghiệp chế biến nông sản của ta hiện nay có trình độ thấp, thiết bị
24


cũ, công nghệ lạc hậu, chất lợng chế biến cha cao. Bên cạnh đó tồn tại một

nghịch lý là nhiều cơ sở chế biến cha sử dụng hết công suất, hầu nh chỉ phát huy
30 đến 40% công suất hiện có. Quy mô của doanh nghiệp chế biến nhỏ và có tới
90% số cơ sở chế biến nông thôn có quy mô hộ gia đình. Mặt khác do làm ra
chất lợng còn thấp thiếu khả năng cạnh tranh nhất là trên thị trờng thế giới. Sản
phẩm xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là sản phẩm thô nên giá xuất khẩu thờng
rất thấp.
Để khắc phục hạn chế này trớc hết thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong và ngoài quốc doanh ở nông thôn. Tiếp theo là hỗ trợ kỹ thuật chế biến,
trình bày mẫu mã cho các cơ sở chế biến hộ gia đình. Tìm kiếm thị trờng hỗ trợ
khâu vận chuyển và bao tiêu sản phẩm chế biến để qua đó khai thác tận dụng
hết công suất sẵn có. Động viên, khuyến khích hình thành đội ngũ các doanh
nghiệp kinh doanh chế biến, thơng mại dịch vụ ở nông thôn. Quy hoạch phát
triển sản xuất công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu nhất là các vùng
sản xuất hàng hoá tập trung.
3. Nhà nớc cần có chính sách vĩ mô về tỉ giá hối đoái:
Nhà nớc cần có chính sách vĩ mô về tỉ giá hối đoái thơng mại năng động
thích nghi tốt với các điều kiện trong nớc và thế giới đảm bảo phát huy cơ hội
nâng cao giá trị gia tăng của nông sản xuất khẩu. Không nên để tình trạng đánh
giá quá cao đồng nội tệ nh hiện nay. Trong những trờng hợp cần thiết, kết hợp
với các chính sách tài chính khá nhà nớc có thể thực hiện việc phá giá đồng nội
tệ để có khả tăng khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam so với
các nớc trong khu vực.
4. Tổ chức sở giao dịch hàng hoá - thị trờng có kỳ hạn với một số nông sản:
Nhà nớc nghiên cứu tổ chức thị trờng kỳ hạn đối với một số nông sản nh
gạo, cà phê, cao su để cho ngời sản xuất có thể tự bù đắp rủi ro mà không cần
đến các quỹ bảo hiểm nhà nớc. Việc này Việt Nam hoàn toàn có khả năng thành
lập và vận hành thị trờng có kỳ hạn, hay là sở giao dịch hàng hoá khi mà khối lợng các mặt hàng này lớn, và vị trí xuất khẩu của Việt Nam trên thị trờng thế
giới.
5. Giải pháp đối với các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp cần phải đầu t nghiên cứu giống cây trồng, áp dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào khâu chăm sóc, thu hoạch, đầu t vào công nghệ
chế biến nông sản, đầu t vào kho tàng bảo quản chất lợng nông sản trong quá
trình bảo quản và có đủ khả năng dự trữ cần thiết. Không nên ỷ vào lợi thế chi
phí đầu vào để cạnh tranh mà tính phơng án tăng chi phí để tăng chất lợng sản lợng để lợi về giá và mở rộng thị trờng.
Các doanh nghiệp cần tăng cờng hoạt động marketing cho hàng nông sản
trên cả 4 phơng diện: chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân
phối và xúc tiến.

25


×